Nhận thức đúng đắn về nội dung, thủ đoạn thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay và tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của chúng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của các cơ quan trong hệ thống chính trị hiện nay. Để làm tốt nhiệm vụ này; đẩy lùi nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức, viên chức cần có giải pháp đồng bộ, toàn diện, trong đó đào tạo, bồi dưỡng là một giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, không chỉ cần bồi dưỡng về năng lực mà còn cần nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ. Điều này đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải thực sự là những người có bản lĩnh, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2020
Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2020
NỮ ĐIỆP VIÊN LÀM TAN XÁC CHIẾN HẠM TRÊN BIỂN SẦM SƠN.
Cách đây 70 năm, ngày 27/9/1950 tại vùng biển Sầm Sơn, Thanh Hoá, Điệp báo Nha Công an Trung ương phối hợp với Công an Thanh Hoá đã lập chiến công vang dội, đánh đắm chiến hạm Amiôđanhvin của thực dân Pháp tại biển Sầm Sơn.
Với 30 kg
thuốc phát nổ, bà Nguyễn Thị Lợi khiến hơn 200 sĩ quan địch tan xác, cùng với đồ
chi viện trên chiến hạm Amyot D'Inville chìm xuống vùng biển Sầm Sơn (Thanh
Hóa).
1. Người
phụ nữ kiên trung
Sự việc
diễn ra vào sáng ngày 27/9/1950, 4 chiến sỹ dân quân xã Quảng Tường (nay là phường
Trung Sơn, thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa) chèo thuyền đưa Nguyễn Thị Lợi (bí số
A16) trong vai phu nhân của Quốc vụ khanh, đàng hoàng lên tàu Amyot D'Inville.
Lấy lý do
sức khỏe, phu nhân Quốc vụ khanh vào phòng nghỉ mang theo 30kg thuốc nổ được đựng
trong một chiếc valy. Khoảng 30 phút sau, chiến hạm Amyot D'Inville đã nổ tung.
Hơn 200
sĩ quan địch, cùng với hàng trăm tấn vũ khí, quân trang, quân dụng mà thực dân
Pháp dự định chi viện cho quân đội Pháp ở Việt Nam bị chìm xuống đáy biển. Cùng
trên chiếc chiến hạm ấy, Nguyễn Thị Lợi đã anh dũng hi sinh, mãi mãi nằm dưới
lòng biển.
Nguyễn Thị
Lợi (SN 1911) quê ở Châu Phú, Châu Đốc, tỉnh An Giang. Khi kháng chiến toàn quốc
bùng nổ, bà gửi người con gái đầu cho mẹ đẻ ở quê rồi đưa người con trai nhỏ
theo chồng ra Bắc. Trên đường đi, bom đạn của kẻ thù đã cướp đi người con trai
và chồng bà. Ở trong vùng kháng chiến, bà được mọi người đùm bọc, động viên vượt
qua nỗi đau mất chồng, con.
Tại vùng
kháng chiến phía tây nam Thanh Hóa, bà Nguyễn Thị Lợi đã gặp Hoàng Đạo (Nguyên
Trưởng Ty Công an Thanh Hóa, lúc bấy giờ là Tổ trưởng Tổ Điệp báo A13). Nhận thấy
bà Lợi là người phụ nữ bản lĩnh, thông minh, kiên trung, có tố chất của một chiến
sĩ điệp báo nên ông Hoàng Đạo đã kết nạp bà vào Tổ Điệp báo do ông phụ trách.
Theo ghi
chép, đầu năm 1949, Ty Điệp báo Trung ương chủ động, khéo léo đưa điệp viên
thâm nhập vào bộ máy Chính phủ Bảo Đại. Trong vai trò Quốc vụ khanh, đồng chí
Hoàng Đạo đã xâm nhập và đứng vững trong bộ máy Chính phủ Bảo Đại.
Để dễ
dàng khống chế, địch chủ động đề nghị Quốc vụ khanh Hoàng Đạo đưa phu nhân ra
Hà Nội chung sống. Thực dân Pháp cho chiến hạm Amyot D'Inville, một trong những
Thông báo hạm lớn nhất của Pháp trong khu vực Thái Bình Dương, đón phu nhân Quốc
vụ khanh.
Trước
tình hình mới, cấp trên lệnh cho ông Hoàng Đạo kết thúc nhiệm vụ trong hàng ngũ
địch để nhận nhiệm vụ khác. Đồng thời, qua phân tích tình hình, ta quyết định
đánh bom Amyot D'Inville nhằm tiêu diệt nặng nề sinh lực địch, gây hoang mang,
dao động trong giới quân sự, chính trị Pháp, làm phá sản âm mưu chiến tranh của
thực dân Pháp.
Điệp báo
Hà Nội và Thanh Hóa được giao thực hiện nhiệm vụ quan trọng, nguy hiểm này.
Nhân vật cốt yếu đảm bảo cho thắng lợi là người đóng vai phu nhân Quốc vụ
khanh. Trước nhiệm vụ vinh quang, bà Nguyễn Thị Lợi đã đề nghị với ông Hoàng Đạo
được tham gia trận đánh, xin tình nguyện hy sinh cho Tổ quốc.
Ngày
3/8/1995, Nhà nước ta truy tặng cho nữ điệp viên Nguyễn Thị Lợi danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân.
2. Mộ gió
nơi biển khơi
Nơi bà Nguyễn Thị Lợi lên tàu để thực hiện nhiệm vụ hy sinh nay là phường Trung Sơn (thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa). Câu chuyện hy sinh của bà năm ấy vẫn như còn mới nguyên về lòng dũng cảm, tinh thần hy sinh vì Tổ quốc. Thi thể bà đã hòa vào biển khơi, nhưng với nhân dân Sầm Sơn, con đường, ngôi trường mang tên bà như những ngôi mộ gió để truyền lại cho các thế hệ tấm gương của bà.
Để ghi nhớ
điểm mốc nơi xuất phát lên đường làm nhiệm vụ của người anh hùng Nguyễn Thị Lợi,
năm 2007, chính quyền địa phương đã xây dựng bia tưởng niệm tại bờ biển thuộc
phường Trung Sơn, nơi bà Nguyễn Thị Lợi lên thuyền để đến chiến hạm Amyot
D'Inville của giặc thực hiện sứ mệnh cao cả vì độc lập tự do của dân tộc./.
Thực hiện chuyển giao thế hệ lãnh đạo vững vàng, chắc chắn, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao
Phát biểu tại Hội nghị giao ban trực tuyến Ngành Tổ chức xây dựng Đảng 9 tháng đầu năm 2020, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Những Đảng bộ trực thuộc Trung ương đã hoàn thành việc tổ chức Đại hội khẩn trương chuẩn y nhân sự Ban Chấp hành, Ban Thường vụ khóa mới; thực hiện chuyển giao thế hệ lãnh đạo vững vàng, chắc chắn, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao.
Theo ông Phạm
Minh Chính, ngành Tổ chức xây dựng Đảng cần thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết
Trung ương về công tác tổ chức xây dựng Đảng gắn với việc chuẩn bị nhân sự Đại
hội XIII của Đảng. Thực hiện nghiêm túc Quy định 205 của Bộ Chính trị để tăng
cường siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ, góp phần đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, nhất là thực hiện kiểm
soát quyền lực trong việc xây dựng phương án nhân sự và bầu cử đại hội. Không lợi
dụng quy trình công tác cán bộ để thực hiện ý đồ cá nhân.
Tại đại hội,
một số kinh nghiệm được rút ra qua quá trình tổ chức chỉ đạo Đại hội đảng bộ
các cấp cho thấy, từng cấp ủy viên, nhất là người đứng đầu cần đề cao trách nhiệm
nêu gương, bảo đảm đúng quy định, thật sự công tâm, trong sáng, dân chủ, khách
quan.
Đối với
những việc khó, phức tạp, nhạy cảm phải thực hiện nhất quán, giữ vững nguyên tắc,
phát huy dân chủ, huy động trí tuệ tập thể và quyết định theo đa số. Không bố
trí người nhà, người thân, “cánh hẩu” thiếu tiêu chuẩn, điều kiện hoặc hợp thức
hóa quy trình nhân sự để thực hiện ý đồ cá nhân với động cơ, mục đích không
trong sáng.
Ngoài ra,
công tác chỉ đạo, lãnh đạo việc thẩm định, rà soát hồ sơ cán bộ của các cơ quan
tham mưu phải bảo đảm thực hiện “từng bước chắc chắn, từng khâu kỹ lưỡng, từng
việc hiệu quả; thực hiện từng nhóm chức danh từ thấp đến cao; làm đến đâu, dứt
đến đấy”./.
VIỆT NAM - TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ KHI CHẶN ĐỨNG COVID-19 VẪN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Báo Les Echos của Pháp hôm 29/9 đăng tải bài viết với tựa đề “Covid-19: Ngoại lệ Việt Nam”, trong đó cho rằng với số ca tử vong do mắc Covid-19 ở mức thấp, Việt Nam đang tái khởi động các hoạt động kinh tế và nước này có thể tự hào vì chặn đứng được đại dịch.
Theo tác giả Michel De Grandi, Việt Nam ghi nhận 1.077 ca nhiễm Covid-19 và 35 ca tử vong, đồng thời qua 28 ngày không có ca lây nhiễm mới trong cộng đồng (tính đến ngày 30/9), trong tổng số gần 100 triệu người.
Ngay từ
khi những ca nhiễm đầu tiên tại tâm dịch Vũ Hán của Trung Quốc được phát hiện,
Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng tăng cường các biện pháp kiểm soát dịch bệnh
trên cả nước, trong đó hạn chế đi lại, tạm ngừng các chuyến bay..., đồng thời
cách ly những người nhập cảnh.
Do thực
hiện các biện pháp hạn chế này, thương mại xuyên biên giới bị ảnh hưởng nặng nề,
tuy nhiên Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý III/2020 của Việt Nam vẫn tăng 2,6%
so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo ông
Dương Mạnh Hùng - Trưởng phòng Tăng trưởng của Tổng cục Thống kê quốc gia, mục
tiêu tăng trưởng 2% cho năm 2020 của Việt Nam hoàn toàn khả thi.
Bài báo
cho biết trong 9 tháng qua, xuất khẩu của Việt Nam tăng 4,2% và sản xuất cũng
khởi sắc, có thể duy trì nhịp độ của năm trước. Một cuộc khảo sát cho thấy 81%
người dân tin rằng nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ được đà tăng trưởng.
Cũng theo
Tổng cục Thống kê, Chính phủ Việt Nam dành ưu tiên cho đầu tư công và sẽ tiếp tục
trong năm tới. “Chính phủ đang ưu tiên cho đầu tư công và sẽ duy trì trong năm
2021, điều này sẽ thúc đẩy tăng trưởng GDP trong quý cuối cùng của năm nay”,
ông Phạm Đình Thủy - Vụ trưởng Vụ Công nghiệp, Tổng cục Thống kê, cho hay.
Bên cạnh
đó, chi tiêu hộ gia đình sẽ tái khởi động từ nay đến cuối năm và sẽ kéo dài cho
đến Tết Âm lịch, vào ngày 12/2/2021./.
Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2020
CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU ĐÔNG 70 NĂM TRƯỚC
Là cuộc tiến công quy mô lớn đầu tiên chống Pháp xâm lược, chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mặt trận chỉ đạo.
Do thất bại
trong kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh", từ năm 1948, thực dân Pháp
thay đổi chiến lược, chuyển sang "đánh kéo dài", đẩy mạnh âm mưu
"dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
Đến giữa
năm 1949, thực dân Pháp thực hiện kế hoạch Rơve (do tướng G.Revers, Tổng tham
mưu trưởng quân đội Pháp đề xướng), đẩy mạnh củng cố hành lang Đông - Tây, mở rộng
chiếm đóng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, củng cố tuyến phòng thủ biên giới Đông Bắc,
thực hiện âm mưu khóa chặt biên giới Việt - Trung.
Yêu cầu
chiến lược của Việt Nam lúc này là phải phá tan âm mưu phong tỏa biên giới phía
Bắc của Pháp, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cách mạng Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.
Thực hiện
nhiệm vụ Trung ương giao, ngày 7/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch
giải phóng vùng biên giới Đông Bắc tại Cao Bằng - Lạng Sơn, lấy mật danh là chiến
dịch Lê Hồng Phong II, tiến công phòng tuyến của địch trên đường số 4, tập
trung vào Cao Bằng - Thất Khê.
Chiến dịch
do Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp tổ chức, chỉ huy; đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy; Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn
Thái làm Tham mưu trưởng.
Với quyết
tâm giành thắng lợi cho chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược quan trọng này,
Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp nghiên cứu tình
hình, phê chuẩn kế hoạch tác chiến, chỉ đạo các ngành ở Trung ương và địa
phương phục vụ tiền tuyến và phối hợp chiến trường trên toàn quốc.
Chiến dịch
gồm 4 bước: Đánh Đông Khê; đánh quân chi viện của địch lên Đông Khê; đánh Thất
Khê; đánh Cao Bằng. Lúc đó, Hồ Chủ tịch chỉ ra điểm mạnh của thực dân Pháp tại
mặt trận Cao Bắc Lạng là gồm nhiều tiểu đoàn Âu Phi, lại có công sự kiên cố. Điểm
yếu là đồn bốt đóng theo tuyến đường dài, nếu bị đánh gãy một đoạn thì các vị
trí sẽ bị cô lập.
Ngày
9/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ kêu gọi đồng bào Cao Bắc Lạng
giúp đỡ bộ đội để giành thắng lợi. Trước ngày diễn ra trận đánh Đông Khê, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đến thăm cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 296 và giao nhiệm vụ phải
đánh thắng trận mở màn của Chiến dịch Biên giới.
Ngày
16/9/1950, quân đội Việt Nam với lực lượng áp đảo đánh vào cụm cứ điểm Đông
Khê, mở màn chiến dịch biên giới. Sáng 18/9, Đông Khê bị thất thủ, quân địch bị
dồn vào thế nguy khốn: Thất Khê bị uy hiếp, thị xã Cao Bằng bị cô lập, hệ thống
phòng ngự trên đường số 4 lung lay.
Mất Đông
Khê, quân Pháp được lệnh rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4, quân Pháp ở Thất
Khê được lệnh tiến đánh Đông Khê để đón cánh quân từ Cao Bằng rồi cùng rút về
xuôi.
Địch rơi
vào thế trận đã giăng sẵn của quân đội Việt Nam. Phương châm "đánh điểm,
diệt viện" đã phát huy hiệu quả.
Chiến dịch
đã diễn ra đúng như dự liệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng. Để động
viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân, ngày 20/9/1950, hai ngày sau thắng
lợi của trận mở màn Đông Khê, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi, thăm hỏi
bộ đội bị thương.
Khi được
tin quân Pháp rút khỏi Cao Bằng và binh đoàn Lơ Pagiơ lên cứu viện bị bộ đội
vây chặt ở khu vực Cốc Xá, ngày 6/10/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện động
viên chiến sĩ đang tham gia chiến dịch: "Hiện nay tình hình rất có lợi cho
ta. Vậy các chiến sĩ phải quyết tâm tiêu diệt địch để giành lấy toàn thắng".
Ngày
7/10/1950, binh đoàn Lơ Pagiơ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, sau nhiều ngày chiến đấu
liên tục, một số cán bộ, chiến sĩ muốn được nghỉ ngơi một ngày rồi tiếp tục tiến
đánh binh đoàn Sáctông ở Cao Bằng về. Nhận rõ cơ hội và thời gian đóng vai trò
rất quan trọng, để động viên bộ đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Ta mệt
một, địch mệt gấp năm, gấp bảy lần. Lúc này là thời cơ tốt nhất để diệt địch".
Ngày
8/10/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến các chiến sĩ biểu dương tinh thần
vượt khó giành thắng lợi trong những ngày qua và khuyên nhủ: "Các chú đã
hoàn thành bảy phần mười cuộc thử thách một cách dũng cảm. Các chú cố gắng mà
tiêu diệt nốt binh đoàn Sáctông nhé".
Với đường
lối chỉ đạo chiến lược cùng sự quan tâm sâu sát của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chiến
dịch Biên giới thu được những kết quả tốt đẹp, các chiến sĩ đã không quản mệt
nhọc, nhanh chóng cơ động tiếp tục diệt gọn binh đoàn Sáctông, làm nên thắng lợi
lớn./.
Sự sụp đổ của Liên Xô gây ra hậu quả nặng nề như thế nào?
Dưới thể chế đa đảng, hệ thống Nhà nước yếu ớt và việc thiếu vắng một lý tưởng đoàn kết xã hội, tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước cộng hòa cũ thuộc Liên Xô đã không ngừng dâng cao, khuynh hướng ly khai, dân tộc hẹp hòi ngày càng trở nên trầm trọng. Thập niên 1990, hàng loạt các cuộc chiến tranh ly khai nổ ra tại các nước thành viên thuộc Liên Xô cũ, khiến hàng trăm ngàn người thiệt mạng.
Hệ
thống y tế miễn phí và rộng khắp của Liên Xô bị hủy. bỏ, hàng
loạt bệnh viện công bị tư hữu hóa. Viện phí theo đó tăng chóng
mặt, nhiều người dân không có đủ tiền đi chữa bệnh. (điều
chưa từng xảy ra dưới thời Liên Xô). Từ năm 1992 trở đi, dân số
nước Nga luôn có xu thế giảm. Tuổi thọ bình quân của người Nga
năm 1990 là 69,2 tuổi, đến năm 2001 sụt còn 65,3 tuổi. Thậm chí,
tuổi thọ bình quân của nam giới ở một số vùng giảm xuống chỉ
còn 50 tuổi.
Sự šụp đ.ổ
của Liên Xô sau này được Tổng thống Nga Putin gọi là “Thảm họa địa chính trị tồi
tệ nhất thế kỷ 20. Đối với nước Nga, nó đã trở thành một bi kịch thực sự. Hàng
triệu công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên thấy họ đang sống
bên ngoài lãnh thổ Nga”. Cựu Thủ tướng Nga Evgeny Primakov cho rằng: “Cái giá của
sự sụp đổ. Liên Xô là rất khủng khiếp, nền kinh tế Nga ŧổn thất còn nhiều hơn Chiến
tranh thế giới thứ hai. Sẽ là điên rồ nếu nói rằng đất nước này được hưởng lợi
từ những năm 1990.”
Đảng
Cộng sản Liên Xô biến mất, Liên Xô tan rã đã mang lại hậu quả tai
hại cho nhân dân Liên Xô. Rất nhiều học giả Nga cũng rút ra kết
luận rằng, Liên Xô tan rã làm cho phát triển kinh tế – xã hội
tại Nga thụt lùi mấy chục năm.
Cựu
Tổng thống Ukraine Leonid Kravchuk, một trong ba nhân vật hàng đầu
tham gia ký kết hiệp định giải thể Liên Xô sau này đã nói: “Nếu
như năm 1991, tôi biết được đất nước sẽ phát triển đến như
cục diện như ngày hôm nay thì khi đó tôi đã nhất quyết chặt đứt
cánh tay mình chứ không ký vào Hiệp định đó.
Khảo
sát của hai cơ quan điều tra dư luận ở Nga cho thấy: đa số
người dân Liên Xô cũng không muốn đất nước Liên Xô tan rã. Cuối
năm 2005, kết quả một cuộc điều tra dư luận của hai cơ quan
độc lập nổi tiếng ở Nga cho thấy: 76% số người cho rằng Liên
Xô có rất nhiều điểm đáng để tự hào; 66% người Nga ngày nay cảm thấy
nuối tiếc cho sự sụp đổ của Liên Xô; 72% và 80% số người được hỏi
lần lượt cho rằng Gorbachev và Yeltsin đã đẩy đất nước vào con
đường sai lầm; chỉ có 1% số người được hỏi mong muốn sống
dưới thời Yeltsin, 60% người Nga tin rằng: sự sụp đổ của Liên Xô
gây nhiều tác hại nhiều hơn là lợi ích. Trong cơn đại hồng thủy
đó, nhiều nước cộng hòa hậu Xô viết đã rơi vào bạo lực sắc
tộc sau khi có được độc lập, khiến cả trăm ngàn người thiệt mạng.
Theo cuộc
khảo sát của Sputnik. Ở Nga, 64% số người đã trải qua thời kỳ Liên Xô đánh giá
rằng chất lượng cuộc sống thời đó cao hơn. Ở Ukraina, đồng ý với tuyên bố này
có 60% số người trả lời, còn tỷ lệ cao nhất là ở Armenia (71%) và Azerbaijan
(69%). Mneniya tại 9 nước trong số 11 quốc gia thuộc Liên Xô cũ vào năm 2016,
phần lớn cư dân trên 35 tuổi (những người đã trải qua cuộc sống dưới thời Liên
Xô) cho rằng cuộc sống ở Liên Xô tốt hơn so với thời kỳ sau khi đất nước tan rã./.
Bất tuân dân sự - một thủ đoạn nguy hiểm
Thuật ngữ "bất tuân dân sự" lần đầu tiên xuất hiện trong tập tiểu luận của Henry David Thoreau-nhà văn, nhà tư tưởng người Mỹ-với nhan đề "Dân sự bất hợp tác", vào tháng 5-1849. Nội dung cơ bản của tập tiểu luận bàn về mối quan hệ giữa cá nhân (hoặc thiểu số công dân) với nhà nước. Theo đó, cá nhân (hoặc thiểu số công dân) có thể không tuân thủ, không phục tùng nhà nước; thậm chí, có thể thực hành chống lại luật pháp của nhà nước nếu cảm thấy những điều luật đó không phù hợp với người dân, kể cả là với thiểu số, bằng phương pháp "cách mạng hòa bình".Thực chất đây là quan điểm cực đoan, "vô chính phủ" của một kẻ vốn là phạm nhân (H.D. Thoreau viết tập tiểu luận này nhằm biện minh cho việc ông ta phải ngồi tù ở bang Massachusetts vì tội không đóng thuế). Mặc dù ở thời điểm ra đời, tác phẩm của H.D. Thoreau không gây được sự ảnh hưởng nào, nhưng sang thế kỷ 20, tư tưởng về một cuộc "cách mạng hòa bình" của ông được một số nhà hoạt động chính trị lợi dụng phát triển thành phương pháp đấu tranh bất bạo động như phong trào "Satyagraha" của Mahatma Gandhi đấu tranh giành quyền lợi cho người Ấn Độ ở Nam Phi (năm 1914) và giành độc lập cho Ấn Độ từ thực dân Anh (năm 1947); phong trào đấu tranh dân quyền ở Mỹ của Martin Luther King (thập niên 60 thế kỷ 20); phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc (chủ nghĩa Apartheid) ở Nam Phi của Nelson Mandela...
Đặc biệt, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc ra đời với tư tưởng chủ đạo là chuyển cuộc đấu tranh vào bên trong các nước XHCN. Từ đó, "bất tuân dân sự" từng bước trở thành một phương thức, thủ đoạn nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với các phương thức, thủ đoạn khác của chiến lược "diễn biến hòa bình". Trong các cuộc "cách mạng ca hát", "cách mạng màu", "cách mạng đường phố" ở các nước Đông Âu và Liên Xô vào những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21; "Mùa xuân Ả Rập" ở các nước Trung Đông và Bắc Phi đầu những năm 2010... đều có dấu ấn của phong trào "bất tuân dân sự". Gần đây nhất là phong trào biểu tình nhằm lật đổ Chính phủ Bolivar ở Venezuela (từ năm 2017 đến nay); phong trào “cách mạng dù” của sinh viên Hồng Công (năm 2014 và 2019) đều thể hiện rất rõ thủ đoạn "bất tuân dân sự".
Như vậy, “bất tuân dân sự” khi được sử dụng trong tay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã trở thành một thủ đoạn phản cách mạng nhằm chống phá, lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ chính trị ở những nước tiến bộ, không cùng "quỹ đạo" với chúng.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về "bất tuân dân sự" nhưng thực chất “bất tuân dân sự” là các hoạt động công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức đối với một số đạo luật nhất định nhằm cản trở quá trình thực thi chính sách, luật pháp của nhà nước; là hình thức phản kháng bất bạo động, gây áp lực buộc nhà nước phải thay đổi chính sách, luật pháp, thậm chí lật đổ chính quyền; bản chất là hành vi vi phạm pháp luật.
“Bất tuân dân sự" là các hoạt động công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức đối với một số quy định pháp luật nhất định của nhà nước. Điều này khác hẳn với nguyên tắc phổ biến mà hầu hết các nhà nước pháp quyền trên thế giới đều thực hiện, đó là: Tiểu số phục tùng đa số; lợi ích riêng phải nằm trong lợi ích chung; lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích cộng đồng, xã hội, dân tộc. Vì vậy, "bất tuân dân sự" về cơ bản thể hiện tư tưởng cực đoan, "vô chính phủ", hầu như không được nhà nước pháp quyền nào chấp nhận (ngoại trừ những thế lực muốn lợi dụng nó để chống lại nhà nước pháp quyền).
"Bất tuân dân sự" hình thức phản kháng, không tuân thủ, không phục tùng, không hợp tác cơ bản là ôn hòa, bất bạo động. Tuy nhiên, không phải tất cả hình thức đều là ôn hòa, bất bạo động. Thậm chí, theo những người chủ trương "bất tuân dân sự", hành động vũ trang của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh hơn có vũ trang thì được coi là bất bạo động. Điều này thể hiện sự mập mờ về tính chất của các hình thức đấu tranh gọi là bất bạo động; hay nói cách khác, ranh giới giữa bất bạo động và bạo động là khá mong manh, có thể chuyển hóa cho nhau rất nhanh chóng. Thực chất, đây là cách ngụy tạo để biện giải, mở đường cho đấu tranh bạo động khi bất bạo động đã tích lũy đủ điều kiện hay "châm ngòi" thành công.
Phát triển bền vững nhưng không để vấn đề môi trường bị lợi dụng
Có không ít thông tin đã bị kẻ xấu lợi dụng, xuyên tạc, bóp méo, kích động chống phá Đảng, Nhà nước. Vì vậy, dư luận kiến nghị, cần nhận diện rõ sự thật, quan tâm xử lý nghiêm túc những bất cập về môi trường để phát triển bền vững nhưng cũng phải cảnh giác, kịp thời xác minh, làm rõ và xử lý nghiêm những hội, nhóm, trang mạng núp bóng vấn đề môi trường để phá hoại an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Báo QĐND xin trích đăng một số ý kiến phản hồi sau bài báo.
Câu chuyện các nhóm đối tượng lợi dụng vấn đề về môi trường để xuyên tạc làm mất ổn định trong nước đã quá rõ và không còn mới. Bài học cho thấy chúng thường núp bóng dưới cái mác bảo vệ môi trường (BVMT) để xuyên tạc nhiều vụ việc làm phức tạp tình hình. Ví như, các đối tượng làm bản báo cáo đánh giá môi trường ven biển miền Trung gửi đến Quốc hội, trong đó có những thông tin không chính xác, thậm chí còn sử dụng cả hình ảnh cá chết ở Mỹ để kích động. Và đó là những nguyên nhân dẫn đến biểu tình, đập phá… gây mất ổn định.
Đối với vấn đề phát triển kinh tế và môi trường, chúng ta đã có chủ trương, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, xã hội, con người, BVMT một cách tương xứng, hài hòa. Nhưng cũng cần tỉnh táo không để kẻ xấu lợi dụng vấn đề này để xuyên tạc chống phá. Hiện nay, các dự án kinh tế triển khai đều phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, về đầu tư, BVMT, được các bộ, ngành thông qua trước khi Chính phủ quyết định. Do đó, nếu phản biện phải có căn cứ, không nên chụp mũ, làm nản lòng các nhà đầu tư, cản trở sự phát triển chính đáng.
Chúng ta lại thấy một kịch bản quen thuộc khi trong hai tuần qua có hơn 4.000 trang mạng tán phát các thông tin xuyên tạc, bóp méo sự thật liên quan đến các dự án sinh thái du lịch ở Vĩnh Phúc, Đà Nẵng. Báo QĐND đã có bài viết chỉ rõ, sự việc có bàn tay của các tổ chức phản động. Vì vậy, để ngăn ngừa những “bàn tay đen” núp bóng BVMT, tôi cho rằng, các cơ quan chức năng, trước hết là cơ quan công an cần vào cuộc điều tra, tìm ra các đối tượng liên quan để xử lý nghiêm minh, giữ gìn kỷ cương phép nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam mãi xứng đáng là niềm tin của Đảng và nhân dân
Khi bắt đầu xuất hiện dịch Covid-19, xã hội Việt Nam xuất hiện “tâm trạng phản vệ” và có một bộ phận người dân hoang mang, lo sợ. Cũng vì đó, tình trạng qua lại biên giới, nhất là các đường mòn, lối mở diễn ra rất nhiều. Thực hiện mệnh lệnh “chống dịch như chống giặc” để bảo vệ nhân dân với lực lượng y tế làm nòng cốt, Quân đội ta đã chỉ đạo các đơn vị quân y tích cực tham gia phòng, chống dịch và đặc biệt là chỉ đạo Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tăng cường tuần tra, chốt chặn, kiểm soát chặt chẽ xuất nhập cảnh, nhằm ngăn chặn dịch xâm nhập vào nội địa qua đường biên giới... Theo chủ trương đó, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ BĐBP đã tình nguyện lên đường nhận nhiệm vụ; tham gia ứng trực 24/24 giờ tại các khu vực cửa khẩu, đường mòn, lối mở, bờ sông suối... nơi con người có thể qua lại trên khắp dải biên cương, kết thành “bức tường ngăn dịch” vững chắc, suốt từ đầu năm 2020 đến nay.
Làm nhiệm vụ tại miền biên viễn ấy, BĐBP không chỉ đối diện với nguy cơ dịch bệnh mà còn đương đầu với rất nhiều khó khăn, thiếu thốn; đối diện cả với những khoảng lặng tình cảm và sự hy sinh cao độ về mặt tinh thần mà chỉ những con người mang trong mình phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ mới đủ khả năng chịu đựng và mạnh mẽ vươn lên. Ấy là trong khoảng 300 ngày qua, khi đất nước có những thời điểm thực hiện trạng thái "bình thường mới" (sau hai đợt cao điểm bùng phát dịch), thì 100% cán bộ, chiến sĩ BĐBP trên các tuyến biên giới vẫn bám trụ, căng mình bám chốt làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát. Cũng trong quãng thời gian ấy, gần 20 đồng chí đã không thể nghỉ phép về quê để đưa tiễn người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng; hơn 50 đồng chí hoãn cưới vợ, hoãn cưới con; 50 đồng chí không thể ở nhà lúc vợ trở dạ, sinh con;...
Cũng bắt đầu từ khi xuất hiện dịch Covid-19 ở Việt Nam, hàng loạt đơn vị quân đội đã cơ động lực lượng, dồn dịch nơi ăn ở, nhường hệ thống doanh trại phục vụ công tác cách ly công dân có nguy cơ nhiễm dịch Covid-19. Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ ở những đơn vị này lại trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Sau khi hoàn thành thời gian cách ly y tế ở các đơn vị quân đội, rất nhiều công dân đã bày tỏ lòng biết ơn, xúc động và thán phục về sự chịu đựng gian khó, mẫn cán, hết lòng phục vụ nhân dân của bộ đội. Người dân cảm kích, khâm phục, bởi công dân bị cách ly vốn mang nhiều nguy cơ dịch bệnh, nhưng cán bộ, chiến sĩ quân đội vẫn trực tiếp, tận tình phục vụ và hướng dẫn từng người thực hiện các biện pháp y tế theo đúng quy định; trực tiếp an ủi, động viên họ yên tâm cách ly, lạc quan vươn lên trong thời điểm khó khăn nhất. Đặc biệt, khi dịch Covid-19 xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bộ đội hóa học và các lực lượng chức năng đều có mặt sớm nhất, tiến hành phun khử trùng phục vụ dập dịch, bảo vệ người dân...
Phẩm chất vì nhân dân phục vụ của Bộ đội Cụ Hồ không chỉ thể hiện, minh chứng sinh động thông qua cuộc chiến phòng, chống dịch Covid-19 mà luôn được hiện hữu trong suốt gần 76 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành; trở thành giá trị truyền thống quý báu của QĐND Việt Nam. Đặc biệt trong 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo của QUTƯ, Bộ Quốc phòng, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn hoàn thành tốt sứ mệnh bảo vệ, chăm lo và gắn bó máu thịt với nhân dân; viết thêm những giá trị mới trong hệ chuẩn mực nhân cách của quân nhân cách mạng. Đó là hình ảnh về những sĩ quan QĐND Việt Nam tự tin, trách nhiệm trong đội quân Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, tham gia bảo vệ sự bình yên, hạnh phúc cho nhân loại tiến bộ và thực hiện nghĩa cử quốc tế cao đẹp. Đó là những quân nhân cách mạng giàu trí tuệ, làm chủ khoa học kỹ thuật tân tiến, điều khiển, sử dụng thuần thục phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại canh giữ vùng đất, vùng trời, vùng biển, đảo Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên và nền hòa bình bền vững cho nhân dân. Và còn nữa là những đoàn quân đến với vùng sâu, vùng xa, nơi gian khó... để giúp dân xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Đặc biệt, khi bất cứ nơi đâu xảy ra thiên tai, địch họa thì ở đó luôn có Bộ đội Cụ Hồ sẵn sàng xả thân bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân. Quân đội luôn là lực lượng có mặt trước tiên, gắn bó mật thiết và là "tấm chắn" bảo vệ nhân dân trước mọi hiểm nguy do thiên tai gây ra... Trong quá trình đó, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, trở thành biểu trưng sáng đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong điều kiện mới.
Từ nền tảng truyền thống đến một nền công nghiệp văn hóa
Năm 1943, từ khi cách mạng Việt Nam còn trong trứng nước, Đảng ta đã có Đề cương Văn hóa với những nguyên tắc có sức sống trường tồn. Đề cương Văn hóa năm 1943 lúc đó tập trung vào nhiệm vụ cách mạng trước mắt là đưa văn hóa Việt Nam ra khỏi ảnh hưởng nô dịch của văn hóa thực dân và phát xít, biến văn hóa Việt Nam từ chỗ bị động và tiêu cực trở thành một nhân tố tinh thần lớn mạnh trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Đề cương đã gắn liền nhiệm vụ giải phóng kinh tế, chính trị cho xã hội với nhiệm vụ giải phóng cho con người.Tháng 11-1946, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức ở Nhà hát Lớn Hà Nội, trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nhiệm vụ của văn hóa mới là phải lấy hạnh phúc của đồng bào, sự nghiệp đấu tranh của dân tộc làm nội dung phản ánh, đồng thời phải tiếp thu những kinh nghiệm của văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam với 3 tính chất: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Người nêu rõ vị trí, ảnh hưởng của văn hóa, nghệ thuật trong việc giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng con người Việt Nam yêu nước, độc lập, tự cường, tự chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Luận điểm này trở thành nguyên tắc chi phối, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ nhận thức sâu sắc về một trong những đặc điểm ưu việt của chủ nghĩa xã hội là tính nhân văn, trong sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng văn hóa, xây dựng con người. Và đó cũng là cơ sở lý luận-thực tiễn quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH).
Trong hơn hai thập kỷ đổi mới chúng ta đã đi qua, văn hóa ngày càng có được sự gắn kết chặt chẽ hơn với các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị và tạo nên những thành tựu về KT-XH, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… của đất nước. Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng: So với yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những thành tựu và tiến bộ mà chúng ta đã đạt được trong lĩnh vực phát triển văn hóa chưa thực sự vững chắc; văn hóa chưa khẳng định được sức mạnh tạo dựng một nền tảng tinh thần xã hội có khả năng miễn nhiễm trước những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, trước sự xâm nhập của các luồng văn hóa ngoại lai. Những sản phẩm văn hóa “made in Vietnam” còn thiếu sức cạnh tranh, thậm chí bị lấn át ngay tại thị trường nội địa. Những luồng văn hóa-tư tưởng ngoại lai vẫn tác động tiêu cực đến lối sống của một số lượng không nhỏ người dân Việt, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên. Từ đó, phát sinh ra nhiều hành vi phản văn hóa, ảnh hưởng đáng kể tới công cuộc xây dựng nền tảng tinh thần xã hội.
Công cụ đen trong tay những “lái buôn lương tâm”
Lâu nay, các đối tượng thù địch thường dựa vào khái niệm “tù nhân lương tâm” để thổi phồng vấn đề dân chủ, tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam, nhằm thực hiện âm mưu dai dẳng là bôi nhọ, vu cáo và chống phá Nhà nước Việt Nam, làm suy giảm lòng tin của nhân dân Việt Nam vào hệ thống chính trị của nước ta. Ví dụ cụ thể có nhiều, mà gần đây nhất là bản thông cáo báo chí đầy ý đồ do Tổ chức “Bảo vệ người bảo vệ nhân quyền” (Defend the Defenders-DTD) tung ra vào đầu tháng 9 vừa qua.
Thông cáo báo chí của DTD chắc hẳn sẽ khiến những kẻ thường xuyên lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam rất hả hê. Theo bản thông cáo này, tính đến ngày 30-9-2020, Việt Nam đang giam giữ ít nhất 276 “tù nhân lương tâm” trong các nhà tù hoặc các hình thức giam giữ khác, trong đó có 213 người đã bị kết án, chủ yếu là các tội phạm chính trị và 63 "nhà hoạt động" đang bị giam giữ trong thời gian điều tra hoặc chờ xét xử. Thông cáo cũng khẳng định chắc mẩm rằng, đó là những blogger, luật sư, nhà hoạt động về quyền đất đai, nhà bất đồng chính kiến, người hoạt động nhân quyền và tín đồ của các tôn giáo thiểu số không đăng ký bị bắt giữ và kết án “chỉ vì thực hiện một cách ôn hòa” các quyền được bảo vệ bởi các công ước nhân quyền quốc tế và Hiến pháp Việt Nam, như: Quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do của tôn giáo hoặc niềm tin... Và như để nhân lên niềm tin của người đọc về tính chân thực, công tâm của văn bản này, DTD “bồi” thêm: Danh sách 276 “tù nhân lương tâm” nói trên không bao gồm các cá nhân đã tham gia hoặc ủng hộ bạo lực.
Càng nực cười hơn khi DTD cho rằng, sau khi bắt giữ hơn 40 "nhà hoạt động" và blogger, kết án khoảng 40 người bất đồng chính kiến vào năm 2019, Việt Nam tiếp tục trấn áp giới bất đồng chính kiến và người hoạt động xã hội để bảo đảm “sự ổn định xã hội” trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; và rằng, trong khi các nước khác đang tập trung giải quyết những vấn đề do đại dịch Covid-19 gây ra, Việt Nam dường như lại sử dụng cơ hội này để tăng cường đàn áp đối với giới bất đồng chính kiến-những người không bị cộng đồng quốc tế chỉ trích.
Chẳng riêng gì ở Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới, rất nhiều cá nhân đã bị bắt giữ, thậm chí bị đem ra xét xử và phạt tù vì những tội danh như làm tổn hại tới an ninh quốc gia, tung tin sai sự thật gây hoang mang trong dư luận, gây nguy hiểm cho người dân... Điểm chung của các vụ việc này là đều được xử lý dựa trên luật pháp hiện hành, trên tinh thần thượng tôn pháp luật mà bất cứ quốc gia nào cũng đã và đang nỗ lực hướng tới.
Vậy nên, “tù nhân lương tâm” thực chất chỉ là một khái niệm hết sức mập mờ được tạo ra nhằm đánh lạc hướng, thậm chí đầu độc dư luận, khiến họ khó có thể phân biệt đâu là những người hoạt động vì nhân quyền đích thực, đâu là những đối tượng sử dụng con bài nhân quyền nhằm mục đích gây rối, phá hoại.
Trên thực tế, trong thông cáo báo chí nói trên, DTD cũng khẳng định rằng, trong số 213 người đã bị kết án ở Việt Nam thì chủ yếu là các tội phạm theo các Điều 79, 87 và 88 của Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 109, 117 và 331 tương ứng trong Bộ luật Hình sự 2015. Vậy thì, các nhà soạn thảo thông cáo vô tình sơ hở, hay họ đã trực tiếp thừa nhận rằng, những đối tượng kể trên không hề bị kết án một cách vô căn cứ, mà trái lại, hoàn toàn dựa trên luật pháp?
Phải thừa nhận rằng, “tù nhân lương tâm” thực sự là một cái mác dễ khơi gợi lòng trắc ẩn trong công chúng. Có lẽ đó cũng là lý do ngày càng có nhiều đối tượng sau khi vi phạm và bị xử lý theo luật pháp Việt Nam, bỗng nhiên được dựng lên như những “tù nhân lương tâm”, tiếp tục trở thành công cụ để các thế lực thù địch vu cáo và bịa đặt về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.
Để biết thực, giả cái gọi là vấn đề “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam ra sao, trước hết phải đặt ra vài câu hỏi: Có hay không thứ gọi là “lương tâm” trong Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, đối tượng lợi dụng các quyền tự do dân chủ, kích động nhân dân chống chính quyền, chống chế độ, gây phương hại tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội? Có lương tâm hay không khi hết lần này đến lần khác đăng tải các bài viết trên mạng xã hội, đả kích, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; bôi nhọ, xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam như đối tượng Nguyễn Quốc Đức Vượng (sinh năm 1991, ở huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng); hoặc chủ mưu, cầm đầu, khởi xướng việc tổ chức lập “nhà nước Mông” tại huyện Mường Nhé (tỉnh Điện Biên), gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ chính trị của Nhà nước Việt Nam như đối tượng Sùng A Sính, Lầu A Lềnh...? Với những người am hiểu luật pháp, mưu cầu cuộc sống ổn định và có ý thức thượng tôn pháp luật, câu trả lời dĩ nhiên là “không”! Chắc chắn là “không”!
Sứ mệnh đấu tranh với các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước dựa trên chiêu bài nhân quyền nhằm vào Việt Nam chắc chắn còn dài. Để tạo thêm niềm tin của nhân dân vào sứ mệnh ấy, rất cần những cái đầu tỉnh táo để nhận diện và vạch trần sự thật về thứ đang được các trang web, diễn đàn phản động phát ra rả mỗi ngày: “tù nhân lương tâm”.
Không thể vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn
Lợi dụng việc một số cán bộ quân đội có sai phạm bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng ai cũng biết rằng, không thể đánh tráo giữa bản chất và hiện tượng, đừng thấy cây mà không thấy rừng. Bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội và sự thật các vụ việc không cho phép chúng thực hiện được hành vi vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn đó…
Cảnh giác với hiện tượng gieo mầm, nuôi dưỡng đối tượng phản biện xã hội tiêu cực
Mở rộng dân chủ, tăng cường phản biện tích cực, lắng nghe những ý kiến đóng góp tâm huyết của nhân dân là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Hưởng ứng tinh thần ấy, các hoạt động phản biện, phản biện xã hội (PBXH) thời gian qua diễn ra khá sôi động và mang lại những kết quả tích cực. Thế nhưng, một thực tế rất đáng quan tâm là cả trong và ngoài nước xuất hiện một số người lợi dụng PBXH để gây nhiễu thông tin, làm rối tình hình, kích động, hòng tạo ra những mâu thuẫn trong xã hội. Lợi dụng tình hình này, các thế lực thù địch, một số tổ chức phản động đã móc nối, gieo mầm, nuôi dưỡng các đối tượng PBXH để sử dụng làm công cụ chống phá Đảng và Nhà nước ta.
Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”
Không phải tới bây giờ, mà nhiều năm qua, các thế lực thù địch dường như không biết bấu víu vào vấn đề gì hơn là lợi dụng những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền… để chống phá sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.
Mũi nhọn mà họ tập trung vào là vấn đề nhân quyền với nhiều hình thức tinh vi, thâm độc, xảo trá. Vậy, sự thật những người mà họ gọi là “tù nhân lương tâm” là những ai? Cần khẳng định rằng: Ở Việt Nam không bao giờ có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà thực chất đó chỉ là những người vi phạm pháp luật
MỖI ĐỘ THU VỀ LẠI NHỚ BÁC
Cứ mỗi độ thu về, nhất là vào mỗi dịp tết Trung thu, nhân dân cả nước, nhất là các cháu thiếu nhi Việt Nam lại bồi hồi xúc động nhớ về Bác Hồ...
Lúc sinh thời, Bác Hồ
kính yêu luôn yêu thương tha thiết những thế hệ thiếu nhi Việt Nam. Tình cảm
yêu thương của Bác ví như trăng rằm luôn tỏa sáng trên bầu trời, chiếu rọi khắp
nơi, dù chốn phố phường đông đúc hay làng quê tĩnh lặng, kể cả chốn rừng núi xa
xôi hẻo lánh. Tình thương yêu của Bác thể hiện rõ nhất đối với các thế hệ thiếu
nhi, là cứ mỗi dịp Tết trung thu, Bác lại có những vần thơ đầy ắp yêu thương gửi
cho các cháu trên khắp mọi miền tổ quốc.
Sau những năm tháng dài
bôn ba tìm đường cứu nước, năm 1941, Bác Hồ trở về đất nước để trực tiếp lãnh đạo
cách mạng, chuẩn bị giai đoạn cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dịp Tết
Trung thu 1941 đến gần, ngày 21/9/1941 Bác đã viết bài thơ thể hiện sự yêu
thương và quan tâm sâu sắc của mình đối với thế hệ măng non của đất nước trong
hoàn cảnh lúc đó:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học
hành là ngoan
Chẳng may vận nước gian
nan
Trẻ em cũng phải lầm than
cực lòng...
Trong bài thơ, Bác nêu
rõ: Là con trẻ, các cháu như “búp trên cành, biết ăn chơi, biết học hành là
ngoan”. Tuy nhiên vì đất nước rơi vào cảnh nô lệ, lầm than nên các cháu phải chịu
nhiều khó khăn, vất vả. Do đó nhân dân ta phải đứng lên đánh đuổi giặc để cứu
nước cứu nhà. Các cháu cũng cố gắng góp sức vào công cuộc kháng chiến kiến quốc:
Vậy nên trẻ em nước ta
Phải đoàn kết lại để mà đấu
tranh
Người lớn cứu nước đã
đành
Trẻ em cũng góp phần mình
một tay…
Vâng lời dạy của Bác dạy,
Trẻ em khắp cả nước đã nhiệt liệt hưởng ứng nô nức cùng cha anh tham gia công
cuộc kháng chiến, nhiều tấm gương yêu nước của thiếu niên nhi đồng đã xuất hiện,
tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh của thiếu nhi Việt Nam như: Kim Đồng, Vừ A
Dính, đội du kích thiếu niên Bát Sắt… góp phần không nhỏ vào đấu tranh giành độc
lập nước nhà...
Sau thắng lợi của Cách mạng
cách mạng Mùa thu Tháng Tám 1945. Dịp Tết trung thu độc lập đầu tiên của đất nước,
Bác Hồ đã không quên viết thư tới các cháu thiếu nhi cả nước, thể hiện tình yêu
thương và lòng quan tâm, tin tưởng sâu sắc vào thế hệ trẻ của một đất nước độc
lập. Bác nhấn mạnh trong thư: “Non sông Việt có trở nên vẻ vang hay không. Dân
tộc Việt có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu hay
không, chính là nhờ một phần lớn vào công học tập của các cháu...”.
Tết Trung thu năm 1946,
đây là giai đoạn cách mạng nước ta đang trong thời kỳ đấu tranh đầy gian khổ
khó khăn. Mặc dù bận trăm công ngàn việc to tát, quan trọng của đất nước, Bác vẫn
đau đáu bên lòng niềm tin yêu, sự nhớ thương các cháu. Bác đã viết những vần
thơ động viên, nhắc nhở các cháu tiếp nối truyền thống lịch sử hào hùng của cha
ông:
Bác mong các cháu chăm
ngoan
Mai sau gìn giữ giang sơn
Lạc Hồng
Sao cho nổi tiếng Tiên Rồng
Sao cho tỏ mặt nhi đồng
Việt Nam
Trong những bài thơ trung
thu viết cho thiếu nhi, chúng ta không thể quên được những dòng thơ Bác viết
vào dịp Trung thu 1951, với những câu thơ đầy cảm động, tha thiết, đậm đà nỗi
lòng của Người:
Trung thu trăng sáng như
gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ
thương nhi đồng
Sau đây Bác viết mấy dòng
Gửi cho các cháu tỏ lòng
nhớ thương...
Trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp sắp kết thúc thành công, Tết Trung thu năm 1953, trước tin tức thắng
trận khắp các chiến trường báo về, mà trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các
cháu thiếu nhi, Bác Hồ đã không giữ niềm vui ấy cho riêng mình, Bác hồ hởi chia
sẻ niềm vui với tất cả các cháu thiếu nhi:
Khắp nơi Nam, Bắc, Tây,
Đông
Được tin thắng trận cờ hồng
tung bay
Các cháu vui thay
Bác cũng vui thay
Thu sau so với thu này
vui hơn.
Trong cuộc đấu tranh chống
Mỹ cứu nước, thời kỳ đầu cách mạng miền Nam còn gian khổ khó khăn, Tết Trung
thu năm 1956, Bác Hồ đã viết thư cho các cháu thiếu nhi miền Nam, thể hiện lòng
nhớ thương sâu sắc của Người và nhấn mạnh Bác cháu sẽ có ngày sum họp:
Ai yêu các nhi đồng
Bằng Bác Hồ Chí Minh
Tính các cháu ngoan ngoãn
Mặt các cháu xinh xinh
Mong các cháu cố gắng
Thi đua học và hành
Tuổi nhỏ làm việc nhỏ
Tùy theo sức của mình…
Các cháu hãy xứng đáng
Cháu Bác Hồ Chí Minh
Sau đó, dịp Tết Trung thu
năm 1958, Bác còn nhắc lại ước mơ cháy bỏng của Người, cũng như của toàn thể
thiếu nhi Việt Nam:
Bắc, Nam sẽ sum họp một nhà
Bác cháu ta gặp mặt trẻ
già vui chung
Nhớ thương các cháu vô
cùng
Mong sao mỗi cháu là một
anh hùng thiếu nhi...
Đáp lại lòng mong mỏi của
Người, quân dân khắp cả nước, trong đó có các cháu thiếu nhi đã đoàn kết một
lòng, dũng cảm đấu tranh góp phần làm nên đại thắng lịch sử mùa Xuân 1975, thống
nhất đất nước, như Bác hằng mong mỏi...
Hơn 50 năm qua Bác Hồ
kính yêu đã đi xa, nhưng tình thương yêu bao la của Bác vẫn dành trọn cho những
thế hệ thiếu niên, nhi đồng Việt Nam, như ánh trăng rằm vĩnh viễn tỏa sáng trên
bầu trời quê hương, không bao giờ phai nhạt. Những vần thơ của bác mỗi độ thu về,
lại vang lên trong tâm khảm mỗi người con dân Việt, mỗi tâm hồn các cháu thiếu
nhi, động viên các cháu cố gắng học hành chăm ngoan, mai sau lớn lên trở thành
những công dân có ích cho quê hương, đất nước.
Đào Nguyên Lan
Nguồn: Văn Hiến Việt Nam
CÂU CHUYỆN THẦN KỲ CỦA LÁI XE TRƯỜNG SƠN
Cư dân mạng được phen trầm
trồ trước việc diễn viên đóng thế người Anh, Jim Dowdall, người từng xuất hiện
trong bom tấn James Bond, loạt phim Bourne và Indiana Jones đã thực hiện màn
trình diễn lái chiếc xe thể thao Jaguar XF vượt qua sông Thames chỉ nhờ 2 chiếc
dây cáp đường kính hơn 1 inch. (ảnh 2)
Thế nhưng, “đó chỉ là
chuyện quá thường” nếu ai đó biết rằng, những người lính lái xe Trường Sơn đã
làm được điều đó từ rất lâu rồi. Thần kỳ hơn, họ còn lái những chiếc xe tải qua
2 sợi dây cáp chứ không phải chỉ đơn giản là một chiếc xe con với nhiều thiết bị
hỗ trợ như anh chàng diễn viên người Anh nói trên.
Đầu năm 1965 Bộ Quốc
phòng cử Trung tướng Đinh Đức Thiện, khi đó là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần sang
Trung Quốc công tác. Tại đây, ông Thiện được các chiến sĩ nước bạn cho đi tham
quan những chiếc cầu dây cáp bắc từ núi này sang núi kia, từ bờ sông này nối
sang bờ sông kia trong thời kỳ chống Nhật.
Về nước, ông Đinh Đức Thiện
mang công trình mà mình tận mắt chứng kiến bên nước bạn trình lên Viện Kỹ thuật
Giao thông, kết hợp với một số khoa của 4 trường đại học đóng trên địa bàn Hà Nội
cùng nhau nghiên cứu, tiến tới việc đưa vào áp dụng phương pháp vận tải “mới lạ”
này trong các chiến trường trên tuyến đường Trường Sơn.
Lúc đó, ông Nguyễn Trọng
Quyến đang là giáo viên của khoa xe máy của trường sĩ quan hậu cần được chọn là
người lái xe đầu tiên đi trên cáp. Ông kể lại: “Lần đầu tiên tôi cùng với những
người đồng đội của mình thử nghiệm lái xe trên cáp ở khu vực cầu Diễn, trên
chính 2 bờ sông Nhuệ.
Anh em kỹ sư cho máy đóng
trụ bê tông âm từ 5m đến 6m rồi tiếp tục dùng tời buộc cáp, loại cáp to như cổ
tay từ bờ sông bên này qua bờ bên kia với độ võng nhất định theo như tính toán
của các kỹ sư. Tôi lái một chiếc xe tải của Liên Xô, chạy bằng hệ thống bánh
puli (poulie: ròng rọc) trên cáp gần giống như bánh tàu hỏa chạy trên đường ray
vậy.
Mới đầu tưởng có các puli
định vị trên cáp cứ thế trượt theo nó mà sang bờ bên kia, ai ngờ nó đánh võng
kinh khủng. Ròng rã từ tháng 2/1965 đến 5/1965, tôi liên tục chạy thử bằng hai
cách. Đầu tiên là chạy bằng puli như đã kể, sau thiết kế sàn trượt cho xe có tải
trọng từ 4 tấn trở lên.
Xe có tải trọng 1 tấn chạy
bằng puli đè lên cáp được áp dụng cho những chỗ địa hình thoáng, máy bay trinh
sát địch có chụp tọa độ cũng chỉ thấy hai vệt dây chứ không đoán được đó là cầu.
Xe trọng tải từ 4 tấn trở lên chạy bằng sàn trượt áp dụng cho những nơi địa
hình có cây cối nhiều, máy bay trinh sát địch khó phát hiện hơn”.
Cuộc thử nghiệm hút chết
Tháng 6/1965, Phó Thủ tướng,
kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông lúc bấy giờ là ông Phan Trọng Tuệ, mời các thành
viên trong Hội đồng chính phủ cùng tất cả các thủ trưởng của các Bộ đến để duyệt
buổi thử nghiệm cuối cùng để chuẩn bị lên kế hoạch áp dụng vào các chiến trường
trên tuyến đường Trường Sơn.
Địa điểm diễn ra cuộc thử
nghiệm cuối cùng lần ấy Viện Kỹ thuật giao thông chọn là ở Canh Diễn, cách cầu
Diễn khoảng gần 1 km trên sông Nhuệ.
Ông Quyến nhớ lại: Khoảng
8h sáng, Phó Thủ tướng bảo tôi lái thử cho mọi người xem. Anh Đặng Văn Thông,
Viện trưởng Viện Giao thông, chỉ vào chiếc đồng hồ đo độ võng của dây cáp dặn kỹ:
“Khi lái, nếu xe nghiêng sang trái hoặc phải dưới 15 độ thì cứ việc đi tiếp.
Nếu xe nghiêng từ 16 độ đến
17 độ thì anh và phụ xe phải nhảy ra xuống sông để anh em công binh trực dưới
đó vớt các anh lên”.
Tôi lái được quãng 1/4 đường
cáp thì thấy đồng hộ nhảy lên 10 độ, quãng 1/3 thì lên 15 độ. Lúc này, nhìn
gương chiếu hậu, ông phụ xe của tôi là anh Nguyễn Văn Xây nói gấp: “Anh ơi! Trong
bờ, mọi người phất cờ ra lệnh anh em mình phải nhảy”.
Tôi đùa: “Anh em mình
đang đi trên miệng tử thần. Nếu anh em mình mà nhảy thể nào cũng bị xe lật theo
sau đè chết dưới lòng sông. Chú cứ kệ nó đi, đến đâu thì liệu đến đó.
Vừa nói xong thì xe lật.
Rơi xuống sông, 3 tấn bê tông đổ hết, xe mất tải trọng lật tiếp ba vòng. Rất
may là do cửa xe đóng kín nên nước chỉ có thể phun từ từ qua kẽ hở mà không ập
vào.
Tôi và anh Xây ngồi nhìn
cái chết dâng lên từng centimet trong cabin đến với mình. Thoáng hy vọng vụt
lên, tôi bảo anh Xây: “Anh và tôi giờ nằm xuống, chờ cho áp suất trong cabin
cân bằng với áp suất nước bên ngoài thì đạp cửa phi ra...”.
Những cây cầu lạ lùng…
Sau thất bại ấy, bao
nhiêu công sức coi như đổ cùng chuyến xe mà ông Quyến lái. Tập trung đi tìm
nguyên nhân, hóa ra chuyến xe bị lật hôm ấy không phải ông lái kém mà là do trận
mưa hồi đêm làm cho trụ bê tông bị lún nghiêng, xe trườn lên không chịu được tải
trọng, gặp gió thì lắc, càng lắc thì trụ cầu càng dơ, dây càng chùng và xe
rơi... càng nhanh.
Cuộc thử nghiệm tiếp theo
được tính toán kỹ lưỡng hơn với những trụ cầu đổ chết bằng bê tông cốt thép, đo
độ giãn dây cáp trong khoảng giới hạn cho phép chứ không thể tùy tiện đóng cọc
như lần thử nghiệm ban đầu. Dưới sự chứng kiến của quan chức Chính phủ, vào
ngày 11/11/1965, lần thử nghiệm mang tính chất quyết định này ông Quyến đã
thành công.
Chính phủ quyết định cho
lắp đặt cầu dây cáp cho xe ôtô chạy bằng puli đầu tiên tại Km 0 (Đắc Krông, Quảng
Trị). Tiếp theo đó là hàng loạt cây cầu kiểu “khác thường” này được nhân rộng
trên khắp tuyến đường Trường Sơn tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển
trang thiết bị, quân trang quân dụng từ hậu phương miền Bắc vào sâu trong chiến
trường miền Nam, góp phần to lớn vào chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975, thống
nhất đất nước...
Thiên tài quân sự "Đại tướng LÊ TRỌNG TẤN"
Một trong những vị tướng đánh trận giỏi nhất Việt Nam
Ngày 01/10 là ngày sinh của
một trong những vị tướng đã từng có mặt tại tất cả chiến trường ác liệt nhất
trong trang sử hào hùng của dân tộc ta thế kỷ 20.
Ông là Lê Trọng Tấn một Đại
tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng là Viện trưởng Học viện Quân sự Cao
cấp, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng,
Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam.
Ông là vị Đại tướng Việt
Nam lớn tuổi nhất vào thời điểm thụ phong: 70 tuổi 352 ngày; và cũng là vị Đại
tướng giữ quân hàm hiện dịch ngắn nhất: 1 năm, 343 ngày.
Nhận xét về ông:
Ông được Đại tướng Võ
Nguyên Giáp coi là "người chỉ huy kiên cường, lỗi lạc, người bạn chiến đấu
chí thiết"
Trong một nhận xét khác
có tính khẳng định hơn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định:
"...(Lê Trọng Tấn)
là một trong những vị tướng giỏi nhất Việt Nam qua các thời đại"
Trong cuộc phỏng vấn về xếp
hạng tướng lĩnh Việt Nam hiện đại, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đã đánh giá:
"Tất nhiên đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thứ hai là tướng Lê Trọng
Tấn. Thứ ba là tướng Hoàng Văn Thái và thứ tư là tướng Nguyễn Hữu An..."
Ông được mệnh danh là
Zhukov Việt Nam.
Khẩu quyết: "VÂY, LẤN, TẤN, PHÁ, TRIỆT, DIỆT" của ông
đề xuất trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.
BÁC HỒ THĂM ẤN ĐỘ NĂM 1958 VÀ TÀI NGOẠI GIAO CỦA BÁC
Tại cuộc đối thoại với các đoàn viên thanh niên ngành ngoại giao vừa diễn ra tại Hà Nội, một bạn trẻ đề nghị Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên kể về những kỷ niệm khi ông làm phiên dịch cho Bác Hồ. Ông Nguyễn Dy Niên, năm nay 70 tuổi, 51 năm làm việc trong ngành ngoại giao, đã kể cho các đoàn viên thanh niên nghe câu chuyện còn ít người biết dưới đây.
Năm 1958 Bác Hồ sang thăm
Ấn Độ. Trước đó, tôi được cử sang Ấn Độ học tiếng Hindhi, chuẩn bị cho chuyến
thăm này của Bác Hồ và vinh dự được làm phiên dịch cho Bác trong thời gian Người
ở thăm Ấn Độ.
Ấn tượng sâu sắc và vinh
dự to lớn đối với tôi là lần đầu tiên được đọc bài diễn văn của Bác đã dịch sẵn
sang tiếng Hindhi. Trong cuộc mít-tinh có hàng vạn người dự tại Red Fort (Thành
Đỏ) ở thủ đô Delhi, các bạn Ấn Độ làm sẵn một cái ghế cho Bác Hồ ngồi trên bục
danh dự. Chiếc ghế trông như một cái ngai vàng, rất lớn. Trong khi đó, Thủ tướng
Ấn Độ ngày ấy là J. Nehru thì chỉ ngồi một chiếc ghế bình thường như mọi người
khác. Khi Thủ tướng Nehru mời Bác Hồ ngồi vào chiếc ghế đó, Bác dứt khoát từ chối.
Thấy vậy, Thủ tướng Nehru nói: Ngài là khách danh dự của chúng tôi, việc Ngài
ngồi lên chiếc ghế này chính là niềm vinh dự của chúng tôi mà... Chứng kiến điều
này, hàng vạn người dự mít tinh phía dưới quảng trường đứng cả lên xem. Hai vị
lãnh tụ của hai nước cứ nhường nhau, cuối cùng chẳng ai ngồi lên chiếc ghế lớn ấy.
Thủ tướng Nehru đành gọi người cho chuyển chiếc ghế đi, thay bằng một chiếc ghế
khác giản dị hơn. Thấy vậy, hàng vạn người dân Ấn Độ dưới quảng trường rất cảm
kích vỗ tay vang dội và hô rất to: "Hồ Chí Minh muôn năm!" Hồ Chí
Minh muôn năm!". Chuyện này được người Ấn Độ sau đó kể lại rất nhiều, trở
thành một huyền thoại của họ về Bác Hồ.
Trong chuyến thăm này,
trong một bữa tiệc do Thủ tướng Nehru chiêu đãi Bác Hồ có món thịt gà địa
phương rất nổi tiếng. Người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà dùng năm
ngón tay để bốc thức ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ cũng muốn dùng tay bốc
thức ăn. Nhưng tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch
sự. Khi món thịt gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có vẻ không quen dùng
dao, dĩa. Bác Hồ rất tinh ý, Người nói với Thủ tướng Nehru: Thịt gà phải ăn bằng
tay thì mới ngon chứ còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói chuyện với người yêu
lại phải qua ông phiên dịch. Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn tiệc cười ầm cả lên
làm cho không khí bữa tiệc hôm đó rất vui vẻ và thân mật.
Nguồn: Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Dy Niên.
Tổng thống Donald Trump nhiễm Covid-19
Hôm nay 02/10/2020, báo chí thế giới đồng loạt đưa tin Tổng thống Mỹ Donald Trump và đệ nhất phu nhân Melania Trump xét nghiệm dương tính với Covid-19. Ở tuổi 74 và béo phì, Trump được xếp vào nhóm có nguy cơ cao nhất về các biến chứng nghiêm trọng khi nhiễm virus corona, căn bệnh đã giết chết hơn 200.000 người Mỹ và hơn 1 triệu người trên toàn thế giới. Việc một vị tổng thống nhiễm dịch bệnh covid-19 và phải cách ly trong bối cảnh ông này đang ở chặng đường nước rút của chiến dịch tái tranh cử tổng thống với ngày bầu cử chính thức vào 03/11/2020, dấy lên sự hoang mang của toàn nước Mỹ.
Điều đáng nói, chính sách phòng chống dịch covid-19 của tổng thống Mỹ lâu nay vốn bị đánh giá thấp với những hậu quả do covid-19 đem lại cho nước Mỹ tồi tệ nhất trên thế giới với hơn 7,2 triệu người dân Mỹ nhiễm bệnh và hơn 205.000 người chết do covid-19 cho đến nay. Ông Trump đã bị chỉ trích vì những phản ứng của ông với đại dịch, bao gồm việc hạ thấp mối đe dọa từ covid-19, coi thường các ý kiến khoa học về dịch bệnh và từ chối tuân thủ các hướng dẫn về sức khỏe cộng đồng. Trump và nhiều phụ tá của ông thường xuyên không tuân thủ về giãn cách xã hội cũng như đeo khẩu trang. Tại cuộc tranh luận tổng thống vào tối thứ Ba vừa rồi, tổng thống Trump còn chế nhạo đối thủ của ông, ứng cử viên Đảng Dân chủ Joe Biden, vì thường xuyên đeo khẩu trang. Trump thường xuyên tìm cách vẽ một nên bức tranh màu hồng về tình hình hiện tại, kể cả chỉ vài giờ trước việc nhiễm covid-19 của ông ta được công bố. Trump cũng đã nhiều lần khẳng định đất nước đang "làm tròn góc" với căn bệnh này và tuyên bố virus sẽ "biến mất", mặc dù ngay cả các chuyên gia y tế trong chính quyền của ông cũng cho biết những tuyên bố đó không phản ánh thực tế. Trong những sự kiện chiến dịch tái tranh cử gần đây, Trump bỏ qua các khuyến nghị y tế từ lực lượng đặc nhiệm coronavirus của riêng mình trong đại dịch, tiếp tục với một lịch trình bận rộn của các cuộc tập trung dày đặc người.
Có lẽ sau đợt nhiễm bệnh Covid-19 lần này, quan điểm của tổng thống Trump về công tác phòng chống dịch bệnh sẽ thay đổi. Tuy nhiên, giờ phút bầu cử tổng thống nhiệm kỳ mới đã cận kề, có lẽ thế giới sẽ còn chứng kiến những biến động lớn từ nước Mỹ trong thời gian tới.




