Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc - Những chỉ dẫn quan trọng cho giai đoạn hiện nay

 TCCS - Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng và cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ kiên cường, người bạn thân thiết của các dân tộc bị áp bức trên thế giới; Người cũng là vị “kiến trúc sư vĩ đại” của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc mà đất nước ta đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện. Những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người để lại trong công cuộc xây dựng xã hội mới vẫn vẹn nguyên giá trị, cần được vận dụng phù hợp, khoa học vào thực tiễn đất nước hôm nay và mai sau.

Bác Hồ thăm lớp bình dân học vụ (tranh của họa sĩ Mai Văn Nam)_Nguồn: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng xã hội tốt đẹp, tiến bộ, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam

Thứ nhất, là Người đầu tiên tìm kiếm và lựa chọn đúng đắn mô hình xã hội phù hợp, tốt đẹp cho đất nước.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đất nước ta rơi vào khủng hoảng toàn diện, nhất là về lựa chọn mô hình xây dựng xã hội mới. Mô hình xã hội phong kiến (mà hiện thân là triều đình nhà Nguyễn) hay xã hội tư sản (mô hình xã hội do chính quyền thuộc địa thực dân Pháp tạo dựng) đều chứa đầy mâu thuẫn, hạn chế, bất công nên không phù hợp với thực tiễn lịch sử, không được nhân dân chấp nhận. Trong hoàn cảnh ấy, ở nước ta chưa có ai, tổ chức hay lực lượng nào đủ khả năng tìm kiếm, lựa chọn đường lối cứu nước đúng đắn và một mô hình xã hội tốt đẹp, phù hợp. 

Mặc dù các phong trào yêu nước lúc bấy giờ đều nhằm mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc, nhưng có sự khác biệt cơ bản về đường lối cách mạng, phương pháp tiến hành, lập trường giai cấp (đặc biệt là quan điểm về một mô hình xã hội mới sẽ được xây dựng ),... Trong đó, các sĩ phu yêu nước chủ trương phát động phong trào Cần Vương (giai đoạn 1885 - 1896), sau là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (giai đoạn 1884 - 1913) của vị anh hùng Hoàng Hoa Thám chống thực dân Pháp; tuy nhiên, tất cả bị đàn áp dã man và dẫn đến kết cục thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là bởi các vị tiền bối trên mang trong mình ý thức hệ của giai cấp phong kiến đã lạc hậu, lỗi thời, mong muốn khôi phục xã hội phong kiến (kiểu xã hội đã hết vai trò trong tiến trình lịch sử dân tộc) nên không được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân. Trong khi đó, nhiều phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư tưởng tư sản, như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân,... của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, như Phan Bội Châu (muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội mới theo mô hình xã hội nước Nhật lúc bấy giờ); Phan Châu Trinh (chủ trương dựa vào Pháp để nâng cao dân trí, dân quyền) phát triển rộng khắp, nhưng cuối cùng cũng lâm vào bế tắc và thất bại. Thực tế, tư tưởng xây dựng mô hình xã hội kiểu tư sản theo các phong trào trên còn thiếu thực tế và không đáp ứng được yêu cầu hiện thực xã hội thời bấy giờ.

Đứng trước tình hình đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại), một con người ưu tú với bản lĩnh quyết đoán và tầm nhìn vượt lên trên những hạn chế của điều kiện lịch sử; có trí tuệ siêu việt, sự nhạy cảm chính trị sâu sắc, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,... đã tìm ra con đường, hướng đi đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Kể từ thời điểm bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911) đến khi xác định được con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tiếp nhận thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực tìm kiếm và lựa chọn mô hình đúng đắn về một xã hội mới, tốt đẹp cho dân tộc; thực tiễn hoạt động cách mạng ở trong nước và quốc tế đã giúp Người hiểu rõ sự lỗi thời, lạc hậu của xã hội phong kiến và mặt xấu xa, tàn bạo, bất công của xã hội tư sản ở cả chính quốc lẫn thuộc địa.  Trên cơ sở phân tích, đối chiếu các kiểu xã hội trong dòng chảy liền mạch của tiến trình lịch sử nhân loại, Người cho rằng tính chất phiến diện, nửa vời, không triệt để của xã hội tư sản khiến ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa và sẽ làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai, rằng “chế độ tư bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết được”(1).

Khác hẳn với xã hội tư sản là xã hội Xô-viết, tuy lúc bấy giờ còn non trẻ, nhưng đã sớm bộc lộ sức sống và tính ưu việt, mục tiêu phục vụ đều hướng đến lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, khi mà “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ thành người tự do(2). Như vậy, từ con đường cách mạng vô sản, hướng cách mạng giải phóng dân tộc theo những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời được tận mắt chứng kiến, nhìn nhận thực tiễn sinh động về mô hình xã hội Xô-viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình xã hội Xô-viết làm nền tảng để xây dựng đất nước ta. Người chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới”(3).

Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định về mục đích, nguyên tắc của mô hình xã hội mới, nhưng về hình thức, bước đi và cách làm cụ thể khi vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, Người lại có sự độc lập, sáng tạo và các bước phát triển mới, hoàn toàn không giáo điều, bảo thủ, rập khuôn, máy móc. Có thể nói, thực tiễn đã chứng minh, quyết định của Người về con đường cách mạng của dân tộc là sự lựa chọn sáng suốt, phù hợp với quy luật khách quan, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của thực tiễn đất nước cũng như nguyện vọng, lợi ích toàn thể dân tộc.

Thứ hai, khẳng định tính tất yếu đối với sứ mệnh xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam; đồng thời, chuẩn bị những tiền đề cốt yếu, nền tảng tư tưởng quan trọng để củng cố, hoàn thiện mô hình xã hội tốt đẹp.

Năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo - tác phẩm có tác động mạnh mẽ, khiến Người cảm động, sáng tỏ niềm tin về một con đường giải phóng dân tộc đầy hy vọng mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua, đồng thời định hình rõ mô hình về một xã hội tốt đẹp trong tương lai. Theo đó, Người khẳng định “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(4), bởi vì trong chế độ cộng sản “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”(5). Trên cơ sở lý luận được tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, một học thuyết khoa học, cách mạng nhất của thời đại và từ thực tiễn khảo nghiệm của bản thân, Người dồn tâm huyết để chuẩn bị toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh cho sự ra đời của một xã hội mới, đầy tươi đẹp.

Theo đó, đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sâu, phân tích và khẳng định tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - mô hình lý tưởng về một xã hội phù hợp với đất nước. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, ngay trong Chánh cương vắn tắt (năm 1930), Người xác định nhiệm vụ “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(6); sau khi nước nhà giành được độc lập, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”(7), rằng “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”(8).

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho đất nước phát triển phồn vinh, bền vững, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Người cho rằng, “tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(9). Bên cạnh việc khẳng định tính tất yếu trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, Người còn dày công phân tích, phác thảo đường hướng lớn về nội dung, động lực, con đường, bước đi, phương thức và biện pháp,... để xây dựng xã hội tốt đẹp ấy. Trong đó, nội dung xây dựng xã hội mới được Người khái quát hết sức giản dị, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, như chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; là tất cả mọi người, tất cả đồng bào các dân tộc ngày càng ấm no; con cháu “chúng ta” ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, phong tục, tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ,...

Thứ ba, xác định, vạch rõ chủ trương, nguyên tắc xuyên suốt, hướng đi lâu dài đối với nhiệm vụ xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Nội dung đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dù được diễn đạt với ngôn từ, nội hàm khái niệm khác nhau,... song về bản chất, chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn thống nhất với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học và phù hợp với điều kiện đất nước. Đó là một xã hội hiện thực do con người, vì con người, giá trị con người được giải phóng triệt để; đề cao giá trị tự do, ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể và lợi ích xã hội; giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ, một xã hội đạt đến trình độ đạo đức nhân văn cao cả nhất mà nhân loại nói chung, dân tộc và nhân dân Việt Nam nói riêng hằng mong ước. Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, là nơi sẽ “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng(10).

Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, không phải cứ “ngồi chờ” là sẽ có chủ nghĩa xã hội, trái lại, “cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(11). Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, theo Người, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải xác định đúng, trúng phương thức, bước đi cùng với quyết tâm cao và những biện pháp, cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và với đặc điểm, xu thế của thời đại. Người chỉ rõ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, nên động lực và phương cách cơ bản, lâu dài, quyết định nhất là huy động sức mạnh tổng hợp trong nhân dân, cụ thể:

Trên lĩnh vực kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề then chốt, đồng thời cần chú trọng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ phân phối và quản lý kinh tế phù hợp; nền kinh tế đất nước ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công, nông nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, bởi “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”(12). Song, Người nhấn mạnh, một xã hội tốt đẹp không thuần túy chạy theo lợi ích kinh tế, trái lại, phát triển kinh tế phải gắn liền với nâng cao đời sống nhân dân cũng như bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Đó chính là mục tiêu, đồng thời cũng là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa, giá trị đích thực của xã hội mới tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng, hoàn thiện, rằng “xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội”(13).

Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền - một Đảng “chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(14). Bên cạnh đó, phải xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ triệt để.

Trên lĩnh vực văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem yếu tố văn hóa là mục tiêu cơ bản và động lực của một xã hội tốt đẹp, có sự hiện diện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội. Cũng theo Người, mục tiêu cơ bản và trọng tâm của văn hóa phải là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trong đó bao gồm các phẩm chất “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài và nền tảng đạo đức luôn được coi là gốc rễ. Sức hấp dẫn của một xã hội tốt đẹp hay của chủ nghĩa xã hội không phải chỉ ở mức sống vật chất cao, mà cốt lõi là ở giá trị đạo đức của nó và ở phẩm chất đạo đức của những con người sinh sống trong xã hội ấy.

Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp không phải là ước vọng, giấc mơ, ý tưởng hay là lời hiệu triệu thuần túy. Xã hội đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện thực hóa không chỉ bằng cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, những luận chứng, luận cứ đầy đủ, rõ ràng, mà còn bằng sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu toàn thông qua việc xác định rõ những bước đi, lộ trình, cách thức, biện pháp hết sức cụ thể, khoa học, hiệu quả và phù hợp với đất nước. Có thể nói, Người chính là “vị kiến trúc sư vĩ đại” đã kiến tạo nền tảng cơ bản, điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của một xã hội tốt đẹp ở nước ta, đồng thời đặt nền móng cho việc củng cố, hoàn thiện xã hội ấy.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm với thiếu nhi xã Trường Hà, huyện Hà Quảng_Nguồn: vpctn.gov.vn

Những chỉ dẫn cho giai đoạn hiện nay

Kể từ khi ra đời đến quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ cũng như trong từng chặng đường xây dựng đất nước, đồng thời dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử(15). Thực tế, sau gần 40 năm đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(16), đây là bằng chứng sinh động và đầy sức thiết phục về nhận thức và sự vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng một xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Thực tiễn phát triển đất nước giai đoạn hiện nay đặt ra nhiều vấn đề, thách thức mới, vô cùng phong phú, đồng thời cũng hết sức phức tạp. Trong bối cảnh đó, quan điểm, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục là kim chỉ nam, ánh sáng soi đường; là cơ sở để tư duy, tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề nảy sinh từ thực tế,... trong công cuộc hoàn thiện xã hội tốt đẹp ở Việt Nam hiện nay. Thời gian tới, để tiếp tục vận dụng hiệu quả, phù hợp những giá trị mà Người để lại, cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, triển khai, thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta(17). Tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững, tạo lập nền tảng vật chất quan trọng để xây dựng xã hội tốt đẹp, vì lợi ích của nhân dân. Chú trọng đúng mức việc ứng dụng thành tựu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển đất nước; đồng thời, khơi dậy và phát huy tiềm năng, thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức và cá nhân.

Thứ hai, tập trung thực hiện hiệu quả, thiết thực các chính sách xã hội, hướng tới vì lợi ích của toàn thể dân tộc; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; xây dựng “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; đặc biệt, sự phát triển về kinh tế luôn đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”(18). Mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách lao động, việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo đảm quyền con người và “an ninh con người” gắn với xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt, hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng(19).

Thứ ba, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thắng lợi công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam. Bởi lẽ, thành công hay thất bại trong công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp “phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(20) . Theo đó, cần xây dựng và thực thi phong cách lãnh đạo, quản lý vừa khoa học, sâu sát, sáng tạo, vừa mang tính nhân văn cao cả. Mặt khác, thực hành triệt để tự phê bình và phê bình; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và tương lai về một xã hội tốt đẹp ở Việt Nam. Đặc biệt, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, bác bỏ quan điểm sai trái, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mở rộng các hoạt động đối ngoại. Chú trọng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có đầy đủ yếu tố dân tộc, khoa học và đại chúng; đồng thời, cần tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng và phát triển một cách phù hợp, sáng tạo với thực tiễn đất nước. Mặt khác, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhằm mở rộng hợp tác để phát triển; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế./.

--------------------------

Tác phẩm của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

 TCCS - Đại hội XIII của Đảng xác định rõ, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Bằng tư duy lý luận sắc bén, thực tiễn phong phú, sự am hiểu tường tận và tình cảm đặc biệt, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những chỉ đạo toàn diện về văn hóa thông qua cuốn sách "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Tác phẩm gửi gắm những thông điệp sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư đối với đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Những ý kiến của người đứng đầu Đảng ta về văn hóa, văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản thể hiện trong tác phẩm đã bao quát một cách hệ thống, đầy đủ, sáng tạo về những vấn đề căn cốt của từng lĩnh vực, có giá trị khơi gợi khát vọng sáng tạo, cống hiến của những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng của Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với các đại biểu tham dự Hội nghị văn hóa toàn quốc tại nhà Quốc hội, ngày 24-11-2021 _Nguồn: Tư liệu

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường để dựng nước và giữ nước, đồng thời tiếp thu thành tựu của văn hóa nhân loại, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã hình thành nên nền văn hóa Việt Nam với những giá trị độc đáo, phong phú và thống nhất trong đa dạng.

Trong dòng chảy của lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 94 năm qua, việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước.

Sau gần 40 năm đổi mới, sự nghiệp phát triển xã hội, văn hóa, con người đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ trí thức ngày càng tinh hoa và đông đảo chưa từng có trong lịch sử. Văn hóa ngày càng phát triển đa dạng về lĩnh vực, loại hình, sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mới và mọi mặt của đời sống xã hội.

Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, gìn giữ, phát huy văn hóa Việt Nam cũng còn không ít bất cập, hạn chế, yếu kém, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người và môi trường văn hóa. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đan xen trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.   

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, với quyết tâm lớn, nỗ lực bền bỉ của cả hệ thống chính trị, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có những bước chuyển biến quan trọng, từ nhận thức đến hiệu quả hành động. Những thành tựu lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam những năm qua là thành quả của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó nhân tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Trải qua nhiều cương vị công tác, với những trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đặc biệt quan tâm, dành tâm huyết rất lớn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Cuốn sách Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra mắt bạn đọc nhân dịp kỷ niệm 76 năm Ngày Bác Hồ ra Lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11-6-1948 - 11-6-2024), 99 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6-1925 - 21-6-2024) có ý nghĩa rất quan trọng. Với 92 bài viết, bài phát biểu, bài nói, lược ghi, trả lời phỏng vấn, thư... của đồng chí Nguyễn Phú Trọng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời gian 60 năm qua được tuyển chọn trong tác phẩm đã hệ thống hóa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giúp các ngành, các cấp, các địa phương, cán bộ, đảng viên, nhân dân xác định rõ quan điểm, mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, để văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần, động lực và nguồn lực nội sinh cho phát triển đất nước. Các bài phát biểu, bài viết thể hiện sự quan tâm sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư đối với việc xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam với các yếu tố truyền thống và hiện đại, bản sắc và hội nhập, tạo nguồn lực nội sinh và huy động sức mạnh của văn hóa, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng.

Những điểm nhấn quan trọng trong tác phẩm "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" được thể hiện cụ thể:

Thứ nhất, đồng chí Tổng Bí thư đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cốt lõi trong đường lối của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đồng chí đã phân tích, kiến giải và chỉ đạo những nội dung quan trọng về đặc trưng, bản chất, vị trí, vai trò, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; để phát huy vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực quan trọng để phát triển đất nước. Những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong tác phẩm được rút ra từ thực tiễn phong phú, khẳng định tầm nhìn xa, rộng, sự chỉ đạo sâu sát, toàn diện, đầy sức thuyết phục của đồng chí Tổng Bí thư; góp phần làm sáng rõ tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người... Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới(1).

Tác phẩm đã nâng tầm lý luận về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là cẩm nang quý báu giúp các cấp ủy, tổ chức đảng, các ngành, các cấp, cán bộ, đảng viên nắm vững và triển khai hiệu quả công tác xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời gian tới.

Cuốn sách "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng_Nguồn: NXBCTQGST

Thứ hai, đồng chí Tổng Bí thư đã hệ thống một cách xuyên suốt và biện chứng về quá trình vận động, phát triển và những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, nhất là trong thời đại Hồ Chí Minh. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc rút những vấn đề có tính quy luật khách quan, có giá trị định hướng rất sâu sắc về đường hướng xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc; trong đó, trọng tâm là xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới, đồng thời có những gợi ý rất quan trọng về các thành tố trong từng hệ giá trị. Hệ giá trị quốc gia: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Hệ giá trị văn hóa: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học. Hệ giá trị gia đình: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh. Chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo... Đây là những giá trị tốt đẹp, tiêu biểu, cốt lõi, được kế thừa và phát triển từ truyền thống dân tộc, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như qua các kỳ Đại hội của Đảng. Việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới chính là cách để chúng ta củng cố vững chắc trận địa tư tưởng, phát triển văn hóa, góp phần quan trọng để củng cố và tăng cường sức mạnh mềm, sức mạnh nội sinh phát triển đất nước.

Có thể khẳng định, tác phẩm là một công trình có ý nghĩa đặc biệt, góp phần quan trọng làm rõ bản sắc, hoạch định đường hướng căn bản và lâu dài đối với nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, với kiến thức chuyên sâu và sự am hiểu về đặc trưng của từng loại hình văn hóa, từ văn học, sân khấu đến mỹ thuật nhiếp ảnh, thể dục thể thao, từ ca dao, dân ca đến ca trù, quan họ, từ những làn điệu chèo đến những câu hò ví dặm, hay đờn ca tài tử,... phản ánh bản sắc văn hóa của từng vùng, miền, địa phương trên cả nước, như Thăng Long - Hà Nội, Bắc Ninh - Kinh Bắc đến Phú Thọ, Thái Bình, dân ca Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ..., đồng chí Tổng Bí thư có những dẫn chứng rất sinh động và lập luận thuyết phục, định hướng vừa mang tầm chiến lược, bao quát, nhìn xa trông rộng, vừa rất cụ thể, gần gũi. Nói về vai trò của văn học, nghệ thuật - “tiếng nói của tình cảm” và các nhà văn - “người dự báo”, “thư ký của thời đại”, đồng chí chỉ rõ: “Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật thật sự có giá trị phải có sức lay động công chúng, độc giả bằng trách nhiệm, tấm lòng, trái tim của người nghệ sĩ”(2); “Sự nghiệp sáng tạo văn học đòi hỏi phải có những người có tài năng, có tâm hồn, có nhân cách, đặc biệt là có chỗ đứng và cách nhìn đúng đắn”(3). Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, nhà văn cần có “Khát vọng lớn lao, lý tưởng cao cả, hòa nhịp đập trái tim mình với nhịp đập trái tim toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn vĩ đại của cuộc sống Nhân dân, chứ không phải chỉ đi vào tâm trạng cá nhân, gặm nhấm tâm tư, yếm thế, lấy tiểu xảo thay cho tài năng, nhìn đời bằng góc nhìn chật hẹp, thậm chí coi văn chương như là thú vui, giải trí hoặc một cuộc chơi, một đam mê tầm thường”(4), làm cho người đọc sau khi gấp sách lại đều cảm thấy “mạch đời đập dưới bìa sách như mạch máu đập dưới làn da (Kalinin)”(5).

Với nghệ thuật sân khấu, đồng chí đề nghị cần “sáng tạo được nhiều vở diễn có giá trị về Dân tộc Việt Nam, về con người Việt Nam đang dũng cảm vượt qua thử thách, đẩy nhanh tiến trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(6), đồng thời sáng tạo, dàn dựng nhiều vở diễn về lịch sử, cách mạng, kháng chiến ở tầm cao mới, xứng đáng với sự tích hào hùng của Dân tộc ta, Nhân dân ta; bởi “cuộc sống đang rất cần những vở diễn mang hơi thở cuộc sống, mang tầm vóc của dân tộc và thời đại, thu hút và hấp dẫn được đông đảo người xem”(7). Người nghệ sĩ sân khấu phải tự nguyện tham gia sự nghiệp cách mạng, thường xuyên bồi dưỡng cả về phẩm chất và tài năng - những nhân tố quyết định sự thành công trong hoạt động sáng tạo để đóng góp cho nhân dân, cho đất nước những tác phẩm hay.

Về vai trò của văn hóa, văn nghệ trong giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nhân cách con người, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, nhân cách con người, nâng cao bản lĩnh và ý thức dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc, làm cho phát triển kinh tế thị trường mà không băng hoại giá trị đạo đức xã hội, “hội nhập mà không hòa tan””(8). Để tạo điều kiện cho văn hóa phát triển, đồng chí khẳng định Đảng, Nhà nước ta luôn khuyến khích, tạo điều kiện, có cơ chế đặc thù và tôn trọng tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, song mỗi người nghệ sĩ cũng phải “vừa có bản lĩnh, sự tỉnh táo; vừa có trình độ, tầm nhìn, cách nghĩ và phương thức thể hiện mới trong sáng tạo nghệ thuật, phù hợp với yêu cầu thực tiễn”(9). Chỉ khi có khát vọng và hoài bão lớn lao, tầm nhìn xa rộng và tư duy sâu sắc thì người nghệ sĩ mới có tác phẩm hay, có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, những tác phẩm “phản ánh tâm hồn và tính cách dân tộc, những điều lớn lao, mạnh mẽ của con người và dự báo cho cả tương lai”(10).

Với quan điểm: Con người Việt Nam là sự kết tinh của văn hóa Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, trong đó giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Trong các chuyến thăm, làm việc với các cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở đào tạo, các học viện, trường đại học, cao đẳng, trường phổ thông,... đồng chí nhiều lần nhắc nhở: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là công việc vừa có tính chiến lược, vừa mang tính cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, trước hết là trách nhiệm của các nhà trường, của ngành giáo dục - đào tạo”(11). Nhiệm vụ của giáo dục - đào tạo là “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân,... làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách”(12). Đó chính là việc đào tạo “người có văn hóa”, sống có nghĩa có tình, có trước có sau, có nhân cách, có bản lĩnh, có lòng yêu nước, thiết tha gắn bó với nhân dân, sẵn sàng đóng góp công sức, trí tuệ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Luôn hy vọng vào tương lai thế hệ trẻ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc nhở: “Cha ông đã để lại cho chúng ta một đất nước Việt Nam giang sơn gấm vóc vô cùng tươi đẹp. Trách nhiệm của các thế hệ hôm nay và mai sau là phải làm cho non sông nước Việt ngày càng giàu đẹp, hùng cường”(13).

Kế thừa truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Việt Nam, mặc dù làm công việc gì, ở cương vị nào, cả khi đã là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng vẫn thường xuyên viết thư hỏi thăm sức khỏe các thầy giáo, cô giáo cũ. Trong các bài phát biểu, bài viết, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, cán bộ làm công tác văn hóa. Đồng chí luôn luôn nhấn mạnh phải chú ý phát huy tài năng, tâm huyết, động viên sự sáng tạo của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong việc tham gia phát triển văn hóa, văn nghệ của đất nước; khuyến khích các tài năng trẻ và có hình thức tôn vinh xứng đáng các văn nghệ sĩ có công lao đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa. Văn hóa là sự nghiệp của nhân dân, do vậy mỗi người dân phải tích cực tham gia, đóng góp vào việc sáng tạo nên những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần, vun đắp cho nền văn hóa dân tộc ngày một hoàn thiện, cao đẹp hơn.

Lớp học hát quan họ (ảnh: Nguyễn Mạnh Linh)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Đồng chí Tổng Bí thư đánh giá cao vai trò, trách nhiệm và những đóng góp nổi bật của các địa phương, cơ quan, đơn vị; cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong việc giữ gìn, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam thông qua các hoạt động thiết thực, như đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; tổ chức các hoạt động văn hóa, xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa; biểu dương những tấm gương điển hình trong việc thực hiện hiệu quả nội dung xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới; kịp thời phê phán những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc,...

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng rất chú trọng tới việc giữ vững và phát huy vai trò tiên phong của báo chí, xuất bản trên mặt trận văn hóa - tư tưởng của Đảng, đóng góp vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng có quá trình công tác gần 30 năm ở Tạp chí Cộng sản, rèn luyện, trưởng thành từ một biên tập viên của Tạp chí, nên đồng chí hiểu rất rõ vai trò, nhiệm vụ của nghề báo và nhà báo: “Nghề báo thật sự là một nghề cao quý, một nghề có ích cho xã hội(14); “Nhà báo trước hết phải hiểu đúng và nắm rất vững chức năng, nhiệm vụ của tờ báo mà mình phụng sự, cộng tác(15). Trực tiếp làm Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản - Cơ quan lý luận chính trị của Đảng, tiếp đó là Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác tư tưởng - văn hóa và khoa giáo của Đảng, là Phó Chủ tịch, rồi Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác lý luận của Đảng, đồng chí đã nhiều lần làm việc, nói chuyện, chia sẻ kinh nghiệm với cán bộ, biên tập viên các cơ quan báo chí chủ lực và các báo, tạp chí chuyên ngành. Đồng chí đề nghị các cơ quan báo chí cần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là đội quân chủ lực, tiên phong trên mặt trận tư tưởng, “góp phần đắc lực vào việc hình thành dư luận xã hội lành mạnh; xây dựng bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn, khí phách con người Việt Nam trong thời kỳ mới; góp phần cổ vũ và tạo ra sức mạnh đoàn kết, thống nhất, đồng thuận toàn dân tộc”(16). Với vốn kiến thức phong phú, sự am hiểu sâu sắc, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú của một nhà báo, cùng với quá trình không ngừng tự học tập, tự rèn luyện, đồng chí chia sẻ: Mỗi phóng viên, biên tập viên, nhà báo phải có quyết tâm cao, có lòng say mê yêu nghề, chịu khó học tập, kiên trì rèn luyện “để vừa có phẩm chất chính trị vững, có đạo đức nghề nghiệp tốt, vừa có đủ trình độ, năng lực nghiên cứu và biên tập được, viết bài được”, cần “cẩn trọng trong từng câu, từng chữ”, luôn luôn chú trọng rèn luyện ngòi bút để văn phong đĩnh đạc, trong sáng; lập luận chặt chẽ, rõ ràng, dẫn chứng sắc sảo, chính xác, có sức thuyết phục cao thì mới có được bài báo hiệu quả nhất(17).

Đối với ngành xuất bản, in và phát hành Việt Nam - một binh chủng quan trọng trên mặt trận văn hóa, tư tưởng của Đảng, Tổng Bí thư yêu cầu “luôn luôn giữ vững định hướng chính trị, tư tưởng, bảo đảm hài hòa giữa nhiệm vụ chính trị và sản xuất kinh doanh, phục hồi và phát triển mạnh mẽ văn hóa đọc; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xuất bản, in và phát hành sách có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng; chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần khẳng định vị thế, vai trò là một trong những hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và Nhân dân”(18).

Những bài viết, bài nói, bài phát biểu, thư... của đồng chí Nguyễn Phú Trọng trong tác phẩm cho thấy sự am hiểu sâu sắc, toàn diện về bản chất và đặc trưng văn hóa Việt Nam của người đứng đầu Đảng ta. Sự đồng tình hưởng ứng, tinh thần quyết tâm và sự vào cuộc nhanh chóng, đồng bộ, sáng tạo của các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân là minh chứng rất thuyết phục về vai trò, những đóng góp quan trọng và rất đặc biệt của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Tác phẩm "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra mắt trong thời điểm hết sức quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã và đang nỗ lực, đồng lòng, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đảng ta đang huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, phát huy trí tuệ của đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân tham gia tổng kết lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; khẩn trương chuẩn bị tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng...

Tác phẩm là một đóng góp quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và cơ sở thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Tác phẩm là minh chứng cho thấy bước trưởng thành, phát triển về tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo thực tiễn của Đảng ta đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta tin tưởng sâu sắc, việc ra mắt tác phẩm quan trọng này, cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc đồng bộ, nhịp nhàng của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình, ủng hộ của đội ngũ trí thức, của văn nghệ sĩ, các tầng lớp nhân dân, sự nghiệp phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong thời gian tới; trực tiếp góp phần xây dựng và phát triển đất nước ta phồn vinh, văn minh, hạnh phúc./.

----------------------

Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay

 TCCS - Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một hệ thống những luận điểm về mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Quan điểm đó vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay; đòi hỏi phải tiếp tục vận dụng sáng tạo, góp phần thiết thực vào công cuộc phát triển đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh mới.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh luôn là yêu cầu, nhiệm vụ trung tâm, then chốt trong xây dựng Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Điều đó xuất phát từ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ ràng, đầy đủ về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức; thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước; bởi lẽ, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Người dạy, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1) và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(2). Người cũng chỉ rõ vị trí, vai trò của cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền nhà nước các cấp: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”(3)Bất cứ đường lối, chính sách gì, nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là “có lãi”; ngược lại, không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là “lỗ vốn”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn thanh niên tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên cứu quốc lần thứ 2, năm 1956_Ảnh: TTXVN

Đội ngũ cán bộ, công chức là những mắt khâu trung gian, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành”(4).

Để làm công việc được Chính phủ, đoàn thể giao phó đạt chất lượng, hiệu quả cao, Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải có đủ “đức”, đủ “tài”. “Đức” và “tài” là những phẩm chất không thể thiếu ở mỗi người cán bộ, công chức. Ở đây, “đức” là những phẩm chất đạo đức cách mạng cần phải có ở người cán bộ cách mạng; “tài” là toàn bộ những năng lực, phẩm chất thuộc về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ công tác của mỗi cán bộ, công chức.

Về đức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, công chức phải hội đủ năm đức tính tốt: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Mỗi cán bộ, công chức phải thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong quan niệm của  Chủ tịch Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”. Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương.

Về tàitài của người cán bộ, công chức thể hiện ở năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, đặc biệt là năng lực nắm bắt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, công chức phải có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính; có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quan điểm nhất quán của Người là chú trọng chất trí tuệ và tính chuyên môn trong tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước thông qua chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Giữa đức và tài có mối quan hệ mật thiết với nhau, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp, đi đôi với nhau, không thể có mặt này, thiếu mặt kia; có đức mà không có tài thì chỉ là người vô dụng; còn có tài mà không có đức thì làm việc gì cũng khó. Người so sánh: “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”(11).

Phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, công chức không phải là những thứ tự dưng có, mà chỉ có thể là kết quả của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và quá trình tự thân mỗi cán bộ, công chức không ngừng khổ công, nỗ lực học tập, rèn luyện mới có được. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(12). Điều đó cho thấy Người rất coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - thuật ngữ Người thường dùng là “huấn luyện cán bộ”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm thật tốt công tác huấn luyện cán bộ, phải coi huấn luyện cán bộ là công việc gốc, hết sức quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Người chỉ rõ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(13); bởi vậy“Các cơ quan cần phải rất chú ý đến việc huấn luyện cán bộ”(14). Người cho rằng, huấn luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học. Cán bộ có cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể, cán bộ ở Trung ương, cán bộ ở địa phương và cơ sở... Huấn luyện cán bộ cũng phải có nội dung, kế hoạch phù hợp với từng loại cán bộ trong những lĩnh vực cụ thể. Huấn luyện cán bộ phải được Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp xác định là công việc thường xuyên, công phu, lâu dài, phải kiên trì và bền bỉ thì mới có kết quả tốt; bởi vì: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt... cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được”(15).

Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thường được cấu thành từ các yếu tố cụ thể, gồm mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải biết “Huấn luyện ai?... Ai huấn luyện?... Huấn luyện gì?... Huấn luyện thế nào?”(16). Mỗi thành tố nêu trên đều được Người đề cập một cách cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Về mục đích của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chứcquan trọng nhất là phải xác định động cơ đào tạo, bồi dưỡng đúng đắn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức phải nhận thức rõ rằng, đào tạo, bồi dưỡng không phải để chạy theo bằng cấp, mà mục đích cao cả của việc học là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(17). Bên cạnh đó, “Học để sửa chữa tư tưởng... Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành”(18)Trong thư gửi giáo sư và sinh viên Trường Dự bị Đại học ở Thanh Hóa, Người nhắc nhở: “… giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”(19)Chỉ khi nào cán bộ, công chức xác định được động cơ, mục đích đúng đắn thì việc học tập mới đạt tới yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Về chủ thể của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng - những người trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của thầy, cô giáo, các chuyên gia tham gia công tác giáo dục, huấn luyện cán bộ. Vai trò của người thầy được Bác Hồ nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Bây giờ đang xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để dần dần đến chủ nghĩa xã hội. Kháng chiến thì cần nhiều cán bộ quân sự. Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá”(20). Bác cũng rất coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác huấn luyện cán bộ; đồng thời, chú trọng phát huy vai trò của các cán bộ lãnh đạo trong tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Người chỉ rõ: “Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy”(21). Vì vậy, người làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ “phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”(22) và phải thường xuyên trau dồi kiến thức, “phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình”(23).

Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ phải cụ thể, thiết thực, phải hàm chứa cả rèn đức, luyện tài, phải chú trọng trang bị cả kiến thức văn hóa, lý luận và thực tiễn. Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân; do đó, họ cần phải được giáo dục, trang bị tri thức văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Người lưu ý rằng, cán bộ, công chức phải có tinh thần ham hiểu biết các tri thức khoa học một cách toàn diện: “Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật, văn hoá, chính trị... Nếu không học tập văn hóa, không có trình độ văn hóa thì không học tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi”(24).

Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đường lối, quan điểm của Đảng để hiểu rõ nhiệm vụ cách mạng; đồng thời, xây dựng cho bản thân mình phương pháp nhận thức đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của cuộc sống, để từ đó vững tin vào lý tưởng cách mạng. Mặt khác, cần phải học tập khoa học - kỹ thuật, bởi chúng ta đang sống trong một thời đại khoa học và công nghệ, loài người đang vận dụng những thành tựu kỳ diệu của khoa học - kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất và cải tạo nhanh chóng bộ mặt của thế giới.

Về phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tổ chức và trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng nhiều thế hệ cán bộ cho đất nước nên nắm vững và vận dụng thuần thục các quy luật tư duy và phương pháp giảng dạy trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Người đã đề ra hệ thống các nguyên lý, phương châm, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chẳng hạn, “Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng(25). Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn học tập với rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, tác phong, phương pháp công tác; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thực chất, chú trọng chất lượng: “Cốt thiết thực chu đáo hơn tham nhiều(26). Trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải chú trọng thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành: “Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế(27); khi truyền đạt lý luận, kinh nghiệm công tác phải gắn với liên hệ tình hình cụ thể để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. “Huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu(28); đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải phù hợp với yêu cầu quy hoạch, sử dụng cán bộ...

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao phương pháp tự học. Để làm giàu vốn tri thức, hiểu biết của mình, cán bộ, công chức cần có tinh thần tìm tòi, sáng tạo trong học tập, trong cuộc sống, nghĩa là cán bộ, công chức phải chú trọng việc tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; “phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng với lý thuyết không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn. Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa”(29). Đặc biệt, Người nhấn mạnh việc tự giác học tập; tuy nhiên, Người cũng yêu cầu “không nên học gạo, không nên học vẹt” mà “học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau”(30). Người giảng giải: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành(31).

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải thường xuyên không ngừng học tập, nâng cao trình độ, phải coi việc học tập là công việc suốt đời. Người chỉ rõ: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế(32). Vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, công chức cần phải xác định: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(33).

Khi người cán bộ, công chức đã có cả phẩm chất và năng lực, có đức và có tài để gánh vác trọng trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục yêu cầu đội ngũ này phải thực hành phương pháp làm việc khoa học, tác phong chuyên nghiệp, hiện đại, sâu sát dân, gần dân, học hỏi dân để hoàn thiện mình. Theo Người, muốn học thành công phải có kế hoạch cụ thể, khoa học, phải tự nguyện, tự giác, tích cực, chủ động và kiên trì bền bỉ, quyết tâm thực hiện kế hoạch đến cùng; phải triệt để tận dụng mọi điều kiện, phương tiện, hình thức để học. Học đến đâu phải ra sức luyện tập thực hành đến đó, học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Học mà không đi đôi với hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy. Trong thực hiện nhiệm vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các xã. Cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ. Để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát, rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ nông dân và học hỏi dân”(34).

Có thể khẳng định rằng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ đã hàm chứa khá đầy đủ các nguyên lý, nguyên tắc, các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục theo lý luận giáo dục học hiện đại. Điều đó cho thấy quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có giá trị lý luận sâu sắc và giá trị thực tiễn to lớn, có thể vận dụng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng ở nước ta hiện nay.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà chúc mừng Học viện Hành chính quốc gia nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (29-5-1959 - 29-5-2024) _Nguồn: vietnamnet.vn

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(35) được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lực lượng chủ công thực thi nhiệm vụ nêu trên chỉ có thể là đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Cán bộ hành chính gồm những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở các tỉnh thành trực thuộc Trung ương, ở huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, như chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy; người đứng đầu trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, như chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc, bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ, chủ tịch hội nông dân và chủ tịch hội cựu chiến binh.

Công chức hành chính gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, như cán sự, chuyên viên làm việc trong các sở thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các phòng thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện; những người được tuyển dụng, được giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, gồm có các chức danh: Chỉ huy trưởng quân sự, văn phòng - thống kê, địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán, tư pháp - hộ tịch, văn hóa - xã hội.

Yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng hiện nay là phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(36). Một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả để hiện thực hóa yêu cầu nói trên là phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông qua các phương pháp và bằng các hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; qua đó, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Sự vận dụng giá trị quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay thể hiện trên những điểm cơ bản sau:

Thứ nhấtphải xác định cụ thể, rõ ràng mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Mục đích là cái mà cả quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới và là kết quả cuối cùng mà công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải đạt được. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 1-9-2017, của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức quy định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.

Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những phẩm chất đạo đức cách mạng, tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Nếu như trên bình diện chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”; thì cụ thể hóa lời dạy của Người vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, mục đích đó chính là: Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Thứ haiphải nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng của các chủ thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, trước hết, phụ thuộc vào năng lực đào tạo, bồi dưỡng, nhận thức về chức năng, nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, cụ thể là các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính. Các cơ sở giáo dục cần xúc tiến mạnh mẽ sự chuẩn bị về cơ sở vật chất (giảng đường, thư viện, phòng đọc, trang thiết bị công nghệ thông tin, kết nối mạng internet...), các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuẩn, thiết thực, phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; xây dựng được đội ngũ giảng viên, chuyên gia có chất lượng chuyên môn cao, có kỹ năng sư phạm và tâm huyết; sẵn sàng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, chuyên gia có uy tín, chất lượng, trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi, có đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, có tầm chiến lược của các cơ sở giáo dục; với tinh thần “không cốt nhiều, chỉ cốt tinh”, để thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”.

Nhân viên Trung tâm Phục vụ Hành chính công tỉnh Quảng Ninh hướng dẫn người dân và doanh nghiệp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4_Ảnh: Tư liệu

Thứ ba, đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, cần chuẩn bị năng lực nhận thức, các điều kiện vật chất, tinh thần khác để sẵn sàng lĩnh hội kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tri thức pháp luật cần thiết cho hoạt động chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công vụ.

Chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính không chỉ phụ thuộc vào chủ thể, mà còn phụ thuộc phần lớn vào chính đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Các nhà giáo, chuyên gia dù có giỏi đến mấy, đáp ứng được mọi yêu cầu, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác chủ động, tích cực từ phía đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, thì không thể có được chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng như mong muốn. Mỗi cán bộ, công chức hành chính cần phải chủ động, tự giác, tích cực tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, xuất phát từ nhu cầu lĩnh hội nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật.

Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức hành chính cần thường xuyên cập nhật thông tin về lĩnh vực chuyên môn của bản thân, chủ động tìm hiểu các chính sách, văn bản pháp luật mới, nhất là những văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đang đảm trách; nghĩa là phải phát huy tinh thần tự học như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Việc học phải lấy tự học làm cốt. Một mặt, nếu một cán bộ, công chức hành chính, dù đã tốt nghiệp kỹ sư, cử nhân, mà dừng lại, tự hài lòng, thỏa mãn với tấm bằng đại học của mình thì sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu trước những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn đời sống. Mặt khác, mỗi cán bộ, công chức hành chính cũng cần thường xuyên rèn luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật vào quá trình thực thi công vụ, giải quyết nhiệm vụ được giao.

Thư tư, tiếp tục đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Ngoài những nội dung có tính chất chuyên biệt, chuyên sâu về lĩnh vực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính, còn cần phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng nội dung quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính thuộc các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, nhu cầu và công tác quy hoạch cán bộ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan.

Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần tập trung xây dựng các bộ giáo trình, tài liệu tham khảo riêng cho từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bảo đảm độ sâu cần thiết về kiến thức chuyên môn, chuyên ngành, các kỹ năng nghiệp vụ, những kiến thức pháp luật phù hợp cho từng nhóm đối tượng. Khi thiết kế nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào nhu cầu thông tin, kiến thức của từng đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bổ sung, cập nhật kịp thời những vấn đề mới về chuyên môn, nghiệp vụ, các văn bản, chính sách, pháp luật mới vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Quá trình triển khai nội dung các môn học, học phần phải gắn lý luận với thực tiễn hành chính công vụ sinh động, tránh lý luận suông, khô khan, giáo điều, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Nội dung bồi dưỡng cũng cấn chú trọng trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính các kiến thức về phương pháp, kỹ năng thực hành công vụ, về áp dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn công vụ.

Thứ nămđổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính.

Đây là vấn đề cần được các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, các nhà giáo, chuyên gia đặc biệt quan tâm. Mặc dù trong những năm qua, các chủ thể đào tạo, bồi dưỡng ở nước ta đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; song, kết quả vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của Nhà nước và xã hội. Để tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, các cơ sở giáo dục cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm hướng trọng tâm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng vào đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, tạo động lực cho họ đầu tư nhiều thời gian cho việc tự học. Muốn vậy, trước hết, cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương pháp giảng dạy tích cực, như: nêu vấn đề, kết hợp giảng lý thuyết với việc nêu ra các tình huống và bài tập trắc nghiệm... Đội ngũ thầy, cô giáo hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một chiều; tăng cường các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ đề chuyên môn, phương pháp nêu tình huống, sự kiện thực tế để lôi cuốn cán bộ, công chức hành chính tích cực tranh luận, thảo luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất... Chủ động chuyển mạnh từ “lấy người dạy làm trung tâm” sang phương pháp “lấy người học làm trung tâm”. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, mỗi giảng viên, chuyên gia cần ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy; mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần xây dựng hệ thống thư viện điện tử, tạo cho cán bộ, công chức hành chính khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại phục vụ hiệu quả cho việc học tập.

Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần triển khai tổng kết, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; từ đó, tìm ra các phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng. Cần có sự phân loại nội dung đào tạo, bồi dưỡng gắn với đặc thù của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính để sử dụng phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; tránh sự lãng phí, tốn kém không cần thiết về thời gian, công sức, tiền của.

Tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng rất cụ thể, thiết thực và vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay. Vận dụng giá trị quan điểm của Người về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải chú trọng thực hiện kỹ lưỡng từng mắt khâu, yếu tố của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, từ việc xác định mục đích, chủ thể, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cho tới xây dựng nội dung, lựa chọn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung... như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

-----------------