Thứ Ba, 1 tháng 10, 2024

Thay cán bộ nhưng không thay đổi đường lối lãnh đạo

Những năm vừa qua, khi công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo và thực hiện quyết liệt với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng là ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị bị xử lý kỷ luật Đảng và xử lý hình sự theo các các quy định của pháp luật.

Đặc biệt, trong thời gian gần đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xử lý cán bộ cấp chiến lược đang giữ trọng trách đứng đầu Nhà nước, Quốc hội khi có dấu hiệu sai phạm, hoặc cấp dưới sai phạm (theo Quy định 41) bằng hình thức cho thôi đảm nhiệm các chức vụ và nghỉ công tác. Điều này cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng là loại bỏ, xử lý những cán bộ suy thoái, tham nhũng, tiêu cực ra khỏi hệ thống, làm trong sạch bộ máy và làm trong sạch tổ chức để Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, là người đày tớ trung thành của nhân dân.

Với tệ tham nhũng, tiêu cực được ví như “giặc nội xâm”, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ thì kết quả xử lý các vụ việc trên được ví như những trận quyết chiến chiến lược trước giặc nội xâm.

Tuy nhiên, lợi dụng các vụ việc trên, các thế lực thù địch đang sử dụng mạng xã hội xuyên tạc, thổi phồng với luận điệu cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đang có sự thanh trừng, đấu đá nội bộ”, “Việt Nam đang mất ổn định chính trị” …

Không tránh khỏi những băn khoăn, trăn trở trong tâm trạng của cử tri, của người dân, của đảng viên vì sự kỳ vọng khi bỏ lá phiếu, gửi gắm niềm tin vào những vị cán bộ lãnh đạo đó. Nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, cán bộ đảng viên và kiều bào ta ở nước ngoài đang đặt một niềm tin tuyệt đối vào quyết tâm chính trị, vào đường lối cách mạng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Với đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đất nước ta đang phát triển, vững vàng hội nhập quốc tế. Chúng ta đã phải đánh đổi biết bao xương máu của đồng bào, chiến sĩ người con đất Việt trong các cuộc chiến tranh vệ quốc để có được hoà bình, thống nhất, độc lập và cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của Việt Nam hôm nay.

Mỗi người dân Việt Nam đang vững một niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng bởi lẽ đó cũng là vận mệnh của Tổ quốc, đất nước mình. Được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, trải qua hơn 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng không có lợi ích nào khác là vì đất nước phồn thịnh, vì hạnh phúc nhân dân. Lợi ích của quốc gia, dân tộc luôn được đặt lên trên hết, trước hết.

Việc xử lý cán bộ cấp cao, thay đổi cán bộ nhưng không ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của đất nước bởi lẽ đường lối cách mạng của Đảng ta đã được xác định trong cương lĩnh, nghị quyết của Đảng, Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là sự công khai, minh bạch, đúng đắn, ổn định, kế thừa qua các giai đoạn cách mạng.

Đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 40 năm đổi mới đất nước được Nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, ghi nhận Việt Nam là một đất nước hoà bình, phát triển, ổn định về chính trị; là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia trên toàn cầu; vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đặc biệt là toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm trọng thể 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, triệu triệu người con đất Việt hướng trái tim mình về Điện Biên Phủ để tôn vinh và tri ân những anh hùng, những đồng bào, chiến sĩ đã chiến đấu bảo vệ Tổ quốc để dân tộc thoát khỏi ách xâm lược, thực dân, bảo vệ nền độc lập nước nhà với niềm tự hào về bản lĩnh, khí phách, trí tuệ Việt Nam.

Triệu triệu trái tim ấy cũng đang hướng về Thủ đô Hà Nội, hướng về Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, đoàn kết một lòng, đặt trọn niềm tin vào Ban Chấp hành Trung ương do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu lãnh đạo đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay. Thực tiễn sẽ được đúc kết thành nguyên tắc và nhận thức: Thay thế cán bộ vi phạm nhưng không thay đổi đường lối - Đó là quan điểm và nguyên tắc nhất quán của Đảng trong xử lý cán bộ cấp cao vi phạm. Điều đó phản bác lại các luận điệu và các âm mưu của các thế lực thù địch đang lợi dụng việc xử lý kỷ luật cán bộ cấp cao của Đảng do suy thoái, tham nhũng, tiêu cực để xuyên tạc hòng gây mất ổn định về chính trị, làm giảm uy tín của Đảng, của đất nước ta trước cộng đồng quốc tế.

Sưu tầm

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam.

Sưu tầm

Bác bỏ luận điệu xuyên tạc mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ mang tính nguyên tắc giữa sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân.

Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chính là cơ sở khoa học để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc về mối quan hệ này.

Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ chủ đạo, là cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Chính vì vậy, mối quan hệ này luôn bị các thế lực thù địch công kích, xuyên tạc.

Thời gian qua, các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ này thường tập trung vào các khía cạnh: (1) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, cho rằng “Đảng không có vai trò lãnh đạo Nhà nước”, Đảng lãnh đạo Nhà nước là “Đảng đứng trên Nhà nước”, “bao biện, làm thay, lấn quyền Nhà nước”; “Đảng đứng trên Hiến pháp và pháp luật”; (2) Phủ nhận vai trò quản lý của Nhà nước, phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam; (3) Phủ nhận vai trò làm chủ của nhân dân, cho rằng “Đảng độc đoán, chuyên quyền, phi dân chủ”...

Những luận điệu sai trái, xuyên tạc nêu trên là vô căn cứ, bởi lẽ:

Thứ nhất, thực chất mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là cơ chế vận hành, quyết định hiệu quả sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam.

Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ giữa các chủ thể chính của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Các chủ thể của mối quan hệ này thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các hoạt động của hệ thống chính trị và các đoàn thể chính trị-xã hội đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, bảo đảm cho nhân dân được quyền làm chủ.

Nhân dân làm chủ là một nhân tố không thể tách rời trong cơ chế tổng thể này, vừa là mục tiêu cao nhất khi triển khai thực hiện cơ chế đó trong thực tiễn. Nhân dân tin tưởng và trao quyền lãnh đạo xã hội cho Đảng để Đảng thực hiện khát vọng tự do, dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân lập ra Nhà nước và ủy quyền, ủy nhiệm cho cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, thay mặt mình thực thi quyền lực nhà nước. Do vậy, Nhà nước với tư cách Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có trách nhiệm bảo đảm để mọi công dân thực hiện tốt nhất các quyền cơ bản của mình theo quy định của pháp luật.

Do vậy, hiệu quả thực sự của sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là bảođảmquyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng thông qua việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đều hướng tới mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thứ hai, mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ phản ánh mang tính quy luật biện chứng, thể hiện nội dung lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới chính trị của Đảng ta.

Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, có sự phân vai rõ ràng giữa các nhân tố. Trong đó, Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội và nhân dân.

Với Nhà nước, Đảng thực hiện sự lãnh đạo về chính trị đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Giới hạn quyền lực của Đảng là lực lượng lãnh đạo, có nghĩa Đảng không phải là Nhà nước, không làm thay công việc của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa cương lĩnh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, kế hoạch, chương trình hành động để thực hiện trong toàn xã hội. Đảng xây dựng chủ trương, đường lối theo nguyên tắc tập trung dân chủ, còn Nhà nước thì cụ thể hóa, thể chế hóa các nhiệm vụ do Đảng đề ra.

Với nhân dân, Đảng thực hiện sự lãnh đạo và tổ chức để nhân dân làm chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân thông qua Nhà nước chứ không phải lãnh đạo với tư cách là một chủ thể độc lập ở ngoài hay ở trên Nhà nước, bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà nước. Không có Nhà nước, không thông qua Nhà nước thì Đảng không thể nào lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đảng lãnh đạo nhân dân là để nhân dân phát huy vai trò và thực hiện quyền làm chủ đất nước và xã hội. Việc phát huy vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và làm chủ của nhân dân luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội và nhân dân.

Nhà nước quản lý là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Để thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, hiệu quả, theo nguyên tắc: Nhà nước sinh ra để phục vụ nhân dân. Nhà nước quản lý, thực hiện quyền lực của mình, về thực chất, cũng là thực hiện quyền lực của nhân dân đã ủy quyền cho Nhà nước, từ đó, Nhà nước sẽ hiện thực hóa các quyền, ý chí, nguyện vọng của nhân dân để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công việc quản lý đất nước và xã hội.

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN; bằng việc thể chế hóa chủ trương của Đảng thành pháp luật, chương trình, kế hoạch hoạt động và quản lý xã hội. Sự quản lý của Nhà nước không trái với chủ trương, đường lối của Đảng. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước có mối liên hệ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.

Như vậy, Đảng, Nhà nước không có lợi ích tự thân, sứ mệnh của Đảng, Nhà nước là phục vụ nhân dân; cán bộ, đảng viên, công chức là công bộc, “đầy tớ” của nhân dân.

Nhân dân làm chủ là trung tâm của mối quan hệ này. Nhân dân làm chủ thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp là việc nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước. Tức là nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí của mình (với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước) về một vấn đề nào đó và ý chí đó có ý nghĩa bắt buộc phải thi hành. Dân chủ đại diện là việc nhân dân thông qua các cơ quan nhà nước, các cá nhân được nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của mình. Đây là hình thức chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân. Thông qua các hình thức dân chủ này mà nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Nhân dân còn tự thành lập ra các tổ chức, các hội đoàn theo quy định của pháp luật để thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, xem bộ máy đó có thực hiện đúng những “cam kết” đã thỏa thuận với nhân dân hay không. Nhân dân còn thực hiện quyền giám sát hoạt động của Đảng theo các hình thức và tiêu chí cụ thể được chế định trong Hiến pháp, các văn bản luật và Điều lệ Đảng. Nhân dân làm chủ vừa là mục tiêu cao nhất của mối quan hệ trên, vừa là thành tố có sự tác động trở lại đối với Đảng và Nhà nước. Đó là nhân tố hết sức quan trọng và cần thiết để Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.

Thứ ba, mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở Việt Nam.

Mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta từ năm 1945 đến nay về cơ bản ổn định bao gồm 3 khối: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị này là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong cơ chế vận hành này, bao hàm cả cơ chế thúc đẩy và cơ chế kiểm soát quyền lực giữa 3 chủ thể chính trong hệ thống chính trị Việt Nam: Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân, trong đó, quyền lực của nhân dân là quyền lực gốc.

Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, kiểm soát lẫn nhau, tạo ra động lực của cơ chế, thúc đẩy phát huy tính hiệu quả của nền dân chủ XHCN đã được chế định trong Hiến pháp.

Hiến pháp năm 2013 đã tạo nền tảng hiến định cho sự ra đời các cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước gồm: (1) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát và phản biện xã hội; (2) Công dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và các quyền dân chủ trực tiếp cơ bản của công dân; (3) Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (bao gồm cả cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong của mỗi quyền (tự kiểm soát mình) và cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền) và cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo luật định.

Thứ tư, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Đảng và Nhà nước đều là những tổ chức thực hiện các ủy quyền quyền lực của nhân dân. Nhân dân ủy quyền lãnh đạo chính trị với 3 thẩm quyền cơ bản: (1) Xây dựng và quyết định đường lối chính trị cho sự phát triển của đất nước; quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia; (2) Đảng giới thiệu các đảng viên ưu tú đủ tiêu chuẩn để nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan đại diện và quyền lực nhà nước, giới thiệu để các cơ quan nhà nước bầu hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo; (3) Thực hiện kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên và các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, nhân dân ủy quyền cho Nhà nước thực hiện các quyền quản lý, điều hành đất nước với 3 thẩm quyền cơ bản, đó là: Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp.

Như vậy, tính chất, nội dung, phạm vi quyền lực, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước được xác định là không trùng lặp, phù hợp với vai trò, vị trí và tính chất của mỗi tổ chức. Do đó, nếu nhận thức đúng, vận hành tốt và thông suốt từ phối hợp thống nhất hành động cho đến kiểm soát quyền lực trong từng chủ thể và trong toàn bộ mối quan hệ thì sẽ không có chuyện bao biện, lấn sân nhau.

Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ mang tính nguyên tắc giữa sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong thực tiễn sẽ góp phần quan trọng hiện thực hóa mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở nước ta. Đồng thời đây là cơ sở khoa học để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc mối quan hệ này.

Sưu tầm

Cần lên án mạnh mẽ trò đánh tráo khái niệm về tình hình nhân quyền tại Việt Nam

Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu lâu dài của các thế lực thù địch, phản động, thiếu thiện chí. Trong đó, việc cáo buộc về cái gọi là “tù nhân lương tâm” là nhằm xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Việt Nam không có “tù nhân lương tâm”

Mới đây, Đài châu Á tự do (RFA) lại đề cập đến khái niệm “tù nhân lương tâm” khi đưa tin có những yêu cầu đòi trả tự do cho tất cả các tù nhân loại này ở Việt Nam. Đây không phải là luận điệu mới mẻ gì, bởi từ nhiều năm gần đây, để xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam, các thế lực phản động, thù địch, các tổ chức nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam như RFA thường tìm cách cổ xúy các đối tượng vi phạm pháp luật, bất mãn, cơ hội chính trị. Họ gọi những đối tượng này một cách mỹ miều là “tù nhân lương tâm” nhằm đánh lừa dư luận, vu cáo Nhà nước ta vi phạm nhân quyền.

Không chỉ cổ xúy cho hành vi của các đối tượng được gọi là “tù nhân lương tâm”, các thế lực này còn lớn tiếng yêu cầu cơ quan chức năng phải trả tự do cho các đối tượng này. Họ liên tục đưa ra các luận điệu xuyên tạc như “tù nhân lương tâm trong các trại giam ở Việt Nam thường xuyên bị ngược đãi, đe dọa”; “tù nhân lương tâm bị đánh đập, thiếu đồ ăn thức uống”; “chính quyền Việt Nam phải đặc xá, thả tất cả tù nhân lương tâm”.

Hãy xem những “tù nhân lương tâm” mà RFA thường nhắc đến như Phạm Thị Đoan Trang, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Đình Lượng... là ai. Không khó khăn gì có thể tìm thấy thông tin trên báo chí đã chỉ rõ rằng đây là những người lợi dụng danh nghĩa “đấu tranh dân chủ, nhân quyền”, chống tiêu cực, từ thiện, môi trường… để tuyên truyền chống phá chính quyền; trả lời phỏng vấn đài, báo nước ngoài với nội dung xuyên tạc tình hình Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền... Tất cả những người kể trên đều bị kết án theo một quy trình tố tụng nghiêm ngặt, việc xét xử và bản án được báo chí đưa tin công khai, rõ ràng.

Như vậy, phải khẳng định rõ ở Việt Nam không có “tù nhân lương tâm”. Trên thực tế, việc một người nào đó bị kết án là hậu quả trực tiếp do hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Pháp luật Việt Nam rất rõ ràng. Các quy định về tội phạm và hình phạt đều được cụ thể hóa trong Bộ luật Hình sự và công khai đến tất cả mọi người. Ngay trong khoản 1 Điều 2 Bộ luật Hình sự cũng khẳng định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Vì vậy, việc RFA sử dụng cụm từ “tù nhân lương tâm” khi đề cập đến các đối tượng vi phạm pháp luật ở Việt Nam là hành vi cố tình lấp liếm, đánh tráo khái niệm, để đánh lừa dư luận nhằm mục đích xấu. Không những thế, những ai theo dõi đài RFA đều có thể thấy đây là kênh truyền thông thường xuyên đưa tin tức và bình luận mang tính tiêu cực, một chiều về các sự kiện diễn ra tại Việt Nam. Mục đích là nhằm xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Mới đây nhất, trong khi Đảng, Nhà nước và các địa phương đang nỗ lực ứng phó nhằm giảm tối đa thiệt hại về người và của do cơn bão số 3 (bão Yagi) gây ra, thì FRA lại lên tiếng vu cáo rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến công tác phòng, chống bão lũ, bỏ mặc nhân dân tự chống chọi với thiên tai. Hay khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm lên đường đi tham dự Hội nghị thượng đỉnh tương lai, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79 và làm việc tại Mỹ, RFA lại dựng lên vấn đề “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam và cho rằng việc phóng thích những người này có thể tạo không khí thuận lợi cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam.

Mọi thành quả phát triển đều hướng vào con người

Thực tế trên cho thấy vấn đề nhân quyền luôn bị các thế lực thù địch, phản động, các tổ chức nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam làm “nóng” để tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Tuy nhiên, những thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người là điều không thể phủ nhận.

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ký kết Tuyên ngôn nhân quyền thế giới vào năm 1948 và là thành viên sáng lập của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc vào năm 2006. Việt Nam cũng đã tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã thực hiện nghiêm túc các cam kết và nghĩa vụ quốc tế về quyền con người, đặc biệt là việc tham gia Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) lần thứ ba vào tháng

1-2024. Việt Nam đã trình bày báo cáo quốc gia về tình hình quyền con người trong nước, nhận được nhiều lời khen ngợi và gợi ý từ các quốc gia khác; chấp nhận 241 trong tổng số 291 khuyến nghị của UPR, thể hiện sự cởi mở, hợp tác và cam kết cải thiện quyền con người trong nước.

Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Nói về thành tựu nhân quyền của Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính từng khẳng định:

“Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no, hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”.

Từng nằm trong nhóm các nước nghèo nhất thế giới, nhưng Việt Nam đã vươn mình trở thành một trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất. Trong giai đoạn từ 1989 tới 2023, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng 40 lần. Trong vòng 2 thập kỷ, kể từ năm 1993, hơn 40 triệu người đã thoát cảnh đói nghèo. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng… Sự phát triển nhanh chóng của truyền thông đại chúng, Internet và mạng xã hội ở Việt Nam đã giúp tăng cường tự do báo chí, tự do ngôn luận và quyền tiếp cận thông tin. Hiện nay, số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam đã đạt hơn 78 triệu người, mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ 99,8% dân số Việt Nam.

Những thành tựu đó đã được nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Minh chứng rõ nhất là Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014 - 2016). Điều này thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Việt Nam trong bảo vệ và thực thi quyền con người. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres trong chuyến thăm Việt Nam năm 2022 đã nhấn mạnh rằng, những kết quả mà Việt Nam đạt được là “minh chứng rõ nét cho sự quật cường và nỗ lực của người dân Việt Nam và cho các chính sách lấy người dân làm trung tâm của phát triển”.

Đó là những hiện thực sinh động phản bác những cáo buộc không đúng nhằm vào Việt Nam. Những nhận định phiến diện, thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam cần bị đấu tranh, lên án mạnh mẽ, qua đó đưa đến sự nhìn nhận khách quan, toàn diện, chính xác về những thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam hiện nay.

Sưu tầm

"Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” là đòi hỏi tất yếu của lịch sử

 

“Tôi cho rằng, kỷ nguyên vươn mình này nó rất logic, khách quan, là kết quả tất yếu của những bước đi thành công trước đây. Nhìn nhận như vậy để thấy rằng, một kỷ nguyên mới đã thật sự mở ra cho dân tộc chúng ta”, PGS Nguyễn Viết Thảo - nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nói.  

Gần đây, trong một số phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ở trong và ngoài nước có đề cập đến thông điệp “Việt Nam đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Vậy nội hàm của “kỷ nguyên vươn mình” là gì, kỷ nguyên này bắt đầu từ khi nào và mục tiêu đặt ra là gì? Phóng viên Báo Điện tử VOV phỏng vấn Phó Giáo sư Nguyễn Viết Thảo, giảng viên cao cấp, nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh để làm rõ những vấn đề trên. 

“Kỷ nguyên vươn mình” là kết quả tất yếu của những bước đi thành công trước đây 

PV: Thưa PGS Nguyễn Viết Thảo, ông hiểu thế nào về cụm từ “kỷ nguyên vươn mình” trong tiến trình phát triển của đất nước chúng ta?   
 
PGS Nguyễn Viết Thảo: Vừa qua, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã đưa ra thông điệp chính thức về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Chúng ta có thể hiểu một số nội dung rất cơ bản của khái niệm này. Kỷ nguyên vươn mình đánh dấu thời kỳ phát triển mới của mỗi quốc gia dân tộc, đương nhiên là nó phải phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với tiến trình phát triển chung của nhân loại, đặc biệt phải phù hợp với quá trình phát triển của quốc gia dân tộc đó, phải tạo thành những dấu mốc rất rõ rệt, điển hình.

Đối với Việt Nam chúng ta, từ khi có đảng lãnh đạo năm 1930 đến nay, chúng ta thấy rất rõ sự xuất hiện của các kỷ nguyên.

Sau 15 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, chống thực dân phát-xít và các thế lực phản động khác, đến năm 1945, nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam và cũng bắt đầu từ đây, một trang sử mới của đất nước, trang sử mà nhân dân lao động đứng lên làm chủ vận mệnh của mình dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kỷ nguyên này không chỉ có ý nghĩa với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế, thời đại rất lớn, góp phần tạo ra làn sóng cách mạng, mở ra kỷ nguyên chống thực dân đế quốc của nhiều nước thuộc địa, trở thành quốc gia độc lập.

Tiếp đó, chúng ta lại phải đương đầu với các cuộc xâm lược của thực dân đế quốc. Chúng ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, vừa chống thực dân đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đến năm 1975, chúng ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cả nước đi lên CNXH. 

Từ 1945-1975 là 3 thập kỷ mà Việt Nam có vai trò tiên phong trong đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có nhà thơ đã khắc họa rất chính xác tầm vóc chính trị của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên này:

Cầm cành hoa Việt Nam
Chói ngời trong thế kỷ
Cầm cành đào chân lý
Ta đi qua thời gian

Kỷ nguyên thứ 3 là cả nước đi lên CNXH. Kỷ nguyên này rất quan trọng vì chỉ sau năm 1975, CNXH mới được thiết kế và xây dựng trong hoàn cảnh không còn chiến tranh trên phạm vi cả nước. Nhưng rất tiếc rằng, hệ thống XHCN lúc ấy bắt đầu lâm vào khó khăn, trì trệ, khủng hoảng. Bên cạnh những kết quả rất đáng trân trọng thì trong thời gian này, công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam cũng gặp nhiều hạn chế và lâm vào khủng hoảng nặng nề.

Cho nên bắt đầu từ năm 1986, chúng ta phải tiến hành đổi mới. Đổi mới tư duy nhận thức về CNXH và đổi mới con đường đi lên CNXH. Sau 10 năm đổi mới, đến năm 1996, nước ta cơ bản đã khắc phục được cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ mới của sự phát triển - thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH và cũng chỉ mấy năm sau, đến năm 2010 thì chúng ta đã thoát khỏi tình trạng chậm phát triển để đứng vào danh sách các nước có thu nhập trung bình trên thế giới. 

Như vậy, kể từ năm 2010, chúng ta đã bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên tạo tiền đề cho sự phát triển của Việt Nam trong thế giới mới, trong thời đại mới.

Sau những cột mốc ấy cho đến nay, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Cơ đồ, vị thế, uy tín, sức mạnh đất nước chưa bao giờ có được như bây giờ. Chính những thành công trong kỷ nguyên tạo tiền đề này cho phép chúng ta bắt đầu nói đến một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Tôi cho rằng, kỷ nguyên vươn mình này nó rất logic, khách quan, là kết quả tất yếu của những bước đi thành công trước đây. Nhìn nhận như vậy để thấy rằng, một kỷ nguyên mới đã thật sự mở ra cho dân tộc chúng ta - kỷ nguyên vươn mình, kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ, phấn đấu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào giữa thưa thế kỷ 21. 

“Kỷ nguyên vươn mình” đặt trong bối cảnh thế giới có nhiều chuyển động mang tính thời đại 

PV: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đặt trong bối cảnh thế giới có gì khác so với trước đây và chúng ta đứng trước những cơ hội, thách thức gì, thưa ông?

PGS Nguyễn Viết Thảo: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam sẽ phải đặt trong bối cảnh rất mới, đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nói, đó là bối cảnh thế giới có nhiều chuyển động mang tính thời đại, tức là những chuyển động tầm cỡ thời đại, tác động trong dài hạn đến an ninh và phát triển của tất cả các quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam. 

Thứ nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra một thời đại kinh tế mới - kinh tế số. Khi kinh tế bước vào thời đại mới thì tất cả các lĩnh vực từ xã hội, văn hóa, an ninh chính trị đều phải có những chuyển động sâu sắc. Cuộc cách mạng công nghiệp chắc chắn sẽ tạo ra những vận động mang bước ngoặt của lịch sử toàn thế giới. 

Chuyển động mang tính thời đại thứ hai, đó là toàn cầu hóa. Nó đã diễn ra trong những thập kỷ trước kia nhưng hiện nay và trong những thập kỷ tới, nó sẽ phong phú, mạnh mẽ và đương nhiên ngày càng phức tạp. Mặc dù nó đang bị một số thế lực cản trở nhưng toàn cầu hóa đủ sức khẳng định là một tất yếu, một xu thế, một quá trình không thể đảo ngược. Và chắc chắn nó làm cho thế giới không chỉ xích lại gần nhau mà càng ngày, thế giới càng bị nhất thể hóa. Tất cả các quốc gia, dân tộc, tất cả các chế độ chính trị xã hội khác nhau đều phải tuân thủ quy định chung, giá trị chung, luật pháp chung. Trong bối cảnh đó, mỗi quốc gia, dân tộc có phát triển được hay không tùy thuộc vào vị trí mà mình hội nhập và khai thác được ví trí ấy có lợi cho mình.

Chuyển động mang tính thời đại thứ ba mà tôi cho rằng, chúng ta tuyên truyền chưa xứng tầm, đó là phát triển bền vững như một mô hình phổ quát trên thế giới, bền vững cả về mặt kinh tế, cả về mặt văn hóa xã hội và môi trường sinh thái. Đó là sự phát triển rất toàn diện. Có rất nhiều vấn đề của phát triển không thể được đóng khung trong khuôn khổ của một quốc gia mà phải là xuyên quốc gia. Nó khác xưa rất nhiều. Phát triển bền vững ngày nay như một tất yếu, một mệnh lệnh không thể bị trì hoãn. Chúng ta phát triển theo mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH nhưng phải đặt trong khuôn khổ của phát triển bền vững.

Một chuyển động mang tính toàn cầu nữa, đó là chúng ta phải nhìn sang Chủ nghĩa tư bản (CNTB). Trong 1-2 thập kỷ vừa qua, CNTB đã có những bước điều chỉnh thích nghi, phát triển rất mạnh mẽ. Nhiều học giả đã nói lên một thời kỳ CNTB toàn cầu với sự hình thành của dây chuyền sản xuất tư bản toàn cầu, tư bản xuyên quốc gia, quyền lực Nhà nước tư bản ngày càng mang phạm vi thế giới, thậm chí người ta nói đến một giai cấp tư sản toàn cầu. 

CNTB toàn cầu trong cái phiên bản rất quen thuộc là Chủ nghĩa tự do mới đã đạt được những thành tựu rất ấn tượng ở nhiều khu vực trên thế giới nhưng đồng thời nó lại bộc lộ những mâu thuẫn, hạn chế cố hữu không thể vượt qua. Đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự phân cực, loại trừ nhau, phân hóa xã hội sâu sắc…nó tạo ra mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt, nghiêm trọng. Chính vì vậy, nhân dân lao động toàn thế giới đang đẩy mạnh những cuộc đấu tranh xã hội, phê phán CNTB trong phiên bản mới nhất của nó là Chủ nghĩa tự do mới.

Ngay trong lúc hoàng kim của CNTB và ngay trong thời điểm rất thuận lợi của CNTB khi không còn hệ thống XHCN thì CNTB vẫn không được nhân loại ngày nay chấp nhận như xã hội của tương lai. Mà khẩu hiệu rất hay của phong trào nhân dân toàn thế giới hiện nay, đó là tìm kiếm những phương án thay thế CNTB. Loài người sẽ phải định danh cụ thể hơn, đó là cái gì nhưng chắc chắn họ cho rằng, vượt qua CNTB hiện nay là một đòi hỏi rất rõ ràng của lịch sử. 

Hiểu được thực tế trên để chúng ta vững tin, kiên định trên con đường độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. 

Một chuyển động mang tính toàn cầu sâu sắc nữa mang tính thời đại, đó là cải cách, đổi mới CNXH trên toàn thế giới với những thành công của Trung Quốc, Việt Nam, Lào, sự hiên ngang sáng tạo của Cuba…Chúng ta khẳng định rằng, CNXH vẫn là một thực thể không thể bỏ qua, một thực thể tham gia định hình thế giới hiện đại. Điều đó không chỉ giúp chúng ta vững tin mà còn gợi mở cho chúng ta những nội dung và phương hướng, nhiệm vụ để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đi đến mục tiêu cao cả mà chúng ta vạch ra cho giữa thế kỷ 21 là một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.

Vươn mình để vượt qua bẫy thu nhập trung bình 

PV: Vậy thưa ông, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình được hiểu là bắt đầu từ khi nào, phải chăng được đánh dấu từ Đại hội XIV của Đảng? 

PGS Nguyễn Viết Thảo: Tôi cho rằng, không phải đợi đến Đại hội XIV mà có thể hiểu, kỷ nguyên mới bắt đầu từ bây giờ, trong một bối cảnh thế giới có những chuyển động mang tính thời đại, trong bối cảnh chúng ta có gần 40 năm đổi mới với những thành tựu to lớn như thế và lực mới nhưng chúng ta cũng đứng trước rất nhiều những khó khăn, thử thách mà nhất thiết phải vượt qua. Tôi lấy ví dụ, trước hết phải vượt qua bẫy thu nhập trung bình - một cái bẫy vô cùng gay gắt và nghiệt ngã.

Đa số các quốc gia trên thế giới sau khi thoát nghèo là rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Cho nên Việt Nam ta phải rất cố gắng để không bị rơi vào cái bẫy nghiệt ngã đó. Bẫy thu nhập trung bình là tình trạng phát triển không có tính đột phá của một quốc gia trong vòng 30 năm sau khi thoát nghèo. Nếu anh không hóa rồng, hóa hổ là anh mãi mãi rơi vào bẫy đó. Việt Nam ra khỏi tình trạng chậm phát triển vào năm 2010 đến nay đã được 14 năm. Theo lý thuyết, chúng ta còn 16 năm để bứt lên.

Trong khu vực Đông Nam Á, không ít quốc gia đã và đang rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Cách đây 1-2 thập kỷ, họ hoan hỉ, hăm hở chào đón kỷ nguyên mới để trở thành một quốc gia phát triển nhưng cuối cùng họ đã không thành công. Chúng ta nên nhớ, năm 1960, thu nhập bình quân của người dân Philippines gấp đôi người dân Nam Triều Tiên lúc ấy, nay là Hàn Quốc. Còn đến nay, chúng ta thấy Hàn Quốc và Philippines là hai trình độ phát triển như thế nào. Cái bẫy này nó không trừu tượng mà hiện hữu xung quanh ta. Cho nên phải khắc phục cho được nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về trình độ phát triển giữa ta và các nước trên thế giới.   
 
Thứ hai là nguy cơ không đạt thành công trong việc thực hiện mục tiêu CNH-HĐH. 30 năm qua, từ năm 1991 đến năm 2021, chúng ta chưa đạt mục tiêu yêu cầu đề ra. Nếu không phấn đấu, không nỗ lực thì chúng ta tiếp tục không đạt mục tiêu đề ra cho CNH-HĐH. Đây là yếu tố quyết định trình độ phát triển của đất nước. Chúng ta có trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045 hay không phụ thuộc vào việc chúng ta có hoàn thành CNH-HĐH hay không. Đây là cơ sở, tiền đề vật chất kỹ thuật cho CNXH. Bởi vậy, nếu không thành công trong sự nghiệp CNH-HĐH tức là không thành công trong sự nghiệp xây dựng CNXH. 

Tư duy chiến lược của Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhất thiết phải kịp thời 

PV: Bây giờ để vượt qua tất cả những thách thức này, Việt Nam chúng ta cần phải đi vào những đột phá gì, thưa ông? 

PGS Nguyễn Viết Thảo: Đột phá trước tiên là sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta là Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền, phải xây dựng kịp thời và sáng tỏ tầm nhìn mới - tầm nhìn của một quốc gia vươn mình trong thế giới đang thay đổi. Tầm nhìn này cực kỳ quan trọng. Đại hội XIII mới vạch ra những phác thảo về Việt Nam đến giữa thế kỷ 21. Đó là phác thảo và cần phải cụ thể hóa hơn để toàn đảng, toàn dân dốc sức thực hiện. 

Đột phá thứ hai là phải có những tư duy chiến lược, được thực hiện bằng những chiến lược quốc gia. Tôi rất tâm đắc với một cách định nghĩa: Chiến lược luôn luôn là một sự lựa chọn, lựa chọn vào đúng đột phá, đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng lợi thế, ưu thế của chúng ta. Điều này không phải dễ. Các nước trên thế giới và cả Việt Nam chúng ta cũng đã hơn một lần không xác định trúng lợi thế, ưu thế mũi nhọn. 30 năm CNH-HĐH từ năm 1991 đến năm 2021, chúng ta chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Một trong các nguyên nhân là do không xác định trúng mũi nhọn CNH, không xác định trúng ưu thế lợi thế của chúng ta. Cho nên tôi cho rằng, tư duy chiến lược của Đảng lãnh đạo, cầm quyền nhất thiết phải kịp thời, sáng tỏ, đúng đắn, phù hợp, khả thi.

Trong tư duy chiến lược, dứt khoát phải tìm ra con đường, mô hình CNH phù hợp với Việt Nam, tìm ra con đường CNH của nước đi sau như Việt Nam hiện nay gian nan lắm. Chúng ta có thể tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản, của Trung Quốc, mô hình của các nước Mỹ La tinh, các nước Đông Á…. 

Tôi cho rằng, chúng ta rất cần nghiên cứu các kinh nghiệm trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đương nhiên, trong kỷ nguyên vươn mình này còn có nhiều vấn đề, không chỉ là kinh tế mà còn là những vấn đề văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng…Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chiến tranh thế hệ mới, đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống…Tất cả những cái đó thì phải rất sáng tỏ trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.

 

Khẩn trương hoàn thiện Đề án xây dựng trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam.

 Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Ban Chỉ đạo, các bộ, cơ quan liên quan và Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng tiếp thu ý kiến của các đại biểu, nêu cao tinh thần trách nhiệm, khẩn trương hoàn thiện Đề án xây dựng trung tâm tài chính bảo đảm khả thi, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn để trình các cấp có thẩm quyền xem xét.

Chiều 30/9, tại Trụ sở Chính phủ, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì cuộc họp Thường trực Chính phủ và Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án Trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam. Cùng dự có các Ủy viên Bộ Chính trị: Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên; Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Tại cuộc họp, các đại biểu nghe báo cáo về việc xây dựng Đề án Trung tâm tài chính khu vực, quốc tế tại Việt Nam; thảo luận về bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước; nhu cầu, tiềm năng, các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của việc xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam.

Ghi nhận ý kiến tâm huyết của các đại biểu, kết luận cuộc họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, việc xây dựng Đề án Trung tâm tài chính quốc tế và khu vực là vấn đề mới, khó, chưa có tiền lệ nên phải thảo luận kỹ lưỡng để chọn phương án tốt nhất, nhằm thể chế hóa, cụ thể hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, trong đó có Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Về cách tiếp cận, Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu đi lên bằng năng lực nội sinh, phát huy tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam nói chung, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng nói riêng, với quyết tâm, cơ chế, chính sách, bước đi phù hợp, làm đến đâu chắc đến đó, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ rõ, mục tiêu của việc xây dựng Trung tâm tài chính là để hình thành thị trường tài chính, phát triển các dịch vụ tài chính và các dịch vụ đi theo để huy động nguồn lực tài chính cho sự phát triển của TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng nói riêng, đất nước nói chung.

Về phạm vi, Thủ tướng lưu ý cần nghiên cứu khoanh lại trong phạm vi nhất định, xác định những thế mạnh của Việt Nam để đề ra các cơ chế, chính sách, phương thức quản lý hiện đại, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao. Về đối tượng, cần tập trung vào các đối tượng liên quan đến tài chính, ngân hàng và các dịch vụ đi kèm, thị trường vốn.

Về mô hình, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng cần nghiên cứu, tham khảo các mô hình trung tâm tài chính trên thế giới, tiếp thu các yếu tố tinh túy phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam trong hiện tại và tương lai để đưa ra, xây dựng và phát triển mô hình riêng của Việt Nam.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng yêu cầu Đề án cần xác định rõ các điều kiện về hạ tầng, nguồn nhân lực, tài chính, hệ sinh thái; đề xuất cơ cấu, mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế hoạt động của Trung tâm tài chính khu vực và quốc tế.

Cùng với đó, đề xuất khung pháp lý, cơ chế chính sách đặc thù, đột phá, kể cả về chính sách visa, lao động, thuế, nhân lực chất lượng cao… để thu hút mọi nguồn lực tài chính, nhất là tài chính cho các ngành mới nổi như kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, ứng phó biến đổi khí hậu…; hình thành thị trường tài chính hoạt động lành mạnh, an toàn, hội nhập, bền vững.Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Ban Chỉ đạo, các bộ, cơ quan liên quan và Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng tiếp thu ý kiến của các đại biểu, nêu cao tinh thần trách nhiệm, khẩn trương hoàn thiện Đề án xây dựng trung tâm tài chính bảo đảm khả thi, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn để trình các cấp có thẩm quyền xem xét./.


Việt Nam luôn chào đón và hoan nghênh các doanh nghiệp Mông Cổ.

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định Nhà nước, Chính phủ Việt Nam luôn chào đón và hoan nghênh các doanh nghiệp Mông Cổ mở rộng hợp tác với Việt Nam.

 Trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước tới Mông Cổ, chiều 1/10, tại thủ đô Ulan Bator, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tiếp các tổ chức kinh tế tiêu biểu của Mông Cổ.

Sự kiện do Bộ Công Thương Việt Nam phối hợp với Bộ Ngoại giao Mông Cổ, Phòng Thương mại và Công nghiệp quốc gia Mông Cổ, Đại sứ quán Việt Nam tại Mông Cổ và các cơ quan hữu quan của hai nước tổ chức. Tham dự sự kiện, về phía Việt Nam có các đồng chí: Nguyễn Duy Ngọc, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; lãnh đạo một số bộ, ngành của Việt Nam, Đại sứ Việt Nam tại Mông Cổ.

Về phía Mông Cổ có: Phó Thủ tướng Dorjkhand Togmid; Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Munkhtushig Lhanaajav; Giám đốc điều hành Phòng Thương mại và Công nghiệp Quốc gia Duuren Tumenjargal, Đại sứ Mông Cổ tại Việt Nam; đại diện của Tổ chức “Sáng kiến cách mạng thực phẩm” và lãnh đạo 10 doanh nghiệp tiêu biểu của Mông Cổ trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu (thực phẩm, đồ uống, sản phẩm gia dụng, hàng tiêu dùng), năng lượng, khoáng sản, vận tải, logistics, du lịch, giáo dục, lao động, nông nghiệp, ngân hàng...

Tại buổi tiếp, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh, hiện nay Việt Nam đã trở thành một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, nằm trong nhóm 20 nền kinh tế có quy mô thương mại hàng đầu thế giới, xếp thứ 32 trong top 100 giá trị thương hiệu quốc gia mạnh trên thể giới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước bày tỏ, trong 70 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao (1954 - 2024), quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước Việt Nam - Mông Cổ không ngừng được củng cố và phát triển; trao đổi đoàn, tiếp xúc cấp cao và các cấp được duy trì thường xuyên; sự hiểu biết và tin cậy giữa hai nước luôn được củng cố, hợp tác trên các lĩnh vực được tăng cường. Đặc biệt, hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai nước có tiến triển mới, kim ngạch thương mại hai chiều đạt hơn 120 triệu USD năm 2023 và còn nhiều dư địa phát triển.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đánh giá cao việc gần đây hai bên tổ chức nhiều hoạt động trao đổi hợp tác giữa các cơ quan kinh tế và doanh nghiệp hai nước, qua đó góp phần thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai nước phát triển tương xứng với tiềm năng.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nêu rõ trong thời gian tới, Việt Nam tập trung phát huy nội lực, chủ động hội nhập quốc tế hướng vào chuyển đổi kinh tế số, tăng trưởng xanh, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để hội nhập sâu rộng, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đồng thời, đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng chiến lược, các dự án quan trọng, có tính lan tỏa nhanh vào nền kinh tế để giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh… đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại, nâng cao năng lực nội tại, tính tự chủ của nền kinh tế, tiếp tục cải thiện, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp. Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Trong khi Mông Cổ đang tập trung triển khai “Chính sách phục hồi mới” và các mục tiêu chiến lược “Tầm nhìn 2050”, góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Mông Cổ. Điều đó cho thấy sự tương đồng về mục tiêu, lợi ích hợp tác giữa hai nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định Việt Nam và Mông Cổ có nhiều tiềm năng, cơ hội để phát triển mạnh mẽ, hòa trong dòng chuyển động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn cầu về chuyển đổi nền kinh tế số, tăng trưởng xanh với năng lượng tái tạo, năng lượng mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin. Tất cả hợp tác đều vì sự gắn kết giữa hai dân tộc, hai quốc gia ngày càng bền chặt, sâu sắc, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, phồn vinh, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Phát biểu tại buổi tiếp, Phó Thủ tướng Mông Cổ Dorjkhand Togmid bày tỏ vui mừng về kết quả hợp tác giữa hai nước, nhất là các định hướng hợp tác trong chuyến thăm cấp nhà nước của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tới Mông Cổ. Phó Thủ tướng Dorjkhand Togmid nhấn mạnh, sự kiện là dịp quý báu để các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp tiêu biểu của Mông Cổ chia sẻ những tâm tư, nguyện vọng đến Lãnh đạo cấp cao của Việt Nam, từ đó tìm ra các cơ hội tăng cường hợp tác thương mại và đầu tư với Việt Nam.

Tại buổi tiếp, đại diện các tổ chức kinh tế của Mông Cổ đã có những trao đổi, chia sẻ và đề xuất quan trọng nhằm thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Mông Cổ; mở rộng hợp tác thương mại và đầu tư trong các lĩnh vực; tích cực trao đổi, chia sẻ thông tin về chính sách, tiềm năng phát triển của mỗi nước, các cơ hội và thách thức đang đặt ra cho hai nước trong quá trình hợp tác, đầu tư... Tại buổi tiếp, các cơ quan phía Việt Nam đã ghi nhận, tiếp thu ý kiến và trả lời một số đề xuất của các doanh nghiệp.

Lắng nghe những thông tin giới thiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh cùng với những đề xuất thúc đẩy tăng cường hợp tác với Việt Nam của các tổ chức kinh tế Mông Cổ, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định Nhà nước, Chính phủ Việt Nam luôn chào đón và hoan nghênh các doanh nghiệp Mông Cổ mở rộng hợp tác với Việt Nam. Các bộ, ngành phía Việt Nam luôn đồng hành, sẵn sàng chia sẻ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có doanh nghiệp Mông Cổ kinh doanh có hiệu quả, đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của hai nước. Thành công của các doanh nghiệp Mông Cổ cũng chính là thành công của Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị các cơ quan chức năng của hai bên tiếp tục phối hợp chặt chẽ để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường đối với các sản phẩm nông nghiệp, nhất là chăn nuôi gia súc, khoáng sản, xây dựng công trình, hợp tác logistics, chuyển đổi số, năng lượng xanh, năng lượng sạch./.

Xây dựng cầu Phong Châu mới theo quy định về xây dựng công trình khẩn cấp

 

Ngày 30/9/2024, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 7002/VPCP-CN truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà về việc tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng cầu Phong Châu mới trên quốc lộ 32C nối huyện Tam Nông với huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Văn bản nêu rõ, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đồng ý việc đầu tư xây dựng cầu Phong Châu mới theo quy định về xây dựng công trình khẩn cấp tại Điều 130 Luật Xây dựng.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với các Bộ: Xây dựng, Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính và Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ phương án ủy quyền như đề xuất của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ hoặc giao Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ làm cơ quan chủ quản đầu tư trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật, bảo đảm hoàn thành công trình chậm nhất trong năm 2025; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 5/10/2024.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải khẩn trương đề xuất nguồn vốn từ ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng cầu Phong Châu mới, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 5/10/2024.

Trước đó, ngày 9/9/2024, mực nước trên sông Hồng dâng cao làm sập nhịp cầu Phong Châu trên Quốc lộ 32C nối huyện Tam Nông và huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản của Nhân dân và làm đứt gãy giao thông trên tuyến Quốc lộ 32C.

Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 89/CĐ-TTg ngày 9/9/2024 chỉ đạo khắc phục hậu quả vụ sập cầu và bảo đảm hoạt động giao thông an toàn trong mùa mưa lũ, nhất là tại khu vực các tỉnh Tây Bắc Bộ. Ngày 16/9/2024, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục có Công điện số 96/CĐ-TTg về việc khẩn trương nghiên cứu đầu tư xây dựng cầu Phong Châu mới trên Quốc lộ 32C nối huyện Tam Nông và huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

Ngày 20/9/2024, UBND tỉnh Phú Thọ đã có văn bản 3961/UBNDCNXD báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả khảo sát, tính toán và dự kiến quy mô đầu tư cầu Phong Châu mới.

Theo đó, vị trí xây dựng cầu Phong Châu mới dự kiến tại vị trí cầu Phong Châu cũ (km18+300 quốc lộ 32C).

Về phương án thiết kế, tổng chiều dài tuyến khoảng 1.000 m; trong đó cầu có chiều dài khoảng 393 m; đường dẫn và kết nối có chiều dài khoảng 600 m. Kết cấu cầu bằng bê tông cốt thép và bê tông cốt thép dự ứng lực, thi công theo phương pháp đúc hẫng cân bằng. Bề rộng toàn cầu là 21,5 m, gồm: 04 làn xe cơ giới, 2 làn xe thô sơ, dải phân cách, dải an toàn và lan can cầu; sơ đồ nhịp (90+135+90)+(33+33) m. Đường dẫn và kết nối được nâng cấp, mở rộng theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng (tốc độ thiết kế 80 km/giờ). Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 865 tỷ đồng.

Ngày 23/9/2024, UBND tỉnh Phú Thọ tiếp tục có văn bản số 3976/UBND-CNXD đề nghị Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ quyết định đầu tư xây dựng khẩn cấp công trình theo quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 3 Điều 130 Luật Xây dựng (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 48 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng).

Từ 6h sáng 30/9, Lữ đoàn Công binh 249 chính thức cho thông xe cầu phao Phong Châu nối hai bờ sông Hồng thuộc huyện Tam Nông và huyện Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ) phục vụ nhu cầu đi lại trước mắt của người dân.

Thủ tướng Ph.ạm Minh Chính: Thi đua cao điểm 450 ngày đêm xóa nhà tạm, nhà dột nát trên toàn quốc

 

Chiều 1-10, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bộ, cơ quan về triển khai hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Cùng dự cuộc làm việc có: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình; các Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, Lê Thành Long; lãnh đạo các bộ ngành, cơ quan Trung ương.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, qua rà soát, hiện nay cả nước còn hơn 153.000 nhà tạm, dột nát ở các mức độ khác nhau; nếu hỗ trợ các hộ dân với mức 50 triệu đồng/hộ xây mới, 25 triệu đồng đối với hộ sửa chữa nhà ở thì cả nước cần hơn 6.500 tỷ đồng.

Tại lễ phát động phong trào Chung tay xóa nhà tạm, dột nát đến năm 2025, các tổ chức, cá nhân đã ủng hộ 320 tỷ đồng vào Quỹ cả nước chung tay xóa nhà tạm, dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Đến nay, các địa phương cũng vận động được hơn 44 tỷ đồng cho công tác này.

Các đại biểu tham dự cuộc họp thảo luận sôi nổi, trách nhiệm, tâm huyết, đánh giá tình hình triển khai phong trào Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát, nhất là rà soát số lượng, đối tượng người có nhà tạm, nhà dột nát; phương pháp huy động nguồn lực; cách thức quản lý, phương pháp triển khai việc xóa nhà tạm, dột nát cho người nghèo, người cận nghèo. Nhiều ý kiến đề nghị sử dụng ngân sách Nhà nước hỗ trợ các hộ nghèo, cận nghèo xóa nhà tạm, dột nát.

Kết luận cuộc họp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết phong trào thi đua “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025” đã được phát động, triển khai có hiệu quả, không hình thức. Tuy nhiên để hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát trên toàn quốc vào cuối năm 2025, chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cần cách làm mới, quyết liệt, khoa học, hiệu quả hơn.

Theo Thủ tướng, cùng với xây dựng nhà ở cho người có công và theo 3 chương trình mục tiêu quốc gia, từ nay đến hết năm 2025, cả nước phải xóa hơn 153.000 nhà dột nát, nhà tạm cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Với phương châm “Nhà nước hỗ trợ, nhân dân làm chủ; Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội hỗ trợ”, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thành lập Ban Chỉ đạo về xóa nhà tạm, dột nát cho tất cả các đối tượng, do Thủ tướng làm Trưởng Ban; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc, Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là Phó ban; lãnh đạo các Bộ: Quốc phòng, Công an, Xây dựng, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam là thành viên Ban Chỉ đạo. Các địa phương phân công Bí thư cấp ủy Đảng trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo về xóa nhà tạm, dột nát, với nguyên tắc cấp trên không làm thay cấp dưới.

Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ, huy động tất cả các nguồn lực cho xóa nhà tạm, dột nát cho người dân. Cùng với nguồn lực Nhà nước, huy động nguồn xã hội hóa bao gồm tài chính, vật liệu, công sức và các hình thức nguồn lực khác.

Thông qua ý kiến của các đại biểu, đặc biệt qua công tác lãnh đạo chỉ đạo, theo dõi tình hình và khảo sát thực tế, Thủ tướng Chính phủ cho rằng phải huy động cả hệ thống chính trị, huy động sức mạnh tổng hợp vào cuộc xóa nhà tạm, dột nát cho người nghèo, người cận nghèo.

Theo Thủ tướng, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, cần phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường, tự lo cho chính mình của người dân, sự giúp đỡ của làng xóm, họ hàng, các đoàn thể chính trị - xã hội như thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, với phương châm “ai có của giúp của, ai có công giúp công; ai có ít giúp ít, có nhiều giúp nhiều”, “người dân tự hỗ trợ nhau; thôn hỗ trợ thôn, xã hỗ trợ xã, huyện hỗ trợ huyện, tỉnh hỗ trợ tỉnh"; "các bộ, ngành, doanh nghiệp, tổ chức xã hội chung tay hỗ trợ các địa phương xóa nhà tạm, dột nát".

Người đứng đầu Chính phủ chỉ đạo, các bộ, ngành, địa phương phải "quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, làm việc nào dứt việc đó"; phân công lãnh đạo phụ trách “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ kết quả”; tổ chức phát động phong trào sâu rộng, thực chất; quản lý, tiếp nhận sự ủng hộ chặt chẽ, giảm khâu trung gian; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống tiêu cực, thất thoát…; phấn đấu đến ngày 31-12-2025 cả nước hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi toàn quốc.

Trước mắt, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tổ chức phát động đợt thi đua cao điểm 450 ngày đêm; huy động sức mạnh tổng hợp toàn xã hội, chung tay hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát trên toàn quốc. Các cơ quan truyền thông tăng cường truyền thông vận động cho phong trào, giới thiệu các mô hình hay, hiệu quả để nhân rộng điển hình.