Chủ Nhật, 3 tháng 12, 2023

Lật tẩy thủ đoạn “thao túng tâm lý” của các thế lực thù địch, phản động

    

        “Thao túng tâm lý” là một trong những thủ đoạn chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, phản động, tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do vậy, nhận diện và phòng, chống thủ đoạn “thao túng tâm lý” có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng tâm lý, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động hiện nay.

Nhiều biểu hiện tinh vi của thủ đoạn “thao túng tâm lý”

Với mục tiêu làm mục ruỗng tâm lý xã hội, đảo lộn đời sống tâm lý, tinh thần của nhân dân, các thế lực thù địch, phản động sử dụng nhiều chiêu trò, thủ đoạn tinh vi, ở mọi lúc, mọi nơi, len lỏi vào từng người, từng nhóm xã hội nhằm “lung lạc” nhận thức, “gặm nhấm” tình cảm, điều khiển ý chí và hành động, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. “Thao túng tâm lý” là một thủ đoạn điển hình như vậy.

“Thao túng tâm lý” là cách thức tác động tâm lý nhằm ảnh hưởng, chi phối, kiểm soát nhận thức, cảm xúc, hành vi của người khác theo một mục đích nào đó. Nhờ triệt để lợi dụng các quy luật, đặc điểm tâm lý, cách thức này có thể kiểm soát, điều khiển tâm lý con người diễn biến theo chiều hướng nhất định. Cơ chế “thao túng tâm lý” diễn ra theo nhiều kênh tác động khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là kênh thông tin. Bằng số lượng, nội dung và cách đưa thông tin đến người tiếp nhận, có thể kiểm soát, điều khiển được nhận thức, cảm xúc, hành vi của người đó.

Ở nước ta, theo thống kê, đến nay có khoảng 77 triệu người dùng mạng xã hội (MXH), tương đương 78,1% dân số, chiếm 97,8% dân số từ 13 tuổi trở lên, trong đó người dùng Facebook là 70,4 triệu người. Theo đó, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng cơ chế “thao túng tâm lý” và đặc tính của MXH để thao túng, kiểm soát tâm trí con người. Có thể chỉ ra một số cách thức của thủ đoạn “thao túng tâm lý” mà các thế lực thù địch, phản động đã và đang tiến hành.

Đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bịa đặt. Thông qua các trang web, blog, các trang MXH như: Facebook, Zalo, YouTube, TikTok... chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng công cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, hòng hạ uy tín của cán bộ, phá vỡ khối đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội, chia rẽ Đảng với nhân dân. Chúng thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây rối an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Giả mạo thông tin. Chúng lập những tài khoản giả mạo trên MXH, website giả mạo các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương, những người có uy tín, nhân vật nổi tiếng trong xã hội, qua đó đưa tin bịa đặt, gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội, nhất là trước những vấn đề nhạy cảm.

Lèo lái thông tin. Chúng sử dụng các website, dịch vụ thư điện tử (e-mail) và các trang MXH để lèo lái thông tin. Cách thức tiến hành của chúng thường là tổng hợp tin tức từ các báo chính thống để tạo ra sự khách quan, sau đó cài những thông tin xấu độc theo tỷ lệ tăng dần cả về số lượng và mức độ bịa đặt, bóp méo sự thật. Cùng với đó là những phân tích, bình luận tưởng như khách quan nhưng thực chất là tạo ra “bẫy thông tin” khiến người tiếp nhận dễ bị dẫn dắt theo mưu đồ xấu của chúng.

Tung tin đồn, gây kích động, chia rẽ. Lợi dụng những sự kiện nhạy cảm liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, công tác cán bộ... chúng tung tin thất thiệt trên các trang MXH gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp. Các tin đồn tác động mạnh vào cảm xúc, kích động những nhóm đối tượng thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ để tạo sức mạnh chống phá.

Tác động tiêu cực, hệ lụy khôn lường

Một là, tác động đến nhận thức, quan điểm, lập trường chính trị. Do triệt để lợi dụng tính tò mò, tâm lý “thích giật gân” và các quy luật thuần tâm lý như: Cảm nhiễm, a dua, ám thị, bắt chước... thủ đoạn “thao túng tâm lý” dễ tác động đến nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Trước những thông tin xuyên tạc, bịa đặt đến dồn dập, những phân tích, bình luận xuất hiện như “nấm mọc sau mưa” dễ đưa người khác vào trạng thái hỗn loạn thông tin. Trạng thái đó khiến nhận thức của con người có thể đi từ phân vân đến hoài nghi, mơ hồ, từ đó dễ làm xói mòn quan điểm, lập trường chính trị.

Hai là, tác động đến cảm xúc, thái độ và niềm tin. Thông tin xuyên tạc, bịa đặt thường liên quan trực tiếp đến nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của người dân và lợi dụng tác động của dư luận xã hội nên thủ đoạn “thao túng tâm lý” dễ tác động đến cảm xúc, thái độ, niềm tin của quần chúng nhân dân. Dưới tác động của thủ đoạn “thao túng tâm lý”, thái độ của con người có thể chuyển biến từ hoài nghi, hoang mang, dao động đến bất bình, phẫn nộ, phản đối, thậm chí là chống đối, bất hợp tác, mất niềm tin.

Ba là, tác động đến hành vi, hành động. Khi đã kiểm soát được nhận thức, cảm xúc, thái độ, thủ đoạn “thao túng tâm lý” còn trực tiếp kích thích, thúc đẩy những hành vi, hành động tiêu cực của con người. Các thế lực thù địch, phản động thường xuyên tổ chức đăng tải, tán phát các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video phỏng vấn theo hướng kích động những nhân sĩ, trí thức trong nước có tư tưởng bất mãn chính trị. Đối với quần chúng nhân dân, chúng triệt để lợi dụng bộ phận thiếu hiểu biết, thiếu thông tin hoặc bị kẻ xấu lôi kéo, mua chuộc, nhất là dân tộc ít người, đồng bào tôn giáo nhẹ dạ, cả tin bị chúng kích động, lừa gạt, thúc ép buộc tham gia các cuộc tụ tập gây rối, biểu tình, tạo thành “lực lượng đối trọng”, gây áp lực với hệ thống chính trị các cấp.

Tạo “bức tường thành” vững chắc phòng, chống thủ đoạn “thao túng tâm lý”

Mục tiêu của thủ đoạn “thao túng tâm lý” dù xem xét dưới góc độ nào: Tâm lý hay chính trị, trước mắt hay lâu dài, ngấm ngầm hay công khai đều mang tính chất phản nhân văn, đi ngược lại những giá trị tốt đẹp của con người. Thực chất đó là một trong những thủ đoạn của cuộc chiến tranh tâm lý, cuộc chiến chống lại con người.

Để phòng, chống có hiệu quả thủ đoạn này, giải pháp hàng đầu là quan tâm xây dựng sự vững vàng về tâm lý cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. “Vững vàng tâm lý” thể hiện ở kiến thức, quan điểm và niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ; là khả năng kịp thời nhận diện, phản bác thông tin xấu độc, bịa đặt, thủ đoạn tuyên truyền chính trị của kẻ thù; khả năng nắm vững quan điểm chính trị trong ứng xử các vấn đề xã hội. “Vững vàng tâm lý” hoàn toàn khác với các hiện tượng “đứng ngoài chính trị”, “thờ ơ chính trị”.

Từ thủ đoạn “thao túng tâm lý”, các thế lực thù địch luôn tiến công vào những nơi mà ý thức của con người mù mờ nhất, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân, đánh vào những nhu cầu, mong muốn, ước vọng không được thỏa mãn của con người. Để có được sự “vững vàng tâm lý”, cần hạn chế, thu hẹp đến mức nhỏ nhất những “mảnh đất màu mỡ” cho thủ đoạn này.

Thực tế cho thấy, nếu không tích cực ngăn chặn, bài trừ tệ nạn và tiêu cực xã hội, làm lành mạnh môi trường xã hội hiện nay thì các nọc độc “thao túng tâm lý” sẽ lan truyền hết sức nhanh chóng. Đây chính là cơ hội cho thế lực thù địch, phản động lợi dụng, gieo rắc sự hoài nghi, dao động, hoang mang, bi quan, mất niềm tin trong nhân dân. Chúng đang chờ đợi quá trình “tự tha hóa”, “tự biến chất”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để tiếp tục gia tăng những tác động “thao túng tâm lý”. 

Trong bối cảnh thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, cần chủ động, kịp thời cung cấp, định hướng, kiểm soát thông tin và định hướng dư luận xã hội. Việc chậm trễ thông tin và sự thiếu chủ động trong việc định hướng dư luận xã hội đã làm nảy sinh ở quần chúng nhân dân những biểu hiện bất lợi về tâm lý, tư tưởng; ở mức độ đơn giản là những đồn đoán tùy tiện, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào luật pháp và bộ máy công quyền; ở mức độ phức tạp còn làm cho một số người có thái độ ngờ vực, thậm chí thay đổi quan điểm chính trị.

Vì vậy, trước những sự kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... nhất là những sự kiện phức tạp, nhạy cảm thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội, các cơ quan chức năng cần thông tin kịp thời, chính xác cho công chúng và định hướng suy nghĩ, hành động theo hướng có lợi cho Đảng, Nhà nước và nhân dân. 

Việc làm cần thiết hiện nay là nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát, quản lý thông tin, phòng, chống tin giả, tin đồn, thông tin xấu độc trên không gian mạng. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, xác minh, điều tra, truy vết và xác định các hành vi, đối tượng vi phạm các quy định về thông tin sai trái, xuyên tạc để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Giải pháp căn cơ là chăm lo xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Ngày nay, khi mục tiêu "đầu độc" và chiếm lĩnh tâm hồn con người đang và sẽ là mục tiêu chủ yếu của các thế lực thù địch, phản động thông qua thủ đoạn “thao túng tâm lý” thì việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh càng có ý nghĩa quan trọng. Môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức chống lại những tác động của thủ đoạn “thao túng tâm lý” cần phải tạo được những rung động, những trạng thái cảm xúc tích cực ở đội ngũ cán bộ, đảng viên và người dân về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như những giá trị ưu việt của chế độ XHCN.

Cùng với đó, xây dựng lòng tự hào của mỗi người dân về nền văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, quán triệt và thực hiện tốt lời chỉ dẫn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ chức ngày 24-11-2021 tại Hà Nội: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân-thiện-mỹ.

Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước”. Xây dựng chính sách phù hợp để khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất các sản phẩm có giá trị văn hóa, tinh thần phục vụ nhu cầu của nhân dân theo phương châm “lấy xây để chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, "lấy tích cực để đẩy lùi tiêu cực".

Sưu tầm

Chủ động đấu tranh làm thất bại thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

 


Trước hết, về mặt nhận thức, tư tưởng, cần xác định rõ: CNĐQ, các thế lực thù địch là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Họ đã và đang tiến hành chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Do đó, chống “Diễn biến hòa bình” thực sự là “cuộc chiến” không khoan nhượng, diễn ra hằng ngày, hằng giờ, hết sức quyết liệt, phức tạp. Trong đó, đối tượng mà họ nhằm vô hiệu hóa, trước hết “phi chính trị hóa” là lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là QĐND và Công an nhân dân. Đây là lực lượng có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mục tiêu của họ nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất chỗ dựa vững chắc, mất vai trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Và, một khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị vô hiệu hóa, bị xóa bỏ, thì tất nhiên chế độ XHCN sẽ sụp đổ. Để hiện thực hóa mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và đạt mục tiêu nêu trên, các thế lực thù địch sử dụng mọi lực lượng, phương tiện, tiền bạc, vật chất và tiến hành bằng mọi biện pháp, mọi “chiêu bài” xảo quyệt, tinh vi, thâm độc, nhưng nhìn chung các hoạt động diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Nội dung mà họ tập trung tuyên truyền chống phá là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Quân đội ta từng bước rời bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, để chống mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đạt hiệu quả cao thì trước hết và quan trọng nhất là phải chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, cốt yếu là nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, cả lực lượng, phương tiện, vật chất đảm bảo,… với phương pháp tiến hành (cách thức) linh hoạt, chủ động và có hệ thống giải pháp đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong “cuộc chiến” quyết liệt này.

Về lực lượng, cần có lực lượng đấu tranh rộng rãi là toàn dân và lực lượng nòng cốt được tổ chức thành hệ thống trong các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị, Mặt trận Tổ quốc từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là các viện, trung tâm nghiên cứu, học viện, nhà trường…; trong đó, Quân đội, Công an đóng vai trò xung kích của lực lượng nòng cốt. Những người trong lực lượng nòng cốt phải gồm các nhà nghiên cứu, khoa học có trình độ lý luận chính trị cao, kiến thức rộng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu kinh nghiệm viết bài đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội.

Về phương tiện, gồm các phương tiện truyền thông, đấu tranh trên in-tơ-nét, các trang mạng xã hội, Blog,… kết hợp với các phương thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, phù hợp với tình hình và đối tượng. Đối với các cơ quan báo chí, cần có sự chỉ đạo chặt chẽ, định hướng kịp thời, phân công và phân cấp tuyên truyền về các sự kiện một cách phù hợp; trong đó báo chí quân đội phải là lực lượng nòng cốt, xung kích trong đấu tranh chống quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội.

Về phương pháp đấu tranh, cần phải chủ động, linh hoạt, tránh thụ động khi có sự việc phức tạp xảy ra mới tổ chức tuyên truyền, đấu tranh. Quá trình thực hiện phải coi trọng đấu tranh trực diện, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, hòng làm phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu của Quân đội, hoặc kích động gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ giữa Quân đội với Công an và Đảng, Nhà nước. Cần kết hợp đấu tranh tuyên truyền chống các luận điểm “phi chính trị hóa” quân đội một cách thường xuyên với tuyên truyền theo đợt (cao điểm), nhất là vào thời điểm tổ chức các sự kiện lớn của đất nước và Quân đội.

Về chính sách và cơ chế, cần có chính sách, cơ chế hợp lý nhằm động viên, khuyến khích và bảo vệ những người viết bài đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, trong đó có “phi chính trị hóa” quân đội. Đồng thời, có cơ chế cung cấp thông tin, định hướng tuyên truyền kịp thời và quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chỉ đạo, quản lý báo chí và sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí trong và ngoài Quân đội để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

V3.

Chủ động, đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh

 


Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo ở nước ta không ngừng được cải thiện, nâng lên, đồng bào có đạo và nhân dân tích cực tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Các lực lượng chức năng đã kịp thời giải quyết bức xúc trong cộng đồng các tôn giáo và nhân dân, ổn định an ninh trật tự tại địa bàn, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân; xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật; tranh thủ được sự ủng hộ của đa số quần chúng và đồng bào các tôn giáo. Các bộ, ngành chức năng và các địa phương đã chủ động rà soát hệ thống pháp luật về tôn giáo hiện hành, xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung, phù hợp thực tế; tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đồng thời, chủ động tuyên truyền đối nội kết hợp với tuyên truyền đối ngoại nhằm tuyên truyền mạnh mẽ về thành tựu của ta trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu, thông tin xuyên tạc tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở trong nước, vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền.   

Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo để phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi công tác này phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Trong đó, tiếp tục chú trọng xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cấp cơ sở vững mạnh, trong sạch, thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi ích chung của đất nước; kiên quyết chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo.

Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; giải quyết kịp thời các nguyện vọng chính đáng của đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở pháp luật. Tiếp tục bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc của các dân tộc; quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; trong đó, tập trung xây dựng các khu vực phòng thủ; xây dựng LLVT nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững an ninh trật tự tại địa phương.

Các ban, bộ, ngành chức năng cần tiếp tục chủ động, thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân, tín đồ, chức sắc tôn giáo về chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo và âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá ta thông qua nhiều kênh, bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú khác nhau; làm cho tín đồ, chức sắc và người dân hiểu rằng, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật cũng là bảo vệ tôn giáo chân chính và quyền lợi của chính họ. Để từ đó khuyến khích, thúc đẩy nhân dân, tín đồ, chức sắc tự giác tham gia vào công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng tự do tôn giáo vi phạm pháp luật của kẻ địch. Làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện, phối hợp giải quyết kịp thời, dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” liên quan đến dân tộc, tôn giáo, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Chú trọng đẩy mạnh công tác vận động quần chúng và tranh thủ chức sắc tôn giáo, phát huy tác dụng của các đoàn thể tôn giáo yêu nước. Kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành vi phát triển các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, tà đạo, đạo lạ, kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng tự do tôn giáo để xuyên tạc, chống phá Việt Nam.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và đấu tranh đối ngoại; thông qua các phương tiện thông tin truyền thông, qua kênh ngoại giao, hợp tác quốc tế, làm cho các nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế giới hiểu đúng, hiểu đầy đủ về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, kết quả xử lý những vụ việc, đối tượng lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật Việt Nam. Đặc biệt, cần tuyên truyền tới đông đảo quần chúng trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng bản chất hoạt động vi phạm pháp luật của các đối tượng lợi dụng tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua. Vận động nhân dân tích cực ủng hộ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; góp phần đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của những phần tử xấu.

V3.

 

Lật tẩy bản chất của tổ chức "Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời"

 Với các hoạt động chống phá nhằm lật đổ chính quyền, phá hoại sự ổn định phát triển của đất nước bằng bạo động, vũ trang, tháng 1/2018, Bộ Công an đã thông báo "Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời" là một tổ chức khủng bố.

Cạm bẫy từ những “bả thông tin”

 


Tôi quen một bác cán bộ đã nghỉ hưu, từng có nhiều năm công tác và có những đóng góp nhất định tại một bộ nọ. Thời gian gần đây, bác liên tục thể hiện trên facebook một trạng thái tâm lý và những phát ngôn tiêu cực về thực trạng đất nước. Theo cách nhìn của bác thì bất cứ lĩnh vực nào của Việt Nam cũng "rất tệ hại". Với những thành tựu trong phát triển kinh tế thì bác cho rằng số liệu không đúng. Với kết quả rõ ràng của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, bác lại cho rằng đó chẳng qua là đấu đá trong nội bộ Đảng. Hay kể cả niềm vui sau những thành công vang dội của bóng đá Việt Nam, bác cũng lắc đầu bảo là do ăn may. Quan sát cách cán bộ nghỉ hưu này thu thập, tiếp nhận thông tin, tôi phần nào lý giải được tại sao bác lại có một thế giới quan nhiều màu xám. Ấy là do bác chủ yếu chỉ tiếp nhận thông tin qua mạng xã hội facebook, youtube, những trang thông tin mù mờ trên mạng, hoặc những trang thông tin của các tổ chức, đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước. Bác nhầm lẫn cho rằng, những trang thông tin ấy "dám nói thẳng, nói thật" vào những vấn đề mà các cơ quan báo chí chính thống không dám đề cập. Đáng lo ngại là không chỉ các cán bộ đã nghỉ hưu mà ngay cả những cán bộ đang đương chức nếu không tỉnh táo, không có bản lĩnh vững vàng thì cũng rất dễ bị lừa phỉnh, bị ăn phải "bả thông tin".

Mấy ngày gần đây, liên quan đến sự việc cơ quan công an bắt bà Trương Mỹ Lan, Chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, xuất hiện những tin đồn, những lời xì xầm to nhỏ, những thuyết âm mưu là vụ việc liên quan đến vị lãnh đạo này, quan chức kia, rồi những sự đổ vỡ... Các thông tin được thổi phồng, cắt ghép, khớp nối có vẻ hợp lý, nếu người nghe thiếu hiểu biết, không đủ bản lĩnh thì rất dễ mắc bẫy, sẽ tin vào những thông tin xuyên tạc đó. Khi hỏi những người lan truyền thông tin là họ nghe thông tin từ đâu, thì họ nói rằng nghe trên đài, trên báo. Hỏi kỹ hơn là: “Đài, báo nào?” thì họ kể ra một loạt cái tên, hóa ra lại là toàn các trang mạng điện tử chuyên đưa thông tin phản động, các trang thông tin mù mờ không rõ ràng về nguồn gốc. Mặc dù trên Đài Truyền hình Việt Nam đã có những lãnh đạo đầu ngành trả lời rất rõ ràng về các vấn đề liên quan đến vụ việc này, thế nhưng vẫn có người bán tín, bán nghi, vẫn xì xào về các thông tin mù mờ trên mạng mà mình xem, nghe được.

Những người tiếp nhận và tin theo các thông tin mù mờ trên mạng là hết sức ngây thơ. Bởi họ không biết, hoặc biết không đầy đủ rằng các tổ chức khủng bố, phản động như Việt Tân, Hội anh em dân chủ... thiết lập rất nhiều website, blog, facebook, youtube, mở nhiều diễn đàn, câu lạc bộ nhằm tán phát các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video clip có nội dung xấu, độc. Một số cơ quan báo chí của phương Tây như RFA, BBC Việt ngữ, hay các trang thông tin do một số đối tượng có tiền án, tiền sự, chống đối Đảng, Nhà nước ta lập ra như thoibao.de... thường xuyên đăng tải, tung những thông tin sai sự thật, xuyên tạc nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phạm vi của các thông tin xuyên tạc là rất rộng, các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đối ngoại, quốc phòng, an ninh... đều là "chiến địa" của chúng. Đối tượng công kích của chúng rất đa dạng từ các cơ quan Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành địa phương, cơ quan, đơn vị cho tới các tổ chức chính trị-xã hội, từ lãnh đạo cấp cao cho tới cả các nghệ sĩ, nhà báo, doanh nhân, người nổi tiếng đều có thể trở thành mục tiêu của họ... Đến cả việc Việt Nam vừa trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua phiên bỏ phiếu tại Đại hội đồng Liên hợp quốc một cách dân chủ, công khai, khách quan, chứng tỏ uy tín cao của Việt Nam trên trường quốc tế thì trên trang facebook của mình, tổ chức Việt Tân vẫn trơ trẽn xuyên tạc rằng kết quả trên chứng tỏ Việt Nam đã hoàn toàn lệ thuộc vào một nước khác (!?)...

Nhìn chung những thông tin xấu, độc đều có một mục đích là bôi đen hiện thực Việt Nam; thổi phồng những hạn chế, khiếm khuyết trong quá trình lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; xuyên tạc về cán bộ, về công tác nhân sự; phóng đại những tiêu cực trong xã hội; bóp méo các chủ trương, chính sách, luật pháp hòng gây rối tình hình đất nước; kích động, chia rẽ nội bộ, ảnh hưởng đến uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội... Từ đó tạo ra nhận thức sai lệch về hiện thực theo chiều hướng xấu, hình thành tâm lý chán ghét, phẫn nộ, thậm chí căm thù chế độ và bộ máy chính quyền các cấp.

Thông qua mạng xã hội, các phần tử xấu, cơ hội chính trị cũng điên cuồng chống phá, không từ một thủ đoạn nào, từ xuyên tạc sự thật lịch sử cho đến tìm mọi cách hạ thấp uy tín, bôi nhọ lãnh tụ Đảng ta, bài bác, hòng phủ nhận giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Các thế lực thù địch còn ra sức rêu rao: Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là điều kiện cần thiết để thực thi dân chủ ở Việt Nam, để chống tham nhũng có hiệu quả, để bảo đảm đất nước phát triển; rằng lựa chọn con đường cách mạng vô sản, đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm của dân tộc ta...

Thông thường thì những thông tin xấu, độc này lại được đăng tải dưới những chủ đề khá hấp dẫn và thu hút người đọc, bởi nó khơi gợi sự tò mò và tâm lý phản kháng, bất mãn trước những tiêu cực của một bộ phận cán bộ, quan chức. Những thông tin như vậy thường có tính kích động, tạo cảm xúc tiêu cực cho người đọc. Những kẻ thực hiện các thông tin xuyên tạc cũng rất tinh vi trong việc đưa thông tin. Thường thì chúng đưa khoảng 6-7 phần là sự thật, rồi cài 3-4 phần là xuyên tạc, suy diễn với các thuyết âm mưu vào để dẫn dắt người đọc, người xem. Nếu không thận trọng để nhận diện chính xác vấn đề, người đọc sẽ dần dần hình thành niềm tin vào các trang thông tin chống phá Nhà nước, chống phá chế độ.

V3.

Bảo vệ giá trị Tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm, vinh dự.

 


Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam, “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi”.

Tuy nhiên, hiện nay các thế lực thù địch, phản động vẫn luôn không ngừng thực hiện các âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Một trong những âm mưu nguy hiểm ấy chính là chúng tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng đó là Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng không chỉ phủ định Chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn phủ nhận cả Tư tưởng Hồ Chí Minh, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng những thủ đoạn vô cùng tinh vi và thâm độc.

Những kẻ tự xưng là “người yêu nước” đã lợi dụng internet, mạng xã hội để tuyên truyền các luận điệu sai trái, xuyên tạc về Người như: “Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam”; “Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều”; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép, máy móc chủ nghĩa Mác - Lênin, không phù hợp với thực tiễn hiện nay, bởi thế, cần từ bỏ nó để “kịp đi với con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi” - con đường tư bản chủ nghĩa… Các thế lực thù địch, cá nhân, tổ chức phản động trong nước và lưu vong ở nước ngoài thường xuyên, không ngừng đẩy mạnh các hoạt động chống phá bằng mọi thủ đoạn thông qua việc thành lập các tổ chức, mở các diễn đàn, xuất bản các ấn phẩm tuyên truyền… Âm mưu của chúng là nhằm tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nguồn gốc lý luận chủ yếu và quyết định bản chất là chủ nghĩa Mác - Lênin, tiến tới phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận Tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận nền tảng tư tưởng lý luận, cương lĩnh, đường lối của Đảng. Từ đó, làm tha hóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhân dân, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tất cả những thủ đoạn, luận điệu chống phá của chúng đều không có cơ sở khoa học, đều là mưu toan chính trị nhằm xóa bỏ Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, chúng ta, bằng những luận cứ khoa học, bằng thực tiễn sinh động của lịch sử dân tộc để chứng minh và khẳng định giá trị, bản chất của Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những công lao to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Điều đó thể hiện rõ ở các điểm sau: Một là, con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy, lựa chọn, dẫn dắt.  Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam - là chính Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện.  Ba là, Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn bổ sung và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới bằng thực tiễn của cách mạng Việt Nam. 

 Thực tiễn đã chứng minh, hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã không ngừng trưởng thành về mọi mặt, trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xây dựng được niềm tin tưởng, ủng hộ của Nhân dân Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, giá trị Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói riêng, với kho tàng lý luận cách mạng của thế giới nói chung là vô cùng to lớn, không thể phủ nhận. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam, “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”

Tình cảm, sự tôn trọng, kính yêu đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nếp nghĩ, nét văn hóa của dân tộc; cán bộ, đảng viên và đại bộ phận nhân dân ta từ trước đến nay có niềm tin tuyệt đối vào Người; có lượng kiến thức cơ bản để phân biệt thật - giả, đúng - sai những thông tin, đánh giá về Người. Nhưng, không vì thế mà chúng ta mất cảnh giác, coi thường sự tấn công và hậu quả của những luận điệu chống đối, xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đấu tranh phòng, chống các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh là một chủ trương kiên quyết và nhất quán của Đảng ta. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Bảo vệ và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ nền tảng tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

V3.

 

Không để các luận điệu xuyên tạc làm ảnh hưởng đến công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam

 

Thời gian qua, lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thông qua nhiều âm mưu nham hiểm nhằm xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

"BÂY GIỜ GIỮ NỀN ĐỘC LẬP CÀNG CẦN ĐOÀN KẾT HƠN"

 Phát biểu tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, ngày 3-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa.

Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa”. Lời căn dặn của Người được đăng trên Báo Cứu quốc, số 108, ra ngày 4-12-1945.
Đây là thời điểm nước ta vừa mới giành được nền độc lập, phải thực hiện nhiều nhiệm vụ cấp bách, như: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm, mở rộng quan hệ với các nước tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam... Lời căn dặn của Bác có ý nghĩa sâu sắc, là sự nhắc nhở ân cần đối với đồng bào các các dân tộc hãy xóa bỏ mọi bất hòa, thành kiến, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà để bảo vệ nền độc lập đã giành được.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang quyết liệt thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, kích động ý thức về tộc người và lợi dụng sự chênh lệnh về trình độ phát triển giữa các dân tộc để tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị, là nền tảng lý luận cho chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta; định hướng, dẫn dắt cho hoạt động thực tiễn nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc trong tình hình mới. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
Gần 80 năm qua, bằng những việc làm thiết thực như tham gia phát triển kinh tế-xã hội, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, phòng, chống thiên tai, bão lũ, hỏa hoạn, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bài trừ hủ tục mê tín, dị đoan, tệ nạn xã hội… cán bộ, chiến sĩ quân đội đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Trong giai đoạn mới, phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội nguyện kề vai sát cánh với đồng bào các dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng miền núi, vùng các dân tộc ngày càng vững mạnh, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch./.
St

KIẾN NGHỊ TĂNG SỐ NGÀY NGHỈ LỄ QUỐC KHÁNH 2/9

 Công đoàn Việt Nam vừa kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tăng số ngày nghỉ lễ Quốc khánh 2/9 thêm 2 ngày để tạo điều kiện cho người lao động đưa con đến trường khai giảng.

Công đoàn Việt Nam kiến nghị cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu tăng số ngày nghỉ lễ Quốc khánh 2/9, bổ sung thêm 2 ngày so với hiện nay.
Theo Công đoàn Việt Nam, tăng số ngày nghỉ Quốc khánh 2/9 sẽ tạo điều kiện cho công nhân, lao động được đưa con đến trường trong ngày khai giảng năm học mới.
Trong các kiến nghị, đoàn viên công đoàn, công nhân lao động đề xuất nghiên cứu tăng ngày nghỉ lễ, Tết hàng năm vào thời điểm thích hợp, vì số ngày nghỉ này của Việt Nam hiện thấp hơn bình quân chung của các nước Đông Nam Á và thế giới từ 5 - 6 ngày.
Cụ thể, người lao động mong bổ sung 2 ngày nghỉ lễ Quốc khánh, để kéo dài dịp nghỉ lễ từ ngày 2/9 đến hết ngày 5/9, tạo cơ hội cho công nhân, lao động được đưa con đến trường trong ngày khai giảng. Đây là nguyện vọng của số đông công nhân có con đang tuổi đến trường.
Theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Lao động năm 2019, từ năm 2021, người lao động ở Việt Nam có tất cả 11 ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết được hưởng nguyên lương. Cụ thể là: Tết Dương lịch nghỉ 1 ngày (ngày 1/1); Tết Nguyên đán nghỉ 5 ngày; Giỗ tổ Hùng Vương nghỉ 1 ngày (ngày 10/3 Âm lịch); ngày Chiến thắng 30/4 nghỉ 1 ngày; ngày Quốc tế lao động 1/5 nghỉ 1 ngày; Quốc khánh 2/9 nghỉ 2 ngày (ngày 2/9 và 1 ngày liền kề trước hoặc sau).
Nếu những ngày nghỉ lễ Tết nói trên trùng vào ngày nghỉ hàng tuần, người lao động được nghỉ bù vào ngày kế tiếp.
Hàng năm, căn cứ vào điều kiện thực tế, Thủ tướng Chính phủ quyết định cụ thể ngày nghỉ dịp lễ Tết theo quy định./.
St

HỌC TẬP BÁC HỒ: “GƯƠNG MẪU TRONG TÔN TRỌNG LUẬT LỆ”

 Hàng ngày, Bác thường căn dặn những chiến sỹ cảnh vệ phải luôn có ý thức tổ chức triển khai, kỷ luật, triệt để tôn trọng nội quy chung. Bác bảo : “ Khi đàm đạo việc làm gì, đã quyết thì phải triệt để thi hành. Nếu đặt ra cho mình những việc phải làm thì cương quyết triển khai cho bằng được ” .

Một hôm Bác đến thăm một ngôi chùa lịch sử dân tộc. Đúng dịp lễ nên khách quốc tế và nhân dân đến chùa rất đông. Bác vừa vào chùa, vị sư cả liền ra đón Bác và khẩn khoản xin Bác đừng cởi dép. Bác không chấp thuận đồng ý. Đến thềm chùa, Bác dừng lại để dép ở ngoài rồi mới bước vào, giữ đúng mọi nghi thức như người dân đến lễ. Trên đường từ chùa về nhà, xe đang bon bon, bỗng đèn đỏ ở một ngã tư bật lên. Đường phố đúng lúc đông người. Xe chở Bác cũng như những xe khác đều dừng lại cả. Mọi người trong xe lo ngại nhìn nhau. Nếu nhân dân trông thấy Bác, họ sẽ ùa ra ngã tư này thì dễ gây ùn tắc. Nghĩ vậy, cả xe bèn cử một chiến sỹ cảnh vệ chạy đến bục nhu yếu công an giao thông vận tải mở đường cho xe Bác. Nhưng Bác đã hiểu ý, Bác ngăn lại rồi bảo :
Các chú không được làm như vậy. Phải gương mẫu tôn trọng luật lệ giao thông vận tải, không nên bắt người khác nhường quyền ưu tiên cho mình .
Ai cũng thấm thía lời Bác dạy …
Ý nghĩa câu chuyện:
Nói và làm theo pháp lý. Nói song song với làm. Gương mẫu trong mọi việc làm, tôn trọng kỷ cương phép nước, bộc lộ tính gương mẫu kỷ luật để từ đó tạo được lòng tin trong quần chúng nhân dân .
Bài học kinh nghiệm:
Tôn trọng luật lệ là việc nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Đảng, chủ trương pháp lý của Nhà nước, là yếu tố mang tính chuẩn mực xã hội, việc tôn trọng và triển khai luật lệ là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn xã hội mà mỗi tổ chức triển khai, mỗi cán bộ, đảng viên là tấm gương tiêu biểu vượt trội để quần chúng nhân dân noi theo./.
St

BA ANH EM RUỘT, BA NHÀ CHIẾN LƯỢC TÀI BA!

 Cùng sinh ra trong một gia đình, cùng lớn lên từ vùng quê nghèo giàu truyền thống yêu nước, cùng tham gia hoạt động cách mạng, bị bắt giam tại Nhà tù Hỏa Lò và nhiều nhà tù khác, đồng chí Lê Đức Thọ (Phan Đình Khải), Đinh Đức Thiện (Phan Đình Dinh), Mai Chí Thọ (Phan Đình Đống) đã cống hiến tài năng, trí tuệ của mình cho đất nước và trở thành những nhà chiến lược, tham mưu tài giỏi.

Người anh cả, đồng chí Lê Đức Thọ (Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương). Tại Hội nghị Paris, với vai trò là cố vấn đặc biệt, đồng chí Lê Đức Thọ thể hiện tài ngoại giao xuất sắc khi trải qua 202 phiên họp công khai, 24 cuộc tiếp riêng dẫn đến việc ký kết Hiệp định Paris. Đồng chí được Ủy ban giải thưởng Nobel đã quyết định trao Giải thưởng Hòa bình, nhưng đồng chí đã từ chối.
Người anh thứ hai, đồng chí Đinh Đức Thiện (nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm tổng cục Hậu cần, Bộ trưởng Bộ Cơ khí luyện kim, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, đồng chí trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh, là người khai sinh đường ống dẫn dầu từ Bắc vào Nam dài 5.000km.
Người em út, đồng chí Mai Chí Thọ, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), đồng chí được xem là một trong những nhà lãnh đạo có đường lối cứng rắn, đóng vai trò chủ yếu trong việc xây dựng ngành Công an của nước Việt Nam thống nhất.
Với những công lao đóng góp to lớn, cả ba đồng chí Lê Đức Thọ, Đinh Đức Thiện, Mai Chí Thọ đều vinh dự được trao tặng Huân chương Sao Vàng, Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam./.
St

ĐỒNG CHÍ NGUYỄN BÌNH - TRUNG TƯỚNG ĐẦU TIÊN CỦA QĐND VIỆT NAM

  Đồng chí Nguyễn Bình sinh ngày 30/7/1908, tên thật là Nguyễn Phương Thảo, quê quán tại thông Yên Phú, xã Tịnh Tiến (nay là xã Giai Phạm), huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ngay từ nhỏ, ông đã được đi học ở Hải Phòng, có điều kiện tiếp xúc với nhiều trí thức thông qua hoạt động của anh trai mình là Nguyễn Thế Nức - người trí thức yêu nước, tham gia sáng lập Hội Trí Tri và Hội Dục Anh.

Năm 1925, mới 17 tuổi, Nguyễn Phương Thảo bị đuổi học vì đã tham gia vận động học sinh Trường Kỹ nghệ Hải Phòng bãi khóa phản đối chính sách hà khắc của thực dân Pháp, tổ chức lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh. Sau đó, ông làm thủy thủ trên tàu viễn dương của Pháp, chạy tuyến Sài Gòn - Marseille (Pháp). Làm thủy thủ một thời gian, ông bỏ việc, về sống ở Khánh Hội, Gia Định (nay là Quận 4, TPHCM), sau mở tiệm giặt ủi ở Đa Kao, Gia Định (nay thuộc phường Đa Kao, Quận 1, TPHCM). Tại đây, ông kết bạn với Trần Huy Liệu, được Trần Huy Liệu móc nối, gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng (1928) và được bầu vào Ban Chấp hành Xứ bộ của đảng này. Năm 1930, sau vụ khởi nghĩa Yên Bái của Quốc dân đảng thất bại, ông cùng Trần Huy Liệu bị bắt, rồi bị Tòa đại hình Sài Gòn kết án 6 năm tù và đày ra Côn Đảo. Chính tại nhà tù này, ông tiếp xúc với những người cộng sản ưu tú như Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Cừ, Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt)… và giác ngộ cách mạng, dần chuyển hướng theo lý tưởng cộng sản. Nhận thấy sự chuyển hướng của Trần Huy Liệu và Nguyễn Phương Thảo, hai ông bị nhóm cực hữu trong Việt Nam Quốc dân đảng kết án tử hình nhưng cả hai đều may mắn thoát nạn, riêng Nguyễn Phương Thảo bị đâm mù mắt trái.
Năm 1935, ra tù, ông bị chính quyền thực dân trục xuất khỏi Sài Gòn, quản chế tại Hải Phòng. Tại đây, ông đổi tên thành Nguyễn Bình với ý nghĩa cùng ước vọng “bình thiên hạ” và chính thức tuyên bố ly khai khỏi tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Đồng chí Nguyễn Bình bí mật hoạt động trong phong trào bình dân, bị bắt ở Thái Nguyên. Được tự do, đồng chí lại hoạt động và tiếp tục bị bắt ở Hưng Yên. Năm 1942, trốn thoát khỏi nhà tù, đồng chí gặp lại Hoàng Quốc Việt và được phái lên Lai Châu hoạt động. Từ năm 1944, khi về hoạt động tại Hà Nội, Hải Phòng, đồng chí đã xuống cả Hưng Yên, Đông Triều, Quảng Yên, Hòn Gai… để tìm mua vũ khí, xây dựng cơ sở Việt Minh. Đồng chí liên lạc với Lê Phú - một người bạn làm thủy thủ trên tàu của Pháp, hợp tác, mua vũ khí, súng đạn. Đồng chí Nguyễn Bình còn vận động tướng tá, binh sĩ trong quân đội Nhật chuyển hướng theo cách mạng. Hoạt động binh vận và mua sắm vũ khí của đồng chí được Xứ ủy Bắc kỳ đánh giá cao.
Tháng 3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp, chính Nguyễn Bình là người đã tổ chức và chỉ huy du kích đánh chiếm đồn Bần Yên Nhân, bắt toàn bộ trung đội địch, thu vũ khí. Đó là một trận đánh gây tiếng vang lớn, một trận đánh mà sau này Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá là “trận đánh du kích kiểu mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ”.
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nguyễn Bình chủ động gặp và bàn bạc với Sư Tuệ (Nguyễn Văn Tuệ - một cán bộ Việt Minh) triển khai xây dựng Chiến khu Đông Triều. Lực lượng của Nhân dân và du kích ở Chiến khu Đông Triều đã chủ động tiến công địch ngay từ lúc chưa có chỉ thị khởi nghĩa. Ngày 8/6/1945, cùng với việc tiến công các đồn Tràng Bạch, Mạo Khê, Nguyễn Bình chỉ huy đánh chiếm đồn Đông Triều, giải tán binh lính và kêu gọi họ trở về với cách mạng chống Nhật. Sau đó, Ông tuyên bố giải tán chính quyền tay sai của địch ở Đông Triều, phá kho thóc của Nhật cứu đói cho dân. Chiều 8/6/1945, Chiến khu Đông Triều chính thức được thành lập, bầu Ủy ban quân sự cách mạng gồm 4 đồng chí: Nguyễn Bình, Trần Cung, Nguyễn Hiển và Hải Thanh. Nguyễn Bình được giao làm Ủy viên Kinh tế, nhưng đồng chí không chỉ lo về kinh tế cho chiến khu mà còn trực tiếp chỉ huy chiến đấu để mở rộng phạm vi và hoạt động của chiến khu.
Ngày 20/7/1945, Nguyễn Bình đã chỉ huy lực lượng vũ trang hỗ trợ quần chúng đánh chiếm tỉnh lỵ và giải phóng Quảng Yên. Đây là tỉnh duy nhất được giải phóng trước Cách mạng Tháng Tám.
Trong Cách mạng Tháng Tám, đồng chí cũng là người đã tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng, Đồ Sơn, Kiến An, Hải Dương. Khi Ủy ban quân sự liên tỉnh miền Duyên hải Đông Bắc thành lập, Nguyễn Bình được cử làm Tư lệnh Chiến khu Đông Triều. Đồng chí đã góp phần làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở vùng Duyên Hải.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, tháng 10/1945, trước âm mưu và hành động gây hấn của thực dân Pháp hòng quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, tình hình cực kỳ khó khăn trong buổi đầu của cuộc kháng chiến ở miền Nam, Nguyễn Bình được Bác Hồ tin cậy, cử vào chỉ huy cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Khi giao nhiệm vụ cho Nguyễn Bình, Bác Hồ trực tiếp gặp mặt thân tình và căn dặn: “Bác nghĩ các lực lượng trong đó đang cần một vị chỉ huy tài năng, có thể tập hợp các đơn vị vũ trang lại. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng “Thập nhị sứ quân” rất bất lợi cho cách mạng. Người chỉ huy đó, theo Bác phải biết rõ miền Nam, lại phải là người có bản lĩnh thu phục được cả những tay giang hồ kiểu Bình Xuyên… Tổ quốc trên hết! Tôi giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Bình ái quốc, ái dân và bình thiên hạ cho an sinh hòa mục”.
Một cách giao nhiệm vụ, giao trọng trách hết sức tin cậy, một sự đánh giá con người, đánh giá cán bộ đúng đắn, thân tình của Hồ Chí Minh đối với một người chưa phải là đảng viên cộng sản thật hiếm có. Nguyễn Bình đã thật sự xứng đáng với lòng tin và sự đánh giá đó. Chính cuộc đời và những cống hiến của đồng chí Nguyễn Bình là một minh chứng cho thiên tài Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, đặc biệt trong nhìn nhận, đánh giá, sử dụng cán bộ.
Ngay khi vào đến Nam Bộ, ngày 22/10/1945, Nguyễn Bình đã viết bản Thông cáo số 1 gửi Nhân dân Nam Bộ. Thông báo viết: “Đây là cuộc toàn dân kháng chiến cứu nước, không phân biệt già, trẻ, gái, trai. Đồng bào hãy đồng tâm quyết đánh và quyết thắng. Chống giặc tại nhà, tại làng, thôn, ấp, suối, rừng. Không cộng tác với giặc, không buôn bán, làm công cho giặc. Thực hiện triệt để vườn không nhà trống. Đối với địch thực hiện ba không: không nghe, không thấy, không biết. Đánh địch bằng mọi thứ vũ khí; không có súng thì dùng dao, bai, cuốc xẻng, gậy gộc…Chúng ta quyết đánh và quyết thắng”.
Không chỉ kêu gọi, ngày 20/11/1945, Nguyễn Bình lấy tư cách là phái viên của Chính phủ Trung ương đã mời tất cả chỉ huy các lực lượng vũ trang ở Nam Bộ về họp tại An Phú Xã. Dưới sự chủ trì của Nguyễn Bình, Hội nghị nhanh chóng thống nhất đặt tên các đơn vị thành chi đội, bầu Nguyễn Bình là Tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ.
Thông cáo số 1 và hoạt động thống nhất các lực lượng vũ trang Nam Bộ lúc đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không những củng cố niềm tin cho Nhân dân và lực lượng vũ trang, mà còn tạo nên một lực lượng thống nhất, khắc phục một bước tính cát cứ của các lực lượng vũ trang lúc đó. Chính những yếu tố đó đã góp phần huy động sự tham gia rộng rãi và tổ chức chặt chẽ hơn của Nhân dân Nam Bộ.
Ngày 12/12/1945, Tư lệnh Nguyễn Bình quyết định thành lập Trường Quân chính Miền Đông để đào tạo cán bộ quân sự và cũng là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường này. Chỉ từ tháng 12/1945 đến tháng 4/1946, Trường đã đào tạo hai khóa học đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp với hơn 100 cán bộ. Những học viên đầu tiên của Trường này đã trở thành những cán bộ chỉ huy, lãnh đạo kháng chiến của các địa phương vùng Đông Nam Bộ. Chính đồng chí Nguyễn Bình đã trực tiếp đưa một số cán bộ này theo dòng người hồi cư trở lại nội thành Sài Gòn với câu nói nổi tiếng: “Các đồng chí về thành, rừng người bảo vệ các đồng chí còn tốt hơn rừng cây”!
Nguyễn Bình là người hết sức quan tâm tới lực lượng vũ trang nội thành. Khi phát hiện thấy các phân đội vũ trang này còn hạn chế về tổ chức, ngày 6/1/1946, đồng chí đã triệu tập tất cả chỉ huy các chi đội, các phân đội vũ trang tự lập họp lại để thống nhất các đơn vị. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các đơn vị vũ trang lại lấy tên chung là Ban Công tác thành. Các Ban Công tác thành có nhiệm vụ vừa tiêu diệt địch, vừa tuyên truyền, vận động nhân dân kháng chiến ở nội thành. Đây cũng chính là tiền thân của lực lượng vũ trang biệt động Sài Gòn.
Tháng 6/1946, Nguyễn Bình được Trung ương Đảng phê chuẩn kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Từ một người yêu nước, tham gia Quốc dân đảng, sau đó giác ngộ cách mạng, tham gia và tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng, Hải Dương, nhận nhiệm vụ vào Nam Bộ tổ chức, chỉ huy cuộc kháng chiến rồi mới trở thành đảng viên cộng sản, đó là con người Nguyễn Bình, một cốt cách, một bản lĩnh, một tài năng Nguyễn Bình.
Chính những hoạt động đó của Nguyễn Bình, cùng với uy tín của đồng chí trước đó đã tác động mạnh tới đông đảo Nhân dân và tầng lớp trí thức. Họ khâm phục đồng chí ở tinh thần yêu nước, khí phách khảng khái, tài năng tổ chức và chỉ huy chiến đấu. Đồng chí vẫn thường xuyên ra vào nội thành Sài Gòn, gặp gỡ Nhân dân, gặp gỡ trực tiếp những trí thức yêu nước, có cảm tình với kháng chiến. Theo Nguyễn Bình, nếu ngồi ở chiến khu mời họ ra thì sẽ ít hiệu quả, tốt nhất là vào Sài Gòn, trực tiếp gặp gỡ họ thì việc vận động sẽ thuận lợi hơn hơn. Đồng chí thành tâm và thẳng thắn chuyện trò, trao đổi với trí thức, vận động, thuyết phục họ. Và chính tấm lòng trung thực của mình, đồng chí đã cảm hóa và thu hút họ theo kháng chiến.
Ngày 20/1/1948, đồng chí Nguyễn Bình được Nhà nước phong quân hàm Trung tướng và là vị Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 10/1948, Bộ Tư lệnh Nam Bộ được thành lập, Nguyễn Bình được cử làm Tư lệnh. Với Sắc lệnh số 115/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 25/1/1948, Ông được chính thức làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ, lãnh đạo lực lượng vũ trang chống Pháp ở Nam Bộ. Ông còn là Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, Ủy viên Quân sự Nam Bộ, tức là người có vai trò chủ chốt trong việc thiết kế và tổ chức kháng chiến.
Tháng 10/1950, Bộ Tư lệnh Khu 7 quyết định mở Chiến dịch Bến Cát. Chiến dịch diễn ra từ ngày 7/10 đến ngày 15/11/1950, ta tiêu diệt 509 tên địch, bắt 120 tên, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện của địch. Đây là chiến dịch đầu tiên và duy nhất được tiến hành ở miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp.
Năm 1951, đồng chí Nguyễn Bình được Trung ương triệu tập ra Bắc báo cáo tình hình Nam Bộ. Trên đường thi hành nhiệm vụ, đồng chí bị địch phục kích và hy sinh ngày 29/9/1951 tại Ratanakiri (Campuchia). Năm 2000, với sự giúp đỡ của Chính phủ Hoàng gia Campuchia, Đoàn công tác Bộ Quốc phòng đã tìm thấy và đưa hài cốt Trung tướng Nguyễn Bình về nước, mai táng tại Nghĩa trang liệt sĩ TPHCM.
Nguyễn Bình sớm hy sinh, nhưng công lao của đồng chí đối với Tổ quốc và Nhân dân ta mãi còn đó. Trong Quyết định tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Trung tướng Nguyễn Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi rõ những đóng góp của đồng chí đối với công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, đối với cuộc kháng chiến. Riêng đóng góp của đồng chí Nguyễn Bình đối với Nam Bộ, Người viết: “Đã góp phần lớn vào việc chỉnh đốn, xây dựng Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất Nam Bộ”.
Đồng chí Nguyễn Bình được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Tên Nguyễn Bình đã được đặt cho nhiều con đường ở TPHCM, TP Hải Phòng, TP Cần Thơ./.
St

BỨC ẢNH "QUYẾT TỬ CHO TỔ QUỐC QUYẾT SINH"

 

Nguyễn Văn Thiềng (bí danh Trần Thành), chính là chiến sĩ quyết tử trong bức ảnh lịch sử năm 1946. Anh sinh năm 1927, tham gia cách mạng từ năm 1944, là đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, trung đội trưởng trung đội bảo vệ Bộ Tổng tham mưu (nay là số nhà 18, phố Nguyễn Du, Hà Nội).
Ngày 23/12/1946, anh Trần Thành đã dùng bom ba càng đánh hỏng được một xe tăng địch ở ngã tư Bà Triệu - Trần Quốc Toản, giết cả kíp lái Pháp trong xe. Chiều hôm đó, quân Pháp lại tấn công, anh Trần Thành lại một lần nữa ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch nhưng bom bị xịt, không phát nổ, lính bộ binh Pháp đi theo sau chiếc tăng dùng súng bắn liên tiếp khiến anh Trần Thành hy sinh.
Nghệ sỹ Nguyễn Bá Khoản đã chụp được bức ảnh ghi lại khoảnh khắc lịch sử trước khi Trần Thành ôm bom ba càng lao lên và hy sinh. Bức ảnh đã trở thành biểu tượng của tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong kháng chiến chống Pháp./.
St

QUỐC HIỆU VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ!

 1. Xích Quỷ - Tên nước ta thời vua Kinh Dương Vương:

Theo truyền thuyết, các tài liệu và thư tịch cổ, năm 2879 Trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, lập lên Nhà nước Xích Quỷ - nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Kinh Dương Vương kết duyên với Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (tên húy là Sùng Lãm). Sau đó, Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ sinh ra các vua Hùng.
2. Văn Lang - Tên nước ta thời các Vua Hùng:
Từ đầu thời đại đồng thau, có khoảng 15 bộ Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên Nhà nước Văn Lang, xưng vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương, kinh đô đặt ở Phong Châu.
Quốc hiệu Văn Lang mang ý nghĩa gì? Hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau. Văn Lang nghĩa là cội nguồn văn hóa mang sức mạnh lan tỏa.
Thời gian tồn tại của nước quốc hiệu Văn Lang tồn tại khoảng 2.671
năm khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ III trước Công nguyên.
3. Âu Lạc - Tên nước ta thời vua An Dương Vương:
Sau khi khiến Tần Thủy Hoàng phải lui quân chịu thất bại trong âm mưu xâm lược nước ta vào năm 208 trước công nguyên, Thục Phán bằng ưu thế của mình đã xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc (tên ghép hai chữ của hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt). Quốc hiệu Âu Lạc tồn tại 50 năm từ 257 trước CN đến 207 trước CN.
4. Vạn Xuân - Tên nước ta thời nhà tiền Lý và nhà Ngô:
Vào mùa Xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Đến tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân (Với ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa Xuân), khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.
Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu thì thất bại, nước ta rơi vào vòng đô hộ của các triều đại Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân trải qua nhiều thăng trầm và được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938.
5. Đại Cồ Việt - Tên nước ta thời nhà Đinh:
Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân cát cứ, thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (Đại nghĩa là lớn, Cồ nghĩa là lớn, do đó tên nước ta có nghĩa là nước Việt lớn). Ta cũng thấy lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu.
Tên nước Đại Cồ Việt tồn tại 86 năm (968-1054) trải qua suốt đời Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
6. Đại Việt - Tên nước ta thời nhà Lý, nhà Trần:
Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý (Lý Thái Tông) liền cho đổi tên nước thành Đại Việt (nước Việt lớn, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định), và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần thì bị thay đổi.
7. Đại Ngu - Tên nước ta thời nhà Hồ:
Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua TrầnThiếu Đế lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu (“Ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”). Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
8. Đại Việt - Lại được sử dụng làm quốc hiệu nước ta vào thời kỳ Hậu Lê và nhà Tây Sơn:
Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế). Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).
Tính cả nhà Lý, Trần, Hậu Lê vàTây Sơn, quốc hiệu ĐẠI VIỆT của nước ta tồn tại 748 năm (1054-1804).
9. Việt Nam - Tên nước ta thời Nhà Nguyễn tính từ năm 1804-1884:
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và sau đó cho đổi tên nước là Việt Nam. Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái Miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.
Tên gọi Việt Nam mang ý nghĩa chỉ quốc gia của người Việt ở phương Nam để phân biệt với quốc gia của những người ở phương Bắc.
Quốc hiệu Việt Nam tồn tại 80 năm (1804-1884, đến năm 1884 Pháp hoàn thành “bình định” nước ta, xoá tên Việt Nam mà chia cắt nước ta thành 3 kỳ: Tonkin - Bắc Kỳ, Annam - Trung Kỳ, Cocochine - Nam Kỳ). Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại thấy xuất hiện khá sớm trong lịch sử nước ta như là trong các tài liệu, tác phẩm của trạng nguyên Hồ Tông Thốc (cuối thế kỷ 14), Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15), trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585),...
10. Đại Nam - Tên nước ta thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn:
Đời vua Minh Mạng (1820-1840), quốc hiệu được đổi thành Ðại Nam (mang ý nghĩa nước Nam lớn). Dù vậy, hai tiếng "Việt Nam"vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội. Quốc hiệu này tồn tại trên lý thuyết 107 năm từ năm 1838 đến năm 1945.
11. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Tên nước ta trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975):
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Quốc hiệu này khác với các quốc hiệu khác ở chỗ gắn với thể chế chính trị (dân chủ cộng hòa) thể hiện bản chất và mục đích của nhà nước là quyền dân chủ, tự do, công bằng cho tất cả mọi người.
12. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Tên nước ta từ năm 1976 đến nay:
Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hiệu này, cũng như quốc hiệu trước đó, gắn với thể chế chính trị (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa) và mang ý nghĩa thể hiện mục tiêu vươn tới một xã hội tốt đẹp hơn./.
St

CHA CON "NGƯỜI ANH HÙNG" THẦM LẶNG BÊN DÒNG SÔNG THẠCH HÃN

 

Cuộc chiến 81 ngày đêm ở Thành cổ Quảng Trị là chiến công hào hùng, khúc ca bi tráng của dân tộc ta. Tại con sông Thạch Hãn huyền thoại đã ghi dấu nhiều đau thương, mất mát. Những tấm gương anh dũng quên mình rất nhiều, trong đó có nữ du kích Nguyễn Thị Thu (hiện 64 tuổi, ngụ số nhà 20 đường Đặng Dung, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong) cùng bố chồng hàng ngày chèo đò vận chuyển người, lương thực cho cách mạng.
TÌM NHÂN VẬT TRONG BỨC ẢNH
Tới Thành cổ Quảng Trị đứng trang nghiêm cúi đầu tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã không tiếc máu xương hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, ghé thăm nhà bảo tàng ngắm những hình ảnh, hiện vật vô giá, người ta sẽ nhìn thấy một hình ảnh đặc biệt.
Đó là bức ảnh do phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính ghi lại một cụ già chèo đò với nụ cười hào sảng bên một thiếu nữ trẻ tay ôm chắc súng và hàng chục chiến sĩ bộ đội giải phóng tươi cười. Bức ảnh có tên “Cha con lão ngư dân Triệu Phong chở bộ đội và vũ khí tiếp sức Thành cổ”. Xem ảnh, nhiều người không khỏi thắc mắc, sau những trận chiến ác liệt năm 1972 đó, những người trong hình giờ ai còn, ai mất?
Theo lời giới thiệu của nhân viên bảo tàng, người lái đò với nụ cười hào sảng trong bức ảnh là cụ Nguyễn Con (quê làng Giang Hến, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và thiếu nữ tay ôm súng là Nguyễn Thị Thu (con dâu cụ Con).
Lần tìm qua rất nhiều đầu mối, mới hay bà Thu hiện vẫn sống tại làng Giang Hến, nay là tiểu khu 5, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. Nửa thế kỷ sau những trận chiến ác liệt đó, cô du kích lái đò trẻ tuổi năm nào nay đã là bà nội, bà ngoại.
Bà Thu rưng rưng ngắm lại bức ảnh kỷ niệm một thời oanh liệt nay đã ố vàng, thời mà bà ngược xuôi dòng Thạch Hãn đưa bộ đội sang sông vào Thành cổ. Năm đó bà mới 18 tuổi. Vừa vào du kích được khoảng ba tháng thì nhận được nhiệm vụ làm giao liên, cùng cha chồng (đã đám hỏi nhưng chưa cưới - PV) chèo đò chở bộ đội, vũ khí cùng lương thực vượt sông Thạch Hãn chi viện cho Thành cổ.
Cuộc chiến diễn ra ác liệt, địch dốc toàn bộ lực lượng với vũ khí hiện đại hòng chiếm lại Thành cổ. Để đánh bật các cuộc phản công của địch, quân ta phải huy động bổ sung một lực lượng lớn. Và để bộ đội vào Thành cổ một cách nhanh nhất, an toàn mà lại hiệu quả chỉ có một đường duy nhất là dùng đò vượt sông Thạch Hãn. Thời gian đó, khúc sông đoạn từ xã Triệu Long, xã Triệu Giang, xã Triệu Thành đã trở thành tuyến đường huyết mạch đưa quân giải phóng vào chiến trường.
“Bố chồng tôi làm nghề cào hến nên thông thuộc mọi chỗ nông sâu khúc sông này. Hai bố con tôi không ngại nguy hiểm nhận nhiệm vụ, khôn khéo chèo đò đưa bộ đội vượt sông. Ngày đó máy bay địch suốt ngày lượn mòng mòng trên đầu. Nước sông Thạch Hãn lúc nào cũng vàng ố, đục ngầu cuộn chảy vì bom đạn trút xuống như mưa. Suốt 81 ngày đêm, không biết bao nhiêu lần cha con chúng tôi suýt chết nhưng vẫn cầm chắc tay lái, băng trên con nước đưa bộ đội và vũ khí sang, rồi quay ngược đò chở thương binh về hậu phương”, bà Thu nhớ lại.
"NGƯỜI ANH HÙNG" THẦM LẶNG
Trong căn nhà nhỏ, Huy chương Kháng chiến được treo trang trọng cùng những tấm hình ngày nào. Cũng trong căn nhà này bà đã chứng kiến biết bao cuộc hội ngộ thắm tình đồng đội của những chiến sĩ từng ngồi trên chiếc đò bà lái.
Sau chiến tranh, vợ chồng bà Thu không hề biết có tấm hình lịch sử. Đến những năm 1990, qua một người cùng làng, bà mới biết tấm hình được in lớn trên sách báo, được treo trang trọng trong Bảo tàng Thành cổ. Ban đầu bà Thu không lên tiếng nhân vật trong hình là mình. Sau này có người ngờ vực, bà mới lặng lẽ cắt một tấm hình trên báo, đóng khung rồi treo trang trọng ở trong nhà, như một lời xác nhận.
Trong những chuyến đò ngày ấy, đã có rất nhiều chiến sĩ không bao giờ trở lại. Biết bao lần bà vừa chèo đò, lòng vừa quặn thắt, trào nước mắt, khi biết chuyện những người lính mười tám, đôi mươi bà vừa gặp hôm qua, hôm nay đã mãi nằm lại Thành cổ. Trời miền Trung giữa trưa hè nhưng bỗng ào ạt cơn mưa nặng hạt, o du kích ngày xưa gạt nước mắt, tạm ngừng câu chuyện, nhìn xa xăm ra phía dòng sông Thạch Hãn…
“Dù bom đạn, tôi vẫn chắc tay lái. Đò đi ngày không được thì đi đêm, trời nắng không chèo được thì tăng chuyến lúc mưa. Đau thương nhất là những lần chở thương binh về, có những người còn trẻ măng, thấy thương lắm. Có lần tôi chở một thương binh trắng trẻo thư sinh, nghe nói quê ở Hà Nội. Đò vừa cập bến cũng là lúc anh ấy chỉ kịp kêu lên một câu: “Đau quá mẹ ơi!” rồi trút hơi thở cuối cùng. Mãi mãi tôi không thể nào quên…”.
Bà Thu không thống kê mình đã bao nhiêu lần chở bộ đội sang sông trong 81 ngày đêm ấy. Bà chỉ nhớ trung bình mỗi ngày chiếc đò máy ấy cứ phăm phăm sóng nước 30 – 40 lần vượt sông đưa bộ đội vào trận tuyến, rồi cũng trên chiếc đò ấy không biết bao nhiêu tấn vũ khí, lương thực được tiếp tế cho Thành cổ. “Cả 81 ngày, tôi cùng cha không hề nghỉ chèo một ngày, không một đêm trọn giấc”, bà kể.
Và một bí mật khác, nửa thế kỷ bây giờ bà mới thổ lộ: “Thú thật, tuy ở gần sông nhưng tôi không hề biết bơi, điều này tôi phải giấu chỉ huy cũng như đồng đội. Vì nếu cấp trên biết tôi không biết bơi, tôi sẽ không được lái đò nữa”.
KHÔNG ĐÒI HỎI, TRÁCH CỨ
Giữa tháng 9/1972, trận chiến 81 ngày đêm kết thúc. Chiến thắng ở Thành cổ đã tạo đà lợi thế cho ta trên hội nghị đàm phán Hiệp định Pari năm 1973. Trong chiến thắng ấy có một phần đóng góp của hai cha con lão ngư dân Triệu Phong.
Cha con cụ Con không được phong người hùng, nhưng trong lòng rất nhiều bộ đội, trong lòng nhiều người địa phương, họ được coi là những Anh hùng. Đất nước thống nhất, lão ngư Nguyễn Con quay lại với công việc cào hến mưu sinh trên sông Thạch Hãn. Đến năm 1978, sau khi đi cào hến về, cụ Con đau bụng rồi đột ngột qua đời.
Vợ chồng bà Thu trở lại cuộc sống đời thường, có bốn người con đều đã lập gia đình và có cuộc sống ổn định. Hiện tại chồng bà Thu lại theo nghiệp cha cào hến mưu sinh, còn vợ thì bán hến ở chợ. “Nghề hến phụ thuộc vào con nước, nhiều công đoạn, chủ yếu “lấy công làm lãi” nên thu nhập của hai vợ chồng khá bấp bênh. Vì vậy, ngoài công việc cào hến để mưu sinh, chúng tôi còn chăn nuôi gia súc, gia cầm để trang trải thêm cho cuộc sống”, bà Thu cho hay.
Câu chuyện nhiều lần bị ngắt quãng vì chứng đau đầu hành hạ bà Thu. Chồng bà Thu cho hay: “Nhiều đêm nằm ngủ bà ấy vẫn hay giật mình. Đôi lúc đang nói chuyện bà vang đau đầu, có lúc còn la hét inh ỏi. Có thể vì vợ tôi bị ám ảnh bởi cảnh bom đạn, chết chóc”.
Bà Thu cười lặng lẽ ngắt lời chồng: “Cuộc sống của chúng tôi tuy còn nhiều khó khăn nhưng vẫn không thể nào so sánh được với những hy sinh, mất mát của các chiến sỹ đã ngã xuống vì đất nước. Tôi vẫn sống được đến ngày hôm nay đã là một điều may mắn rồi”.
Trong không gian trầm lắng của chiều tháng Bảy bên dòng sông Thạch Hãn, chia tay khách, bà Thu nhẹ nhàng đọc lại những câu thơ trong một bài thơ nổi tiếng: “Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”. /.
St

CA SĨ ĐEN VÂU NHẬN GIẢI THƯỞNG TÌNH NGUYỆN QUỐC GIA NĂM 2023

 Ca sĩ Đen Vâu là một trong 20 cá nhân và tập thể nhận được giải thưởng Tình nguyện Quốc gia năm 2023 tại Lễ trao Giải thưởng Tình nguyện Quốc gia năm 2023 của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tại TP.HCM tối nay 3/12.

Đây là hoạt động nhằm tôn vinh các cá nhân tổ chức có thành tích xuất sắc trong các hoạt động tình nguyện vì sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và cộng đồng. Thông qua đó, chương trình lan tỏa tinh thần nhân ái sẻ chia xung kích tình nguyện của các tổ chức cá nhân trong xã hội.
Hội đồng bình chọn toàn quốc Giải thưởng Tình nguyện Quốc gia đã bỏ phiếu, bình chọn 10 tập thể và 10 cá nhân có thành tích xuất sắc tiêu biểu trong hoạt động tình nguyện vì sự phát triển của đất nước và cộng đồng trong năm 2023. Trong số 10 cá nhân được vinh danh lần này có ca sĩ Đen Vâu (Nguyễn Đức Cường). Năm vừa qua, ca sẽ Đen Vâu đã tài trợ tài trợ hơn 1 tỷ đồng với số tiền thu về từ Youtube cho bài hát “Nấu ăn cho em” xây dựng 2 điểm trường tại Lai Châu và Cao Bằng, Chuyến xe mùa xuân - Tết sum vầy 2024 hỗ trợ xe đưa 2.000 bạn có hoàn cảnh khó khăn về quê đón Tết của Trung tâm Hỗ trợ học sinh, sinh viên TP.HCM./.
St