Thứ Ba, 6 tháng 10, 2020

KIẾN TẠO CHÍNH SÁCH NHẰM CHỦ ĐỘNG THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

 Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn, trong đó có biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu tác động đến tất cả các ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế, đặc biệt là sinh kế của cộng đồng dân cư nông thôn. Việc xây dựng hệ giải pháp nhằm kiến tạo tầm nhìn dài hạn, bền vững, phù hợp để thích ứng với những biến đổi khí hậu là vô cùng quan trọng và cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.

TS. HÀ HUY NGỌC - TS. TRẦN THỊ TUYẾT

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thị sát điểm sạt lở tại xã Tân Thành, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, tháng 9-2019_Ảnh: TTXVN

Chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn từ cuối năm 2015 đến tháng 2-2020, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hứng chịu các đợt hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng. Đợt hạn hán, xâm nhập mặn niên vụ năm 2015 - 2016, tính đến tháng 6-2016, có 13/13 địa phương trong vùng đã ban hành quyết định công bố bị thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn trên địa bàn. Hạn hán, xâm nhập mặn đã làm cho khoảng 139.000 ha lúa của vùng bị thiệt hại; hơn 50% diện tích bị mất trắng, trong đó các tỉnh có diện tích lúa bị thiệt hại nhiều nhất là Cà Mau, Kiên Giang, Bến Tre, Bạc Liêu... Hạn hán, xâm nhập mặn cũng làm cho khoảng 400.000 hộ với khoảng 1,5 triệu nhân khẩu bị thiếu nước sinh hoạt... Ước tính tổng thiệt hại của toàn vùng trong đợt hạn hán, xâm nhập mặn 2015 - 2016 khoảng 7.520 tỷ đồng.

Cũng theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường, hạn hán, xâm nhập mặn niên vụ 2019 - 2020 còn khốc liệt hơn vì đến sớm hơn thường lệ, bắt đầu xuất hiện từ cuối tháng 11-2019 (trong điều kiện bình thường là vào tháng 1-2020). Tính đến tháng 3-2020, có những địa phương đã bị xâm nhập mặn vào sâu tới 70km - 90km, như ở các tỉnh Bến Tre, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Trà Vinh, Hậu Giang... Hạn hán, xâm nhập mặn niên vụ 2019 - 2020 làm khoảng 100.000ha lúa, 130.000ha cây ăn trái trong vùng bị ảnh hưởng. Ngoài ra, có khoảng 100.000 hộ dân bị thiếu nước sinh hoạt, ước tính thiệt hại về kinh tế sẽ còn vượt qua đợt hạn hán, xâm nhập mặn 2015 - 2016 (ước tính khoảng gần 8.000 tỷ đồng)(1).

Mặt khác, báo cáo của Tổng cục Thủy lợi còn cho thấy, trong giai đoạn 2016 - 2020 khu vực đồng bằng sông Cửu Long còn tiếp tục phải hứng chịu những đợt sạt lở bờ sông, bờ biển với tần suất và quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử phát triển của khu vực. Sạt lở đã uy hiếp trực tiếp đến tính mạng, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn của các công trình thủy lợi và kết cấu hạ tầng vùng ven biển, làm suy thoái nguồn vốn tự nhiên. Tổng thiệt hại do sạt lở bờ sông, bờ biển ở các địa phương tính đến hết tháng 2-2020 vào khoảng gần 3.000 tỷ đồng. Mức độ thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng trong giai đoạn 2010 - 2020, với tổng thiệt hại lên đến hơn 22.000 tỷ đồng.

Trước tình hình cấp bách đó, nhiều chính sách trực tiếp và gián tiếp được ban hành:

Một là, nhóm chính sách liên quan đến quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng và hạ tầng có lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu.

Tính đến tháng 12-2018, khoảng hơn 2.500 quy hoạch được lập cho vùng đồng bằng sông Cửu Long có lồng ghép trực tiếp và gián tiếp vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong đó, riêng cấp vùng có 22 quy hoạch. Quyết định số 1397/QĐ-TTg, ngày 25-9-2012, của Thủ tướng Chính phủ, Phê duyệt Quy hoạch thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2012 - 2020 và định hướng đến năm 2050 trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng đặc biệt nhấn mạnh quan điểm kết hợp hài hòa giữa giải pháp công trình và phi công trình, hạn chế lũ lụt và xâm nhập mặn trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng và đã đưa ra các giải pháp, như kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang và Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn - Cái Bé; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt vào mùa khô; tăng cường khả năng thoát lũ, tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn. Để triển khai Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 498/QĐ/TTg, ngày 17-4-2017, về Phê duyệt chủ trương đầu tư dự án Hệ thống Thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1. Bên cạnh đó, Chính phủ phê duyệt Dự án Phát triển đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2013 - 2020, theo đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long có 12 đô thị được Chính phủ hỗ trợ xây dựng kịch bản đánh giá tác động, nâng cao năng lực ứng phó và xây dựng quy hoạch đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTg, ngày 15-1-2018, về Phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, với mục tiêu phát triển không gian của hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Chuẩn bị mạ trong mô hình canh tác lúa thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu tại tỉnh Trà Vinh_Ảnh: TTXVN

Hai là, nhóm chính sách liên quan đến liên kết vùng, tiểu vùng sinh thái xã hội trong thích ứng với biến đổi khí hậu.

Quyết định số 639/QĐ-BNN-KH, ngày 2-4-2014, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, về Phê duyệt Quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện biến đổi khí hậu đã nhấn mạnh quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở đổi mới tư duy, cách tiếp cận thị trường; khai thác, phát huy lợi thế của vùng và địa phương để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; tạo sự liên kết sản xuất, xây dựng các vùng sản xuất chuyên canh, cánh đồng lớn; ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học - công nghệ trong sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, trong bối cảnh ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu.

Để cụ thể hóa cơ chế pháp lý cho liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 593/QĐ-TTg, ngày 6-4-2016, về việc Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016 - 2020, trong đó chú trọng đến nội dung liên kết vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu, như đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu, phòng, chống lũ, kiểm soát xâm nhập mặn; quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước, nâng cao hiệu quả sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trong mùa khô; xây dựng, nâng cấp hệ thống đê biển, đê bao, cống, đập, vành đai rừng ngập mặn và các dự án bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu... Nhằm triển khai Quyết định trên, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 2220/QĐ-TTg, ngày 17-11-2016, về việc ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định 593/QĐ-TTg, đưa ra kế hoạch hành động liên kết vùng nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, gồm kế hoạch quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước nhằm mục tiêu kiểm soát lũ, kiểm soát mặn, tăng cường khả năng lưu chứa nước ngọt của vùng; kế hoạch trồng rừng ngập mặn, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, kế hoạch bảo vệ, chăm sóc rừng. Tiếp tục thúc đẩy thực hiện Quyết định 593/QĐ-TTg, tại các địa phương, Chính phủ đã thành lập Tổ chỉ đạo liên ngành về liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long. Kể từ khi Quyết định số 593/QĐ-TTg được ban hành, một số địa phương trong vùng đã tích cực xây dựng các đề án liên kết phát triển bền vững dựa trên các tiểu vùng sinh thái - xã hội, điển hình là tiểu vùng Đồng Tháp Mười, tiểu vùng duyên hải phía Đông, tiểu vùng tứ giác Long Xuyên, tiểu vùng bán đảo Cà Mau; đề xuất các tuyến lĩnh vực mà các địa phương có thể liên kết, như liên kết về quy hoạch, không gian phát triển; liên kết về sản xuất, xúc tiến thương mại nông nghiệp, thủy sản; liên kết về phát triển du lịch; liên kết về quản lý nguồn nước, bảo vệ môi trường, đáp ứng đa mục tiêu và thích ứng với biến đổi khí hậu; liên kết thiết lập hệ thống thông tin vùng; liên kết xây dựng thể chế chính sách cho tiểu vùng.

Nhờ chủ động đẩy sớm lịch xuống giống, vụ lúa đông xuân 2019 - 2020, vùng đồng bằng sông Cửu Long thắng lợi toàn diện dù hạn mặn khốc liệt hơn kỷ lục năm 2015 - 2016 (Trong ảnh: Thu hoạch vụ lúa đông xuân 2019 - 2020 ở huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang)_Ảnh: TTXVN

Ba là, nhóm chính sách mang tính tổng hợp, liên ngành nhằm phát triển bền vững.

Để phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ứng phó với các thách thức từ sự phát triển nội tại của vùng và khu vực thượng nguồn, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP, ngày 17-11-2017, về Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết đề ra các chủ trương mang tính chiến lược, như mô hình phát triển phải lấy con người làm trung tâm; xác định biến đổi khí hậu và nước biển dâng là xu hướng tất yếu, phải sống chung và thích nghi, lấy tài nguyên nước là cốt lõi, cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển vùng; việc chuyển đổi mô hình phải dựa trên hệ sinh thái, tôn trọng các quy luật tự nhiên; tiếp cận tổng hợp, theo hướng tích hợp tổng thể kinh tế - xã hội toàn vùng, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng; mọi hoạt động đầu tư phải được điều phối thống nhất, bảo đảm tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm. Sự ra đời của Nghị quyết số 120/NQ-CP đã góp phần kiến tạo một tầm nhìn phát triển dài hạn, bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long, dựa trên nguyên tắc tôn trọng các giá trị sinh thái tự nhiên, con người của vùng. Đồng thời, để hiện thực hóa Nghị quyết, một số bộ cũng ban hành kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết này, điển hình là Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tiếp đến, để thực hiện Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP, tính đến tháng 2-2020 đã có 13/13 tỉnh, thành phố của vùng xây dựng các kế hoạch, đề xuất danh mục nhiệm vụ của các địa phương gửi cho Bộ Tài nguyên và Môi trường để tổng hợp, đưa vào Chương trình hành động tổng thể, ban hành Kế hoạch hành động của địa phương thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP. Trên cơ sở danh mục các nhiệm vụ do các bộ và địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long đề xuất, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP, với 55 đề án, chương trình, dự án, nhiệm vụ ưu tiên, cấp bách cần thực hiện ở 13 địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Bốn là, hoạt động triển khai chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu.

Theo báo cáo của Cục Biến đổi khí hậu, trong giai đoạn 2011 - 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu đã có 18 dự án do bộ/ngành chủ trì được thực hiện trên địa bàn vùng đồng bằng sông Cửu Long với kinh phí hơn 3.476 tỷ đồng; có 37 dự án do địa phương chủ trì với tổng kinh phí thực hiện hơn 2.560 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Chương trình hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu đã có 7/16 dự án được thực hiện với kinh phí được cấp hơn 2.301 tỷ đồng; Chương trình Biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 - 2020 hỗ trợ 1.500 tỷ đồng cho các địa phương ứng phó với sạt lở bờ sông, bờ biển... Trong giai đoạn 2011 - 2020, vùng đã huy động được tổng số khoảng hơn 13.000 tỷ đồng cho các chương trình, dự án, nhiệm vụ ứng phó với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các tổ chức, như Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Tổ chức Phát triển quốc tế Đức, Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ, Cơ quan Phát triển quốc tế Ô-xtrây-li-a,... hỗ trợ các dự án liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu cho vùng đồng bằng sông Cửu Long khoảng hơn 764 triệu USD.

Những bất cập, hạn chế của chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long

Các chính sách nêu trên được triển khai ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã góp phần tăng thu nhập, tạo sinh kế bền vững và thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập, hạn chế như sau:

Thứ nhất, các chính sách liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu hiện hành có nhiều mục tiêu chính sách chồng chéo, thiếu đồng bộ. Ví dụ, hiện các Chương trình Mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu, Chương trình Giảm nhẹ và phòng chống thiên tai, Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược Bảo vệ môi trường, Chiến lược Phát triển bền vững,... có nhiều điểm chưa thống nhất, mục tiêu trùng nhau, làm địa phương gặp khó khăn trong thực hiện và báo cáo.

Thứ hai, tư duy ưu tiên chọn giải pháp công trình ở các bộ, ngành và địa phương của vùng vẫn nặng hơn các chọn lựa giải pháp phi công trình. Dù Nghị quyết số 120/NQ-CP đã xác định 3 trụ cột ưu tiên trong sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long là thủy sản; trái cây; lúa, gạo, thì nguồn lực tài chính vẫn tập trung nhiều cho hệ thống công trình thủy lợi phục vụ mục tiêu thoát lũ, ngăn mặn, duy trì canh tác lúa.

Thứ ba, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể khái niệm “chủ động thích ứng”, do đó, phải có công trình thì mới chủ động thích ứng được. Các chương trình, dự án về ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng trong thời gian qua hầu hết được thiết kế tập trung vào lĩnh vực giải pháp công trình hạ tầng thủy lợi. Chưa chú trọng dành nguồn lực cho giải pháp phi công trình, giải pháp công nghệ; năng lượng tái tạo; thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái, bảo vệ rừng ngập mặn; mô hình sinh kế bền vững cho cộng đồng...

Thứ tư, hiện nay, việc phân bổ ngân sách của các dự án biến đổi khí hậu cho các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn theo hình thức kế hoạch hóa, địa phương lập kế hoạch nhu cầu dự án và ngân sách gửi Chính phủ tổng hợp, cân đối nguồn và trình Quốc hội phê chuẩn kế hoạch đầu tư công trung hạn của địa phương. Hình thức phân bổ như vậy khiến cho một số dự án biến đổi khí hậu cấp bách đang cần vốn đầu tư để thực hiện nhưng phải tuân thủ quy trình lập kế hoạch đầu tư công mất rất nhiều thời gian; làm cho dự án thiếu tính kịp thời, địa phương thiếu chủ động trong ứng phó với tình hình.

Thứ năm, biến đổi khí hậu có ảnh hưởng trên diện rộng, tác động mang tính liên tỉnh, liên vùng. Tuy nhiên, các chương trình, dự án thích ứng trong thời gian qua chủ yếu được xây dựng và thực hiện cục bộ, manh mún theo ranh giới hành chính, thiếu liên kết, chia sẻ về mặt thông tin giữa các địa phương trong quá trình lập dự án đầu tư công, cơ chế giải quyết các vấn đề liên ngành, liên vùng còn bất cập nên nguồn lực bị phân tán, dàn trải và hiệu quả không cao.

Thứ sáu, chưa thu hút được sự tham gia của khu vực tư nhân trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Hiện các văn bản pháp lý đã đề cập đến vai trò của khu vực tư nhân và thúc đẩy sự tham gia của giới doanh nghiệp trong nhiệm vụ thích ứng với biến đổi khí hậu, song lại thiếu cơ chế hỗ trợ để khuyến khích họ tham gia từ việc xây dựng chính sách đến triển khai thực hiện.

Một số kiến nghị nhằm kiến tạo chính sách chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long

Một là, kiến nghị Ban Kinh tế Trung ương nghiên cứu, tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, xây dựng ban hành nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long phù hợp với bối cảnh phát triển mới. Về dài hạn, cần  nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới đã ban hành Luật Đồng bằng để xây dựng Luật về đồng bằng sông Cửu Long, nhằm tăng cường cơ sở pháp lý cho sự phát triển bền vững.

Hai là, Chính phủ đã đưa ra chiến lược xoay trục phát triển nông nghiệp của vùng từ “lúa gạo - trái cây - thủy sản” sang “thủy sản  - trái cây - lúa gạo”. Do vậy, các chính sách phát triển cho vùng giai đoạn 2021 - 2030 cần được thiết kế để chủ trương xoay trục diễn ra thành công và góp phần chuyển các thách thức, nguy cơ thành cơ hội để phát triển bền vững. Trong giai đoạn 2021 - 2030 và xa hơn, Nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo các chính sách cụ thể, phù hợp, tăng cường sử dụng các công cụ dựa vào nguyên tắc của thị trường, và mang tính linh hoạt, hướng nhiều hơn đến nhóm cộng đồng dân cư, doanh nghiệp để tăng cường năng lực chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Mô hình sản xuất tôm - lúa thích ứng với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long_Nguồn: sggp.org.vn

Ba là, cần sớm xây dựng và ban hành quy hoạch tổng thể phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo phương pháp tích hợp, đa ngành. Trên cơ sở quy hoạch chung, sẽ rà soát, điều chỉnh, xây dựng mới các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, các chương trình, dự án mang tính tổng thể, liên ngành, liên vùng.

Bốn là, hoàn thiện thể chế điều phối vùng trong thích ứng với biến đổi khí hậu. Cần sớm nghiên cứu thành lập hội đồng điều phối vùng nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, liên kết chuỗi chặt chẽ trong sự phát triển bền vững của vùng. Mô hình quản lý này sẽ có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, kinh phí để nắm vai trò ra quyết định cho quá trình phát triển của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu đề xuất thành lập hội đồng ủy ban để xét duyệt các dự án thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống biến đổi khí hậu dựa trên tiêu chí tổng hợp, liên ngành, liên vùng. Xây dựng các tiêu chí ưu tiên để lựa chọn các dự án thuộc Chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 - 2020, Chương trình thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP; đồng thời, ban hành quy chế tài chính giải ngân vốn của dự án thuộc Chương trình biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh, Chương trình thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP ở đồng bằng sông Cửu Long để các địa phương chủ động và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn cho các dự án cấp bách thực hiện.

Năm là, xem xét thành lập quỹ phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long, có cơ chế quản lý hoạt động rõ ràng, để huy động nguồn vốn cấp bách, dành riêng cho phát triển bền vững gắn với  biến đổi khí hậu, phù hợp với các nguyên tắc chung về quản lý tài chính.

Sáu là, tăng cường vai trò tham gia của khu vực tư nhân trong thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghiên cứu xây dựng cơ chế thí điểm phương thức phí dịch vụ thủy lợi ở một số vùng chuyên canh lúa, thủy sản có quy mô lớn phục vụ xuất khẩu tại một số tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ở các vùng tập trung sản xuất có quy mô lớn, ủy ban nhân dân tỉnh cần lựa chọn danh mục các công trình hồ chứa thủy lợi quy mô lớn, hồ chứa đa mục tiêu, tuyến đê biển, đê sông xung yếu, để thí điểm mô hình đầu tư theo phương thức hợp tác công - tư./.


Theo: tapchicongsan.org.vn/

SỰ THẬT VỀ GÓP Ý KIẾN VÀO VĂN KIỆN ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG CỦA NHỮNG KẺ “NHÀN VI CƯ BẤT THIỆN”

 

SỰ THẬT VỀ GÓP Ý VÀO VĂN KIỆN ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG

CỦA NHỮNG KẺ “NHÀN VI CƯ BẤT THIỆN”

Chẳng biết trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, câu thành ngữ “Nhàn vi cư bất thiện” xuất hiện từ khi nào, song mỗi khi nhắc đến câu này thì ai cũng hiểu. Cụ thể, câu này có nghĩa là với bất kỳ ai, nếu cứ ăn rồi ngồi chơi ở nhà sẽ gây ra những điều không tốt đẹp. Nói cách khác là nếu một khi bạn không có việc gì làm sẽ dễ sinh ra những hành động xấu, hoặc có thể hiểu là bạn đã sống nhàn hạ lâu ngày không có việc gì để làm sẽ dễ sinh ra những thói quen xấu, hành động không đúng chuẩn mực… Và từ những hành động sai trái đó sẽ dẫn đến những hệ lụy không thể tưởng tượng được cho xã hội. Với ai thì chưa biết như thế nào, song với Nguyễn Đình Cống thì câu thành ngữ trên chẳng hề sai một chút nào. Bởi gần đây, trên mạng xã hội đã có không ít người gọi ông ta là lão già “nhàn cư vi bất thiện”. Vậy Nguyễn Đình Cống là ai mà để thiên hạ khinh khi đến vậy?

Nguyễn Đình Cống sinh năm 1937, nghỉ hưu năm 1999. Năm 1985, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đảng bộ Trường đại học Xây dựng. Ông là một trong những kỹ sư đầu tiên ở Việt Nam chuyên nghiên cứu về bê tông và các lĩnh vực khác trong xây dựng. Được sinh ra và lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, những năm đất nước còn khó khăn, trong khi lớp lớp thanh niên đều ra chiến trường, với biết bao hy sinh xương máu, không tiếc thân mình vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì Nguyễn Đình Cống được Đảng, Nhà nước ưu ái tạo điều kiện cho đi ăn học ở Liên Xô. Trong suốt những năm công tác trong ngành xây dựng, ông ta đã có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo trong lĩnh vực xây dựng tại Trường đại học Xây dựng. Thế nhưng sau khi về hưu, ông đã có những bài viết trên trang cá nhân núp dưới cái bóng là phản biện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để chỉ trích những điều mà ông cho là sai lầm của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Chưa hết, thời gian gần đây, ông ta còn ngông cuồng viết bài kêu gọi thực hiện đa nguyên, đa đảng và dân chủ kiểu phương Tây. Thậm chí, ông ta còn ngang nhiên công khai đưa ra những quan điểm sai trái, xuyên tạc, phản động, chống đối Đảng và Nhà nước. 

Lý do vì đâu mà ông ta không an phận với những gì Đảng, Nhà nước đã ưu ái mà quay ra phản bội lại lý tưởng một thời mình theo đuổi, phản bội lại chính tổ chức đã nuôi dưỡng và trao cho ông ta tất cả vinh quang trong cuộc đời. Câu trả lời là chính sự suy thoái về nhận thức đã dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính con người ông ta. Bên cạnh đó, vì những ích kỷ cá nhân và cả sự xúi giục của những kẻ xấu đã dẫn ông ta tới chỗ làm những điều hại nước, hại dân;… phản bội lại chính bản thân mình. Việc ông ta cố tình “công khai tuyên bố” rời bỏ lý tưởng mà mấy chục năm phấn đấu là việc riêng của cá nhân và rất nhiều người, trong đó có không ít học trò cũ không cần quan tâm. Nhưng việc ông ta ngang nhiên công khai đưa ra những quan điểm sai trái, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước thì đó là một tội lỗi còn trên cả sự tha hóa, suy thoái của cá nhân. Bởi đó là thái độ, là hành vi vong ơn, bội nghĩa đối với đất nước, dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn toàn trái với đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta “ăn quả nhớ người trồng cây”. Điều đáng giận hơn là Nguyễn Đình Cống đã nối giáo cho những kẻ phản động để chống phá Tổ quốc.

Bằng chứng là mới đây, trên facebook của mình, ông ta khoe rằng: “Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay còn là tài liệu mật, nhưng vô tình tôi có được một bộ và thế là tôi viết bài phản biện”. Trong khi đó, các tiểu ban phục vụ đại hội vẫn đang họp, thảo luận để tham gia xây dựng từng phần nội dung dự thảo, không hiểu ở đâu mà ông ta lại có được bản hoàn chỉnh “Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam” để đem ra khoe rồi nói nhăng, nói cuội? Không những lố bịch và khôi hài như thế, mà ông ta còn thể hiện rõ sự thiếu hiểu biết về công tác đảng. Bằng chứng là ông ta đã thể hiện trên facebook của mình rằng: phần mở đầu báo cáo viết: “Đại hội XIII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”. Và ông ta đã lộng ngôn đưa ra nhận định: “Ý này thừa. Thừa vì ai chẳng biết Đại hội Đảng lần nào mà chẳng quan trọng. Lần này “đặc biệt quan trọng”, nó đặc biệt ở chỗ nào? Có cái gì động trời sắp xảy ra chăng”? Chưa hết, ông ta còn cho rằng: Trong Báo cáo viết… “Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII”. Và ông ta cho rằng ý này hoặc thừa hoặc thiếu, thừa vì đại hội nào mà chẳng kiểm điểm... việc này mọi người đều biết rõ”…

Sau khi phản bác tất cả phần chủ đề, phương châm của đại hội trong cái gọi là “Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam”, ông ta xoay sang phân tích chữ nghĩa theo kiểu dạy ngữ pháp cho học trò phổ thông. Bằng chứng là về nội dung “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị”, ông ta đã lý sự cùn như sau: “Xây dựng là làm ra cái gì đó trước chưa có. Chỉnh đốn là sửa sang, sắp đặt lại thứ đã có. Mấy từ “trong sạch, vững mạnh” đóng vai trò ngữ pháp như thế nào? Phải chăng nó là tính từ bổ nghĩa cho hệ thống chính trị? Vấn đề ở đây là không phải xây dựng hệ thống từ đầu mà hệ thống có sẵn nhưng chưa được trong sạch, chưa được vững mạnh… có thể hiểu là một hệ thống khác với hệ thống đang tồn tại”… Về ý “đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo”, từ sáng tạo ở đây đóng vai trò ngữ pháp nào? Nó làm danh từ bổ ngữ cho động từ đổi mới hay làm trạng từ? Ý này chứng tỏ tư duy mơ hồ. Người ta nghiện từ đổi mới, nên dùng nó bừa bãi…”.

Lịch sử 90 năm của Đảng đã chứng minh: Sau mỗi kỳ đại hội, cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên, giành thắng lợi mới, đất nước tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Và trong bối cảnh cả thế giới đang lao đao vì đại dịch Covid-19, nhưng Ngân hàng Thế giới (WB) vẫn cho rằng: Việt Nam sẽ là một trong những nền kinh tế sôi động nhất thế giới. Cũng theo WB, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP trung bình nhanh nhất thế giới và sẽ là nền kinh tế lớn thứ 30 toàn cầu vào năm 2030. Việt Nam cũng là quốc gia có tốc độ tăng tài sản nhanh nhất 210% và xóa đói giảm nghèo thành công nhất, từ 57% năm 1990 đến năm 2019 chỉ còn dưới 4%. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia an toàn nhất thế giới 5 năm liên tục, là đất nước không có khủng bố thứ 1 thế giới, xếp thứ 5 trong số các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới.

Nếu văn kiện đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là “tư duy mơ hồ, sự dối trá, bịa đặt, ảo tưởng, giáo điều”… như ông ta nói thì đất nước có đạt được những thành tựu như ngày hôm nay không? Đến đây đã rõ động cơ thật sự của cái gọi là “phản biện”, “góp ý” của ông ta chỉ là bức màn che đậy cho âm mưu thâm độc là chọc ngoáy, chống phá rồi đi đến bác bỏ các chủ trương, đường lối, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

THỐNG NHẤT NHẬN THỨC VÀ QUYẾT TÂM CHÍNH TRỊ ĐỂ TỔ CHỨC THÀNH CÔNG ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP TRONG QUÂN ĐỘI

 

THỐNG NHẤT NHẬN THỨC VÀ QUYẾT TÂM CHÍNH TRỊ ĐỂ TỔ CHỨC THÀNH CÔNG ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP TRONG QUÂN ĐỘI

Tính đến ngày 14-9-2020, tất cả các đảng bộ trực thuộc Quân ủy Trung ương đã tổ chức thành công đại hội nhiệm kỳ 2020-2025; Thành công đó có thể hiện rõ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thường vụ Quân ủy Trung ương và Quân ủy Trung ương đối với công tác chuẩn bị, tiến hành đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI.

Để Đại hội Đảng bộ các cấp trong Quân đội nhất là Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI thành công tốt đẹp thì trước đó phải tiến hành làm tốt công tác chuẩn bị với rất nhiều nội dung, công việc; trong đó, chuẩn bị về tư tưởng được Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xác định là nội dung quan trọng hàng đầu của các cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Việc sớm thống nhất nhận thức, đồng thuận về ý chí và quyết tâm hành động được xem là những thành công có tính chất nền tảng để tiến hành các bước tiếp theo của công tác chuẩn bị đại hội. Nhận thức rõ vấn đề đó, nên ngay trong công tác chuẩn bị đại hội các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác này. Công tác chuẩn bị đại hội các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 trong đảng bộ quân đội không chỉ được “khởi xướng” khi có những chủ trương, giải pháp của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương được ban hành bằng văn bản, mà công tác này được định hướng ngay trong hệ thống các quan điểm, chủ trương lãnh đạo, thể hiện rõ nét và được cụ thể hóa ở các hội nghị của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Quân ủy Trung ương từ giữa nhiệm kỳ 2015-2020. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ về vị trí, ý nghĩa của đại hội đảng, ngay từ cuối năm 2018 các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã nhiều lần chỉ đạo, nhắc nhở phải làm sao thực hiện tốt nhất ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương, là: Đại hội đảng các cấp trong quân đội, nhất là Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI phải là đại hội tiêu biểu, mẫu mực nhất của cấp trực thuộc Trung ương về tổ chức và tiến hành đại hội. Đó chính là một cách mà lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị tiến hành công tác tư tưởng, đả thông nhận thức, khơi mở tư duy cho cán bộ, đảng viên và mọi đối tượng về vai trò, vị trí của công tác chuẩn bị đại hội đảng các cấp.

Với những bước triển khai chủ động từ sớm, từ trước, nên khi có Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW ngày 18-10-2019 của Ban Tổ chức Trung ương về một số nội dung Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị, cùng nhiều văn bản chỉ đạo khác của Trung ương, tập thể Quân ủy Trung ương và các đảng bộ trực thuộc Quân ủy Trung ương, đảng bộ trên cơ sở, thậm chí cả tổ chức đảng cơ sở, đều tổ chức hội nghị quán triệt, học tập tập trung ở cấp mình. Cán bộ chủ trì các cấp tích cực học tập, nghiên cứu, trực tiếp thực hiện sứ mệnh là “giảng viên” quán triệt tư tưởng, nội dung, mục đích, yêu cầu... chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn đảng bộ, cũng như cán bộ, chiến sĩ ở cơ quan, đơn vị trực thuộc.

Chính nhờ đó, đến khoảng giữa tháng 1-2020, các tổ chức đảng cơ sở trong toàn Đảng bộ Quân đội về cơ bản đã hoàn thành công tác chuẩn bị, sẵn sàng tổ chức đại hội đảng theo kế hoạch. Dù dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống xã hội và hoạt động quân sự, nhưng các khâu, các bước chuẩn bị cho đại hội; nhất là công tác nhân sự các cấp vẫn được tiến hành chặt chẽ, đảm bảo quy trình; các vấn đề, nội dung chuẩn bị cho dự thảo văn kiện đại hội ở mỗi cấp được phân công đến mọi tổ chức, đơn vị, đầu mối ngành, lĩnh vực ở mỗi cấp để tiến hành. Nhờ cách làm đó, 100% cán bộ, đảng viên, quần chúng đều tích cực tham gia vào công tác chuẩn bị đại hội theo cương vị, chức trách; đồng thời, bày tỏ tin tưởng vào thành công của đại hội đảng nhiệm kỳ mới ở tất cả các cấp./.

KỶ NIỆM 66 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ – NHÌN LẠI HÀNH TRÌNH GIAN KHÓ NHƯNG RẤT ĐÁNG TỰ HÀO

 

Mùa thu Hà Nội có lẽ là mùa đẹp nhất trong năm đối với người dân thủ đô với những nét sắc thu rực rỡ đã đi vào những tác phẩm thơ văn và những ca khúc bất hủ. Những ngày thu Hà Nội cũng là những ngày cả nước hân hoan chào mừng những ngày kỉ niệm trọng đại của dân tộc: ngày Cách mạng tháng Tám, ngày Quốc khánh 2/9... và không thể nào quên một ngày vô cùng trọng đại đối với mỗi người Hà Nội - ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1954, ngày đã đem lại một bước ngoặt lớn cho nhân dân Hà Nội nói riêng cũng như toàn dân tộc Việt Nam nói chung.

Hội nghị Giơ-ne-vơ kết thúc ngày 20/7/1954 cùng với việc thực dân Pháp chấp nhận phải rút hết quân khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, trên thực tế, trong vòng 80 ngày sau đó, quân đội Pháp vẫn tiếp tục trụ lại trong thủ đô Hà Nội và vẫn ráo riết tổ chức các hoạt động phá hoại Thủ đô về mọi mặt. Trước tình hình đó, Đảng bộ và chính quyền Hà Nội đã lãnh đạo nhân dân Thủ đô đoàn kết đấu tranh đòi thi hành Hiệp định, bảo vệ Thành phố, bảo vệ xí nghiệp, công sở, tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ quyền lợi của công nhân, viên chức, chống địch phá hoại; đồng thời, đẩy mạnh phát triển lực lượng cách mạng trong Thành phố, phối hợp với các lực lượng từ chiến khu trở về tiếp quản Thủ đô.

Cuộc đấu tranh mạnh mẽ của quân và dân Hà Nội đã buộc Bộ Chỉ huy quân chiếm đóng Pháp chấp nhận rút khỏi Thành phố vào cuối tháng 9/1954. Ngày 08/10/1954, Ban Tiếp nhận Quân sự của ta triển khai ở 06 khu vực nội thành và huyện Gia Lâm, tiếp nhận bàn giao cơ quan và các vị trí quân sự. Bộ đội ta tiến vào Đê La Thành, Vĩnh Tuy, Ngã Tư Sở, Cầu Giấy, Nhật Tân và bố trí canh gác ở những vị trí cần thiết. Lực lượng tự vệ nhà máy cùng nhiều công nhân đến canh gác bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp của mình. Trên các đường phố, cờ đỏ sao vàng, cổng chào và khẩu hiệu xuất hiện, hoan nghênh bộ đội và chính quyền cách mạng trở về Thủ đô. Địch rút đến đâu, ta tiếp quản đến đó. Đến 16 giờ ngày 09/10/1954, tốp lính Pháp cuối cùng rút khỏi cầu Long Biên sang Gia Lâm. Sáng ngày 10/10/1954, Đại đoàn 308, dẫn đầu là Trung đoàn Thủ đô tiến vào nội thành Hà Nội. Từ sáng sớm nhân dân Thủ đô đã tưng bừng mang theo cờ, hoa, ảnh Bác Hồ ra khắp các ngả đường chào đón bộ đội hành quân vào tiếp quản Thủ đô. Đúng 08 giờ sáng, cánh quân phía Tây xuất phát từ Quần Ngựa là những chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô, mang trên ngực huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên Phủ”, trở về với thành phố quê hương - nơi sinh ra Trung đoàn - đi qua Kim Mã, Nguyễn Thái Học, Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Ngang… đến 09 giờ 45 phút tiến vào Cửa Đông. Khoảng 08 giờ 45 phút, cánh quân phía Nam thuộc hai trung đoàn 88 và 36 xuất phát từ Việt Nam Học xá (nay thuộc Trường Đại học Bách khoa) đi qua Bạch Mai, phố Huế, vòng quanh Hồ Gươm rồi vòng lại vào đóng ở khu vực Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Quân y 108) và khu Đấu Xảo (nay là Cung Văn hóa Hữu nghị). Riêng Đoàn Chỉ huy tiếp quản, gồm các lực lượng cơ giới, pháo binh do Chủ tịch Ủy ban Quân chính Vương Thừa Vũ và Phó Chủ tịch Trần Duy Hưng dẫn đầu, lúc 09 giờ 30 phút từ sân bay Bạch Mai đến Ngã Tư Vọng sang Ngã tư Trung Hiền rồi theo đường Bạch Mai lên phố Huế, Hàng Bài, Đồng Xuân, vào Cửa Bắc. Vào lúc 15 giờ, còi Nhà hát Lớn thành phố nổi một hồi dài, hàng chục vạn nhân dân Hà Nội và các đơn vị quân đội trang nghiêm dự Lễ chào cờ do Ủy ban Quân chính tổ chức tại Sân vận động Cột Cờ. Sau Lễ chào cờ, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ trân trọng đọc Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô nhân ngày giải phóng.

Kể từ ngày Toàn quốc kháng chiến đến Ngày trở về giải phóng Thủ đô, quân và dân Hà Nội đã trải qua biết bao gian khổ, hy sinh, trải qua những chặng đường hành quân lịch sử, đã lập nên mốc son chói lọi làm nức lòng quân và dân cả nước. Ngày giải phóng Thủ đô mang một ý nghĩa lịch sử vô cùng đặc biệt đối với sự nghiệp kháng chiến của toàn dân tộc, không chỉ mang ý nghĩa giải phóng một thành phố thoát khỏi chế độ thực dân Pháp mà còn là giải phóng một cơ quan đầu não của dân tộc Việt Nam, giải phóng một lực lượng hậu phương hùng mạnh và vững chắc, tạo động lực mạnh mẽ để tiến tới giải phóng toàn bộ các thành phố khác, quét sạch hoàn toàn giặc Pháp ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Trong công cuộc kháng chiến lịch sử, Hà Nội luôn đi đầu với tinh thần tự lực, tự cường, luôn nêu cao tinh thần vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, cùng cả nước tích cực chiến đấu, sản xuất, thực hành tiết kiệm, trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, luôn tích cực phối hợp với chiến trường cả nước để đi đến thắng lợi cuối cùng.

66 năm đã đi qua nhưng ngày giải phóng Thủ đô vẫn là một mốc son luôn rạng ngời trong trái tim mỗi người dân Hà Nội, để rồi đến ngày 10/10 hàng năm, Thủ đô Hà Nội lại ngập tràn cờ hoa, gợi nhắc lại những kỉ niệm tự hào về những ngày tháng hào hùng của dân tộc đã viết nên những trang sử vàng cho non song đất nước. 

 

 

TĐC

Mạo danh nhân quyền để chống phá Việt Nam

 

Thời gian gần đây, một số tổ chức phản động người Việt ở nước ngoài, nhất là “Ủy ban cứu người vượt biển” (BPSOS) gia tăng các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam. Trong đó, BPSOS liên kết 23 tổ chức nhân quyền tìm cách vận động Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính Mỹ áp dụng Luật Magnitsky toàn cầu đối với Việt Nam với cái cớ Việt Nam “leo thang vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo”, đồng thời kích động các hoạt động xuyên tạc, vu cáo chống phá trong nước, bất chấp việc Chính phủ và nhân dân Việt Nam đang chung sức đồng lòng chống dịch COVID-19 với những kết quả bước đầu được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Vậy đâu là mục đích thật sự của một tổ chức đội lốt nhân quyền để chống phá Đảng, Nhà nước do Nguyễn Đình Thắng cầm đầu?

“Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” được thành lập vào năm 1980, có trụ sở chính tại Falls Church, Virginia, Mỹ. Dưới hình thức một tổ chức phi chính phủ chuyên thực hiện các hoạt động “đấu tranh” cho nền dân chủ ở Việt Nam, song hoạt động của BPSOS thể hiện rõ bản chất một tổ chức phản động lưu vong, thường xuyên cấu kết với tổ chức khủng bố “Việt Tân” của Đỗ Hoàng Điềm để thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, cổ vũ, khích lệ số chống đối, cực đoan trong nước. BPSOS thường sử dụng hình thức hỗ trợ tài chính cho số bất mãn, vi phạm pháp luật trong nước để kích động tụ tập gây rối, phá hoại an ninh trật tự an toàn; lôi kéo các đối tượng tù tha có tư tưởng cực đoan chính trị; móc nối với số trong nước để cung cấp thông tin, hình ảnh vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam và vận động người Việt Nam ở nước ngoài, nghị sỹ Mỹ thiếu thiện chí tổ chức điều trần, hội luận vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, từ đó tạo cớ để vận động chính giới Mỹ và các nước phương Tây gây sức ép, can thiệp với Việt Nam.

Cầm đầu BPSOS là Nguyễn Đình Thắng. Trước năm 1975, Thắng từng học tại Trường Quốc gia hành chánh và làm Phó Quận trưởng hành chánh của chính quyền Sài Gòn. Tự gắn cho mình cái mác “tiến sỹ” nhằm lừa bịp cộng đồng người Việt ở nước ngoài nhưng thực chất Thắng không có thành tích gì nổi trội trong bất kỳ lĩnh vực nào mà chỉ nhờ vào “tiểu sử hoạt động” chống Cộng điên cuồng của mình. Vượt biên sang Mỹ vào năm 1979, Thắng tham gia một số tổ chức phản động như “Ủy ban Tự do tôn giáo cho Việt Nam” (CRFV), “Liên minh bài trừ nô lệ mới tại châu Á” (CAMSA) với vai trò cầm đầu các tổ chức này. Để đánh bóng tên tuổi của mình, Thắng rêu rao với cộng đồng người Việt ở Mỹ rằng bản thân “đau đáu” về Tổ quốc, luôn “bênh vực”, “bảo vệ” quyền lợi của người dân Việt Nam khỏi sự “đàn áp” của Đảng Cộng sản độc đoán. Ngoài Nguyễn Đình Thắng, Ban Lãnh đạo của BPSOS gồm: Đinh Ngọc Tuyết, Julia Phạm, Trọng Phạm, An Nguyễn. Đây đều là những nhân vật “có tiếng” trong cộng đồng người Việt ở Mỹ có tư tưởng hận thù “Cộng sản Việt Nam”, có lai lịch là con em của gia đình binh lính Việt Nam Cộng hòa nặng tư tưởng chống Cộng. Trong số này có thể kể đến Đinh Ngọc Tuyết, thành viên cốt cán của BPSOS đồng thời kiêm nhiệm vai trò đại diện ở hải ngoại của “Hội Phụ nữ nhân quyền Việt Nam” - một tổ chức đội lốt “xã hội dân sự” để tiến hành hoạt động chống phá tại Việt Nam. Đinh Ngọc Tuyết đã từng tổ chức đoàn làm việc với một số nghị sỹ Quốc hội Mỹ tại Capital Hill nhân dịp cái gọi là “sự kiện” do BPSOS khởi xướng mang tên “Ngày vận động cho nhân quyền Việt Nam”. Với một ban bệ như thế, việc tổ chức này thường xuyên tiến hành các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam không có gì là lạ!

Núp bóng danh nghĩa một tổ chức NGO hoạt động “vì mục đích từ thiện, trợ giúp người tị nạn”, Nguyễn Đình Thắng và đồng bọn luôn tìm cách lợi dụng chính sách và quan tâm của Mỹ đối với Việt Nam trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, khai thác triệt để các vấn đề được dư luận quan tâm ở trong nước để thực hiện các hoạt động chống phá Việt Nam cả ở trong và ngoài nước, xuyên tạc chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam. Mục tiêu tập trung tiếp cận của Nguyễn Đình Thắng là sinh viên, trí thức trẻ người Việt tại Mỹ. Lợi dụng việc người trẻ có tâm lý thích tự khẳng định mình trong khi thiếu thông tin về tình hình thực tế tại Việt Nam, Nguyễn Đình Thắng cố tình khoét sâu một số vụ việc tiêu cực trong nước để lôi kéo người tham gia, đồng thời tổ chức các loại hội thảo, tập huấn, đào tạo… để gây khuếch trương thanh thế, tạo dựng niềm tin đối với số đang được lôi kéo. Thông qua “Viện nghiên cứu người Mỹ gốc Việt - VARI” do y thành lập, Nguyễn Đình Thắng rêu rao kế hoạch đào tạo “500 lãnh đạo trong 5 năm”, hỗ trợ các công trình nghiên cứu và hiện đang thử nghiệm giáo trình đào tạo tại Alabama và Missisipi, Mỹ.

Bên cạnh đó, BPSOS câu kết chặt chẽ với tổ chức khủng bố “Việt Tân” (do Đỗ Hoàng Điềm cầm đầu) cung cấp tài chính cho số đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam để thực hiện các hoạt động chống phá trong nước; câu kết với “Quỹ người Thượng” (do Ksor Kok cầm đầu) kích động đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vượt biên sang Căm-pu-chia, xin tị nạn tại Mỹ; âm mưu thành lập cái gọi là “Nhà nước Đề-ga” để lừa gạt đồng bào gốc Tây Nguyên ở Mỹ biểu tình chống Việt Nam, lôi kéo số họ tham gia các cuộc hội thảo do BPSOS và Việt Tân tổ chức để tập huấn cách thức “đấu tranh bất bạo động”.

Ngoài ra, chúng còn tổ chức gây quỹ nhằm “bảo trợ” cho một số luật sư sang Thái Lan hỗ trợ số người Việt vượt biên trái phép, lập hồ sơ “tị nạn chính trị” theo tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc (LHQ) để tránh bị cơ quan chức năng Thái Lan trục xuất. BPSOS luôn tìm mọi cách móc nối với số chống đối, cực đoan tôn giáo trong nước để đưa ra nước ngoài hoặc lợi dụng mạng xã hội để lôi kéo, đào tạo online nhằm mục đích huấn luyện cho các đối tượng thu thập tài liệu xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, gửi báo cáo lên các cơ chế nhân quyền của LHQ.

 Trước bước phát triển trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ thời gian qua, Nguyễn Đình Thắng lại “sôi sục” tìm cách phá hoại. Bằng nhiều thủ đoạn, Thắng cung cấp thông tin sai sự thật, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền, nhất là vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam để vận động một số nghị sỹ Quốc hội Mỹ như Loretta Sanchez, Christ Smith... Gây sức ép với Việt Nam, cản trợ nỗ lực nâng tầm quan hệ song phương. Gần đây, BPSOS vận động số nghị sỹ cực đoan trên ủng hộ “Dự luật nhân quyền - HR.1383”, đồng thời  phối hợp với nhóm “Bàn tròn đa tôn giáo Việt Nam” gửi “Kiến nghị thư” tới Chính phủ Việt Nam xuyên tạc vấn đề người h’mông và người Tây Nguyên theo đạo Tin lành ở Việt Nam và đưa ra nhiều yêu sách ngang ngược. Bên cạnh đó, BPSOS tích cực tổ chức một loạt các cuộc hội luận trực tuyến, lôi kéo sự tham gia của một số chuyên gia nhân quyền nước ngoài để xuyên tạc tình hình nhân quyền trong nước.

Tận dụng thời điểm Việt Nam diễn ra các sự kiện chính trị, kinh tế lớn như ký kết hiệp định thương mại song phương, đa phương, tham gia các công ước quốc tế, Thắng cùng các thành viên của BPSOS tăng cường liên hệ, móc nối với các cá nhân, tổ chức nước ngoài có vị thế nhằm hạ thấp vai trò, ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Lợi dụng sự kiện Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) ký kết Hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) tháng 2-2020, BPSOS cùng một số tổ chức phản động lưu vong như “Mạng lưới người bảo vệ nhân quyền -  VETO”, “Quê mẹ”, “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam - CRFV”, “Việt tân” và “Sáng kiến thể hiện lương tâm người Việt Hải ngoại - VOICE” đã câu kết ký tên vào cái gọi là “Thư gửi Nghị viện châu Âu” phản đối Ủy ban Thương mại quốc tế (INTA) cho phép Việt Nam tham gia Hiệp định EVFTA và EVIPA.

Mặc dù có trình độ học vấn “hữu danh vô thực” nhưng Thắng rất biết nắm thời cơ, mượn cớ tiến hành các hoạt động “nhân đạo” mà thực chất là chống phá Việt Nam để trục lợi. Ngay từ những năm 1980, Thắng câu kết cùng một số đối tượng lưu vong khác thành lập BPSOS để lôi kéo người dân rời bỏ Việt Nam trốn đi nước ngoài. Thông qua trang web “Mạch sống” - “Cơ quan ngôn luận” của BPSOS, Thắng vận động cộng đồng người Việt quyên góp tiền và xin tài trợ của NED (“Quỹ quốc gia hỗ trợ dân chủ” – một tổ chức phi chính phủ Mỹ), đồng thời lập ra 15 văn phòng, chi nhánh ở một số bang trên đất Mỹ để “kinh doanh”dịch vụ nhập quốc tịch, thuê luật sư, xin “thẻ xanh” (thẻ chứng nhận được thường trú) và giấy phép làm việc. Từ năm 1999 đến năm 2005, Nguyễn Đình Thắng và Ngô Thị Hiền cùng một số đối tượng khác kêu gọi cộng đồng người Việt ở hải ngoại “quyên góp” tiền với lý do “gây quỹ ủng hộ đồng bào bão lụt trong nước” nhưng thực chất là trục lợi, gây bức xúc vàkhiếu kiện trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Núp bóng dưới cái mác vì nhân quyền cũng chỉ là các thủ đoạn, mánh lới kiếm tiền bất lương, càng nhiều chiêu trò chống phá Việt Nam thì số tiền nhận được càng nhiều.

 

Âm mưu, ý đồ của Nguyễn Đình Thắng đã bị cộng đồng người Việt ở nước ngoài từng bước nhận diện. Trên một số trang mạng của người Việt tại nước ngoài như “tinparis”, “saigontimes” có nhiều bài viết vạch trần bộ mặt giả dối của Nguyễn Đình Thắng, khẳng định Thắng đã vẽ ra các dự án và kế hoạch chi tiêu để cơ quan cấp quỹ tài chính của Chính phủ Mỹ xem xét, cấp tiền hoạt động, nhất là tranh thủ gói ngân sách 50 triệu USD của Mỹ để thúc đẩy tự do tôn giáo quốc tế. Toàn bộ hoạt động trục lợi của y bị bóc mẽ qua trang blog của người Việt ở nước ngoài Suthatnguyendinhthang. Nhiều bài viết khẳng định, trong nội bộ tổ chức BPSOS không có dân chủ như thường tung hô, không có bầu cử rõ ràng, Thắng hành xử rất độc tài, nắm toàn quyền thu, chi không cần hỏi ai. Một minh chứng rõ ràng về việc này là vụ Nguyễn Đình Thắng bị chính thành viên trong BPSOS (Holly Ngô - phụ tá kiểm toán trong tổ chức) tố cáo là “đại bịp”, buộc người khác quyên tiền một cách miễn cưỡng, không minh bạch trong việc sử dụng quỹ hoạt động của tổ chức, phỉ báng người có ý kiến trái chiều.

Núp bóng danh nghĩa một tổ chức phi chính phủ hoạt động với mục đích “từ thiện, trợ giúp người tị nạn”, song thực chất BPSOS là một tổ chức phản động lưu vong luôn tìm cách phá hoại sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. Trong khi Chính phủ và nhân dân Việt Nam đang chung sức, đồng lòng chống dịch COVID-19, thì Nguyễn Đình Thắng cùng một số tổ chức đã gửi thư chung đề nghị Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính Mỹ áp dụng chế tài theo Luật Magnitsky toàn cầu đối với Việt Nam với luận điệu Việt Nam “leo thang vi phạm nhân quyền”, “đàn áp tôn giáo”, “tham nhũng tiền viện trợ cho phòng, chống dịch”… Nhưng, những thông tin bịa đặt ấy không thể che lấp sự thật về những nỗ lực và kết quả của Việt Nam trong công tác phòng, chống dịch, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Những lời xuyên tạc, vu cáo nhằm vận động các nước gây sức ép với Việt Nam, tạo thêm những khó khăn trong bối cảnh cả nước đang bước vào giai đoạn thứ ba của trận chiến COVID-19 với nhiều thách thức phía trước đã thể hiện rõ ý đồ không mấy tốt đẹp của Nguyễn Đình Thắng cũng như số đối tượng núp bóng đấu tranh cho “nhân quyền”, “dân chủ”.

Trong cuộc chiến chống COVID-19, hơn lúc nào hết Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam cần sự đồng lòng, chung tay hỗ trợ của tất cả những người con Việt Nam ở khắp mọi nơi và thực tế không ít những Việt kiều ở nhiều nước trên thế giới đã luôn hướng về Tổ quốc, ủng hộ cả vật chất và tinh thần đối với Chính phủ và Nhân dân Việt Nam. Trong xu thế ấy, hành động của Nguyễn Đình Thắng cùng tổ chức BPSOS thật lạc lõng và đáng lên án./.

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM MÃI MÃI XỨNG ĐÁNG LÀ ĐIỂM TỰA, NIỀM TIN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN


Với mục tiêu vấy bẩn, hòng bôi nhọ hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ, thời gian gần đây các thế lực thù địch, chống phá cố tình lấy cớ một số sự vụ, sự việc vi phạm đơn lẻ (mà bất cứ tổ chức rộng lớn nào trên thế giới cũng không thể tránh khỏi) để thổi phồng và quy chụp rằng: Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đang dần bị biến chất, không còn kiên định mục tiêu tối thượng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân...

1. Thực chất, các chiêu trò nêu trên không nằm ngoài mưu đồ cố tình bóp méo, hạ bệ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ và bản chất tốt đẹp của QĐND Việt Nam. Đây cũng chính là một chiêu trò “tung hỏa mù”, hướng vào chống phá Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Thế nhưng, sự vụng về khi ngụy biện, cộng với chiêu thức chống phá cũ kỹ sẽ không khó để chúng ta nhận diện, lật tẩy thông qua việc nêu lên một vài ví dụ về đời sống thường nhật và hoạt động quân sự của bộ đội, để “ánh sáng sự thật” sẽ tự thân đẩy lùi “bóng tối bịa đặt xấu xa” theo đúng quy luật khách quan.

Còn nhớ, khi bắt đầu xuất hiện dịch Covid-19, xã hội Việt Nam xuất hiện “tâm trạng phản vệ” và có một bộ phận người dân hoang mang, lo sợ. Cũng vì đó, tình trạng qua lại biên giới, nhất là các đường mòn, lối mở diễn ra rất nhiều. Thực hiện mệnh lệnh “chống dịch như chống giặc” để bảo vệ nhân dân với lực lượng y tế làm nòng cốt, Quân đội ta đã chỉ đạo các đơn vị quân y tích cực tham gia phòng, chống dịch và đặc biệt là chỉ đạo Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tăng cường tuần tra, chốt chặn, kiểm soát chặt chẽ xuất nhập cảnh, nhằm ngăn chặn dịch xâm nhập vào nội địa qua đường biên giới... Theo chủ trương đó, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ BĐBP đã tình nguyện lên đường nhận nhiệm vụ; tham gia ứng trực 24/24 giờ tại các khu vực cửa khẩu, đường mòn, lối mở, bờ sông suối... nơi con người có thể qua lại trên khắp dải biên cương, kết thành “bức tường ngăn dịch” vững chắc, suốt từ đầu năm 2020 đến nay.

Làm nhiệm vụ tại miền biên viễn ấy, BĐBP không chỉ đối diện với nguy cơ dịch bệnh mà còn đương đầu với rất nhiều khó khăn, thiếu thốn; đối diện cả với những khoảng lặng tình cảm và sự hy sinh cao độ về mặt tinh thần mà chỉ những con người mang trong mình phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ mới đủ khả năng chịu đựng và mạnh mẽ vươn lên. Ấy là trong khoảng 300 ngày qua, khi đất nước có những thời điểm thực hiện trạng thái "bình thường mới" (sau hai đợt cao điểm bùng phát dịch), thì 100% cán bộ, chiến sĩ BĐBP trên các tuyến biên giới vẫn bám trụ, căng mình bám chốt làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát. Cũng trong quãng thời gian ấy, gần 20 đồng chí đã không thể nghỉ phép về quê để đưa tiễn người thân đến nơi an nghỉ cuối cùng; hơn 50 đồng chí hoãn cưới vợ, hoãn cưới con; 50 đồng chí không thể ở nhà lúc vợ trở dạ, sinh con;...

Cũng bắt đầu từ khi xuất hiện dịch Covid-19 ở Việt Nam, hàng loạt đơn vị quân đội đã cơ động lực lượng, dồn dịch nơi ăn ở, nhường hệ thống doanh trại phục vụ công tác cách ly công dân có nguy cơ nhiễm dịch Covid-19. Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ ở những đơn vị này lại trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Sau khi hoàn thành thời gian cách ly y tế ở các đơn vị quân đội, rất nhiều công dân đã bày tỏ lòng biết ơn, xúc động và thán phục về sự chịu đựng gian khó, mẫn cán, hết lòng phục vụ nhân dân của bộ đội. Người dân cảm kích, khâm phục, bởi công dân bị cách ly vốn mang nhiều nguy cơ dịch bệnh, nhưng cán bộ, chiến sĩ quân đội vẫn trực tiếp, tận tình phục vụ và hướng dẫn từng người thực hiện các biện pháp y tế theo đúng quy định; trực tiếp an ủi, động viên họ yên tâm cách ly, lạc quan vươn lên trong thời điểm khó khăn nhất. Đặc biệt, khi dịch Covid-19 xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bộ đội hóa học và các lực lượng chức năng đều có mặt sớm nhất, tiến hành phun khử trùng phục vụ dập dịch, bảo vệ người dân...

Tất cả những chi tiết ấy cho thấy sự hy sinh quên mình của Bộ đội Cụ Hồ. Họ lặng lẽ công tác, thầm lặng cống hiến vô điều kiện để bảo vệ, phục vụ nhân dân. Đó chính là sự kế tục truyền thống của QĐND Việt Nam anh hùng-đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”; minh chứng rõ rành về sự giác ngộ cao độ và tinh thần sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân của Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.

2. Tất nhiên, phẩm chất vì nhân dân phục vụ của Bộ đội Cụ Hồ không chỉ thể hiện, minh chứng sinh động thông qua cuộc chiến phòng, chống dịch Covid-19 mà luôn được hiện hữu trong suốt gần 76 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành; trở thành giá trị truyền thống quý báu của QĐND Việt Nam. Đặc biệt trong 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo của QUTƯ, Bộ Quốc phòng, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn hoàn thành tốt sứ mệnh bảo vệ, chăm lo và gắn bó máu thịt với nhân dân; viết thêm những giá trị mới trong hệ chuẩn mực nhân cách của quân nhân cách mạng. Đó là hình ảnh về những sĩ quan QĐND Việt Nam tự tin, trách nhiệm trong đội quân Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, tham gia bảo vệ sự bình yên, hạnh phúc cho nhân loại tiến bộ và thực hiện nghĩa cử quốc tế cao đẹp. Đó là những quân nhân cách mạng giàu trí tuệ, làm chủ khoa học kỹ thuật tân tiến, điều khiển, sử dụng thuần thục phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại canh giữ vùng đất, vùng trời, vùng biển, đảo Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên và nền hòa bình bền vững cho nhân dân. Và còn nữa là những đoàn quân đến với vùng sâu, vùng xa, nơi gian khó... để giúp dân xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Đặc biệt, khi bất cứ nơi đâu xảy ra thiên tai, địch họa thì ở đó luôn có Bộ đội Cụ Hồ sẵn sàng xả thân bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân. Quân đội luôn là lực lượng có mặt trước tiên, gắn bó mật thiết và là "tấm chắn" bảo vệ nhân dân trước mọi hiểm nguy do thiên tai gây ra... Trong quá trình đó, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, trở thành biểu trưng sáng đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong điều kiện mới.

Nghĩ cho dân, lo cho dân, hướng dẫn và đồng hành cùng nhân dân, trong 5 năm qua, toàn quân đã sáng tạo và duy trì hoạt động hiệu quả hơn 7.000 tổ công tác dân vận, hơn 14.000 điển hình “Dân vận khéo”, “Đơn vị dân vận tốt” hoạt động hiệu quả. Ở tất cả các quân chủng, binh chủng, lực lượng trong quân đội đều có phong trào, cách thức giúp dân hiệu quả, thiết thực, được nhân rộng ra toàn quân và các cấp trong hệ thống chính trị.

Nói về những kết quả trong công tác giúp dân, bảo vệ dân, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ từng ghi nhận sâu sắc: QĐND Việt Nam đã, đang, sẽ và mãi xứng đáng là điểm tựa niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân! Bởi lẽ, thành quả lớn nhất của quân đội là làm cho dân tin, dân yêu, dân kính trọng và tự nguyện giúp đỡ quân đội, tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đắp bồi thế trận lòng dân ngày càng vững chắc.

Trong nhiệm kỳ qua, trước nhiều tác động đa chiều của đời sống xã hội hiện tại, nhưng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ ở cán bộ, chiến sĩ quân đội và truyền thống QĐND Việt Nam anh hùng luôn được giữ vững, phát huy, tỏa sáng. Trước mọi diễn biến tình hình, toàn quân luôn thống nhất ý chí và hành động, kiên định mục tiêu: Vì nhân dân phục vụ! Trước sự mời gọi của lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm do tác động, ảnh hưởng của mặt trái xã hội, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn mạnh mẽ đấu tranh, quyết liệt tẩy trừ các biểu hiện xuống cấp về đạo đức lối sống, vi phạm kỷ luật; giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân-tập thể, cống hiến hết mình cho đất nước, cơ quan, đơn vị... Đó là cơ sở tạo nên niềm tin vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với QĐND Việt Nam.

3. Có một câu hỏi đặt ra là: Tại sao cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam lại có thể nêu cao ý thức trách nhiệm, tự giác hành động vì dân mà không hề quản ngại gian khổ, hy sinh? Câu hỏi thật khó lý giải theo cách ngắn gọn, bởi nội hàm đặt ra khá rộng lớn. Thế nhưng, có một điều mà ai cũng nhận thấy, là mỗi sĩ quan, cán bộ quân đội cũng chính là một đảng viên và tất cả quân nhân trong QĐND Việt Nam đều thấm nhuần mục tiêu, lý tưởng cách mạng cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế mà tuyệt đại đa số quân nhân đều tự giác cao độ, luôn trân quý nhân dân, yêu quý công việc và sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì nước, vì dân. Đó cũng chính là bản chất, truyền thống của Bộ đội Cụ Hồ.

Với đặc thù hoạt động quân sự, nhiều đơn vị đóng quân phân tán, hoạt động nhỏ lẻ, bởi thế vai trò của tổ chức đảng cơ sở, nhất là của chi bộ càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chi bộ đảng được thành lập và “có mặt” ở tất cả các loại hình đơn vị, lĩnh vực công tác, địa bàn đóng quân. Chi bộ trực tiếp lãnh đạo hoạt động của bộ đội ở mọi điểm chốt biên cương, về từng điểm đảo, cụm đảo, nhà giàn DK; “đồng hành” và “dẫn dắt” những chiến hạm, con tàu vươn khơi trên biển, cáng đáng hải trình tuần tra, thực hiện nhiệm vụ hộ tống, cứu hộ, cứu nạn...; “chỉ dẫn” cho nhiệm vụ học tập, nghiên cứu khoa học, làm chủ công nghệ ở các môi trường học viện, nhà trường, viện nghiên cứu trong quân đội... Dù thực hiện chức năng lãnh đạo ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, thì nền nếp chế độ sinh hoạt Đảng của tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội cũng đều được duy trì chặt chẽ, hiệu quả, tính chiến đấu, năng lực lãnh đạo và tinh thần tự phê bình, phê bình luôn được nêu cao. Bởi thế mà mạch chảy của công tác lãnh đạo luôn được thông suốt, kết nối một cách hệ thống, chặt chẽ, liên hoàn.

Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đến với mọi cấp trong quân đội chính là nguyên nhân mấu chốt, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân để đưa đến thành công trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, cũng như hoàn thành sứ mệnh “Vì nhân dân phục vụ” của cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Chính những quân nhân cách mạng, với tình yêu Tổ quốc mãnh liệt phấn đấu theo lý tưởng cao đẹp của Đảng, kiên định mục tiêu cao nhất của QĐND Việt Nam đã tạo nên những mạch ngầm nhiệt huyết không ngơi nghỉ cho những nỗ lực cống hiến, hy sinh quên mình vì Tổ quốc, vì nhân dân của cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam. Sự thật ấy, dẫu những kẻ xấu và các thể lực thù địch có trăm nghìn “mưu hèn, kế bẩn”, dẫu thủ đoạn chống phá có tinh vi, xảo quyệt đến đâu thì cũng không thể phủ nhận, không thể bôi xấu hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ!

Hải Đăng st

 


Chuyên gia phẫn nộ vì thông điệp 'đừng sợ nCoV' của Trump

Chuyên gia y tế tỏ ra phẫn nộ vì thông điệp "đừng sợ nCoV" của Trump khi dịch bệnh đã giết chết hơn 215.000 người Mỹ


Các chuyên gia y tế công cộng đã hy vọng Tổng thống Donald Trump, người bị nhiễm nCoV cùng nhiều nhân viên trong chính quyền của ông, sẽ hành động dứt khoát để thuyết phục người ủng hộ rằng đeo khẩu trang và cách biệt cộng đồng là cần thiết để bảo vệ chính họ và những người thân yê


Thay vào đó, trong bài đăng Twitter hôm 5/10 từ Trung tâm Quân y Quốc gia Walter Reed, nơi Trump được điều trị Covid-19, Tổng thống Mỹ một lần nữa bị cho là hạ thấp mối đe dọa của virus. "Đừng sợ Covid", Trump viết. "Đừng để nó chi phối cuộc sống của bạn


Khi về đến Nhà Trắng vài giờ sau đó, Trump cởi khẩu trang cất vào túi trước khi cùng một số người đeo khẩu trang đi vào bên trong. Tổng thống có thể vẫn lây virus cho người khác vì nhiều bệnh nhân có thể lây lan virus trong tối đa 10 ngày sau khi xuất hiện triệu chứn


Trong video được quay tại Nhà Trắng sau đó, Trump tiếp tục kêu gọi "đừng sợ nCoV". "Có một điều chắc chắn, đó là đừng để nó chi phối bạn. Đừng sợ nó. Các bạn sẽ đánh bại nó. Chúng ta có các thiết bị y tế tốt nhất. Chúng ta có những loại thuốc tốt nhất, tất cả đều được phát triển gần đây", Trump nó


Các nhà khoa học, nhà đạo đức học và bác sĩ tỏ ra phẫn nộ trước các bình luận của Tổng thống. "Tôi không còn gì để nói, thật điên rồ. Hoàn toàn vô trách nhiệm", Harald Schmidt, giáo sư về đạo đức y tế và chính sách y tế tại Đại học Pennsylvania, cho ha


Trump cởi khẩu trang sau khi trở về Nhà Trắng từ Trung tâm Quân y Quốc gia Walter Reed hôm 5/10. Ảnh: AFP.


Tiến sĩ William Schaffner, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Trường Y Đại học Vanderbilt, gọi thông điệp của Tổng thống là "nguy hiểm" vì nó khuyến khích những người ủng hộ ông bỏ qua các khuyến nghị cơ bản để giữ an toàn cho bản thân. "Thông điệp đó sẽ dẫn đến những hành vi bình thường hơn, virus lây lan nhiều hơn, ca nhiễm nhiều hơn và khiến nhiều ca tử vong hơn", tiến sĩ Schaffner nó


Trump thường bị xem là phớt lờ các khuyến nghị của chuyên gia y tế công cộng và chế nhạo người đeo khẩu trang. "Tôi không đeo khẩu trang như ông ấy", Trump nói về ứng viên tổng thống đảng Dân chủ Jose Biden tại cuộc tranh luận tuần trước. "Mỗi khi bạn nhìn thấy ông ấy, ông ấy đều đeo khẩu trang. Ông ấy có thể đang nói cách họ tới 60 mét nhưng vẫn đeo chiếc khẩu trang lớn nhất tôi từng thấy


Trump hôm 4/10 rời Trung tâm Quân y Quốc gia Walter Reed để đi ô tô vẫy tay chào người ủng hộ tập trung bên ngoài. Các chuyên gia về bệnh truyền nhiễm cho rằng trong không gian khép kín này, các nhân viên Mật vụ trong xe có nguy cơ nhiễm viru


Bài đăng Twitter của Trump cũng có thể khiến một số người tin rằng Covid-19 đang trên đà suy giảm, trong khi thực tế dịch bệnh phần lớn vẫn chưa được kiểm soát ở Mỹ và ca nhiễm đang tăng lên, theo các chuyên gia. Trong tuần qua, trung bình Mỹ ghi nhận 43.586 ca nhiễm mới mỗi ngày, tăng 6% so với hai tuần trước đó, trong khi ca tử vong là 72


Giới chuyên gia chỉ ra rằng Covid-19 đã "chi phối" cuộc sống của hàng triệu người Mỹ, đặc biệt là những người da màu và người Latinh. Tỷ lệ tử vong do Covid-19 ở người Mỹ da màu cao gấp đôi người Mỹ da trắn


"Khi bạn trò chuyện với các gia đình trong những cộng đồng đó, tôi chắc chắn sẽ có khác biệt quan điểm về việc liệu vấn đề này có được cho là quan trọng hay không", tiến sĩ Leon McDougle, chủ tịch Hiệp hội Y khoa Quốc gia nhận địn


Giới chuyên gia nhận ra mong muốn phục hồi kinh tế của Tổng thống, họ cũng cảnh báo rằng cho đến khi đất nước kiểm soát được virus, người dân sẽ tiếp tục bị nhiễm và nỗ lực mở cửa lại trường học, doanh nghiệp cũng sẽ bị cản tr


"Chúng tôi hiểu các vấn đề kinh tế, hiểu hậu quả của việc đóng cửa, nhưng phải có một phản ứng phối hợp để nó không phải chi phối cuộc sống của chúng ta", Rajesh Gandhi, bác sĩ bệnh truyền nhiễm tại Trường Y Harvard và Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, cho biế


Sau 4 ngày điều trị tại trung tâm quân y, Trump cho biết ông cảm thấy khỏe hơn "so với 20 năm trước". Thực tế, Tổng thống Mỹ được tiếp cận một loạt phương pháp điều trị mà ít người có, gồm loại kháng thể đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng và chưa được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm cấp phé


Không như người dân thường ở Mỹ, trong đó nhiều người không được xét nghiệm Covid-19 hoặc không được chăm sóc tại bệnh viện do tình trạng quá tải, Tổng thống có đội ngũ chuyên gia đầy đủ, tận tụy tại Walter Reed. Tại Nhà Trắng, ông cũng có một đơn vị y tế túc trực 24/


Đối với những bệnh nhân không may mắn, thông điệp của Tổng thống bị cho là "đáng buồn". Jennifer English, người vẫn phải vật lộn với những ảnh hưởng lâu dài của Covid-19 sau khi bị nhiễm hồi tháng 4, cùng nhiều người Mỹ khác đã không thể nhận được sự chăm sóc y tế khi họ cầ


"Thông điệp của ông ấy khiến tôi phát cáu. Tổng thống có thể tự kiểm tra và có một đội gồm 14 bác sĩ. Hầu hết chúng tôi không thể tìm thấy một bác sĩ để lắng nghe", English, 46 tuổi, người mẹ ba con và là quản lý nhà hàng ở thành phố Oregon, bang Oregon, cho hay. Cô gọi thông điệp của Tổng thống là "liều lĩnh


English vẫn trong tình trạng mệt mỏi, buồn nôn, nôn, thị lực kém và đờ đẫn. "Cứ nghĩ rằng việc Tổng thống nhiễm virus sẽ khiến ông ấy có chút đồng cảm và kiến thức, nhưng rõ ràng là không", English nói. "Ông ấy vẫn hạ thấp nó và nói đừng để dịch bệnh chi phối cuộc sống của bạn. Thực tế nó đang chi phối cuộc sống của tôi, chi phối đến từng phút".😎"

Nguồn Exprees


NGĂN CHẶN ÂM MƯU PHI CHÍNH TRỊ HÓA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG

 

Càng đến gần thời điểm tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại càng gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá, thực hiện âm mưu "Diễn biến hòa bình" trên nhiều lĩnh vực. Một trong những thủ đoạn tuy không mới nhưng rất thâm độc, đó là chiêu bài đòi "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang". Bằng nhiều hình thức ngày càng tinh vi, dã tâm của chúng là nhằm phủ định vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang không còn là công cụ bạo lực sắc bén, không còn là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước ta.

           Nhưng có một sự thật không thể phủ nhận, lại càng không thể bóp méo, đó là: Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam ra đời, chiến đấu, xây dựng và trưởng thành từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ðảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của các lực lượng vũ trang. Những chiến công, truyền thống anh hùng rất vẻ vang trong gần 80 năm qua là minh chứng rõ nét nhất, thuyết phục nhất cho điều tất yếu khách quan này.

KÊU GỌI "BỎ ĐẢNG" SAU PHÁN QUYẾT VỤ ĐỒNG TÂM - CHIÊU TRÒ LỐ BỊCH VÀ LẠC LÕNG CỦA NHỮNG KẺ VONG ÂN!

 Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án xảy ra tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội, một số đối tượng phản động, cơ hội chính trị - trong đó có NGUYỄN QUANG A - đã lên mạng xã hội kêu gọi đảng viên "bỏ Đảng" nhằm phản đối phán quyết của Tòa án...

           Điều đó càng bộc lộ rõ ở các đối tượng mưu đồ "chính trị hóa" vụ án giết người, chống người thi hành công vụ xảy ra tại xã Đồng Tâm. Đương nhiên, lời kêu gọi lạc lõng kiểu này càng làm cho mọi người nhận rõ âm mưu phản động của các phần tử chống phá, muốn lợi dụng vụ việc để gây mất ổn định chính trị đất nước.

           Cần phải nhắc lại rằng, trong lúc thế hệ đồng trang lứa với Nguyễn Quang A hăng hái nhập ngũ, tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc, rất nhiều người bỏ lại xương máu trên chiến trường thì Nguyễn Quang A với tiêu chuẩn con liệt sĩ, được Nhà nước cho ra nước ngoài học tập, có bằng Tiến sĩ, làm việc tại châu Âu một thời gian. Về nước, chưa có đóng góp gì đáng kể cho Tổ quốc thì Nguyễn Quang A bắt đầu có những việc làm chống phá nơi "chôn rau cắt rốn" của mình.

           Khi Viện Nghiên cứu độc lập do Nguyễn Quang A làm Viện trưởng tự giải thể, Y bắt đầu chiêu bài "đấu tranh cho dân chủ", núp dưới danh nghĩa "diễn đàn xã hội dân sự" để đưa ra những quan điểm xuyên tạc, chống phá đất nước, từ vấn đề Biển Đông, quan hệ đối ngoại, nhân sự cán bộ, đến việc can thiệp vào việc xét xử độc lập của Tòa án...

           Thời gian gần đây, trước, trong và sau khi TAND TP Hà Nội đưa vụ án Đồng Tâm ra xét xử, Nguyễn Quang A sử dụng facebook cá nhân liên tục có những tin, bài hoặc chia sẻ những nội dung không chính xác, gây hoài nghi trong dư luận nhằm công kích, xuyên tạc bản chất vụ án này. Mục đích là kích động dư luận xã hội, gây sức ép với cơ quan tiến hành tố tụng, đổ trách nhiệm cho cơ quan chức năng trong vụ vi phạm pháp luật tại xã Đồng Tâm, cổ súy cho những âm mưu chống đối, phá hoại, gây mất an ninh trật tự xã hội...

           Khi TAND TP Hà Nội tuyên phạt các bị cáo với mức án mà dư luận đánh giá là thể hiện tính nhân văn, nhưng cũng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật thì Nguyễn Quang A cùng một số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị bắt đầu rộ lên phản ứng bằng những lời lẽ thiếu văn hóa trên mạng xã hội. Thậm chí, như thể là "thủ lĩnh", ông ta hùng hồn đăng dòng trạng thái kêu gọi đảng viên… ra khỏi Đảng để phản đối phán quyết của Tòa án...!

           Thực ra, đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân không biết Nguyễn Quang A là ai. Nếu có, chỉ là một bộ phận nhỏ các đối tượng bất mãn, các thành phần tự xưng là "dân chủ", "anh hùng bàn phím". Vì vậy, cái gọi là "lời kêu gọi" đó của Nguyễn Quang A chẳng khiến mấy ai bận tâm, chú ý.

           Nhìn lại cách đây ít năm, khi một cán bộ có chức vị, được phong hàm giáo sư vi phạm kỷ luật Đảng, bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương đề nghị thi hành kỷ luật và tự xin ra khỏi Đảng, dẫn tới một số đảng viên thoái hóa, biến chất hùa theo, công khai tuyên bố trên mạng xã hội việc xin ra khỏi Đảng nhằm bênh vực những sai phạm của vị giáo sư nọ. Đồng thời, muốn qua mạng xã hội để "châm ngòi", tạo thành một làn sóng… bỏ Đảng... Dĩ nhiên, những cá nhân lẻ tẻ đó không đủ uy tín và sức thuyết phục để có thể làm thay đổi nguyện vọng vào Đảng của các quần chúng ưu tú nên mục đích phô trương kiểu này đã "chết yểu" trong sự bẽ bàng của nhóm "dân chủ" giả hiệu này.

           Lần này, "bài cũ" lại được Nguyễn Quang A và một số phần tử chống Đảng đưa ra, với sự ảo tưởng rằng sẽ có những đảng viên nghe theo! Nhưng họ đã nhầm, bởi không ai có thể dung túng cho những hành vi vi phạm pháp luật một cách ngang ngược, trắng trợn và tàn ác của những kẻ đã gây ra cái chết của 3 cán bộ, chiến sĩ Công an. Ngược lại là thái độ căm phẫn, đòi hỏi phải xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật để răn đe những đối tượng coi thường kỷ cương phép nước.

           Lịch sử đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã lần lượt đạt được các kỳ tích: Đưa đất nước thoát khỏi cảnh nô lệ; giành độc lập từ các thế lực ngoại xâm và hiện đang lãnh đạo đất nước đạt được những thành tựu về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng khiến bạn bè quốc tế phải nể phục. Uy tín và vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày một được củng cố và nâng cao.

Nhiều nước tư bản lớn trước đây thù địch với Việt Nam cũng đã thừa nhận vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam để có những ứng xử phù hợp trong đối ngoại. Một cá nhân hay một nhóm người núp dưới chiêu bài "đấu tranh cho dân chủ" không thể làm suy yếu được sức mạnh của Đảng.

           Đương nhiên, trong "5 ngón tay có ngón dài ngón ngắn", nội bộ Đảng cũng có một số đảng viên thoái hóa biến chất, cơ hội chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hóa. Nhưng với công cuộc chống tham nhũng, chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch nội bộ Đảng, những phần tử đó đã, đang và chắc chắn sẽ tiếp tục bị thanh loại ra khỏi "guồng máy" của Đảng.