Thứ Hai, 22 tháng 8, 2022

VIỆT NAM NÊN THEO PHE HOA KỲ HAY TRUNG QUỐC?

     Nhiều người hay đặt câu hỏi rằng: Việt Nam nên hướng theo Mỹ hay Trung Quốc khi mà Trung Quốc luôn có ý đồ thôn tính biển Đông, thôn tính biển, đảo của chúng ta; còn người Mỹ thì chưa bao giờ từ bỏ dã tâm xóa bỏ chủ nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có Việt Nam? Có thể nói, đây là vấn đề mang tính chiến lược, khả năng của một facebooker sẽ không đủ tầm để bình. Lão chăn bò chỉ tản mạn đôi lời theo suy nghĩ của mình thế này: 

1. ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC:
Người Trung Quốc luôn mang trong mình tư tưởng “đại Hán”, điều này thể hiện rõ ngay trong cái tên gọi của mình. Trung Hoa có nghĩa là trung tâm của tinh hoa nhân loại; Trung Quốc là quốc gia trung tâm của vũ trụ; ý nói Trung Quốc là trung tâm thế giới và có sức mạnh văn hóa và quân sự hơn hẳn các nước chung quanh. Người Trung Quốc luôn có tư tưởng “viễn giao cận công”, nghĩa là các nước ở xa thì giao hiếu, các nước ở gần thì tấn công. Đây là chủ thuyết do có từ thời Chiến Quốc (thất hùng) bên tàu. Lý luận của họ là các nước ở xa nếu đánh thắng thì nhất thời không thể sát nhập hay lấy được của họ một thước núi, tấc đất nào, vậy nên họ chủ trương hòa hiếu. Các nước ở gần thì lại khác, một khi có chúng biên giới thì “cận công” sẽ mang lại cho họ nhiều thứ, họ có thể lấy đất, lấy biển của nước khác để sáp nhập và biến thành của riêng mình. 

Hiện nay, Trung Quốc đang dùng liên hoàn kế hòng độc chiếm biển Đông, lợi dụng dịch covid 19, tàu giao hiếu với các nước xa, lấy lòng họ bằng cách cung cấp khẩu trang và vật tư thiết bị y tế. Lẽ thường thì các nước đang trong cơn dịch hoành hành sẽ chẳng cảm ơn mà ngó lơ biển Đông, đấy là “viễn giao”. Song song với đó họ “cận công”, mà việc dùng tàu Hải cảnh đâm tàu cá của ta tại Hoàng Sa hay việc cho tàu thuyền quấy nhiễu khu vực Scarborauh của Phillipines, áp sát vùng biển của Indonesia; rồi tập trận tại biển Đông là minh chứng rõ rệt cho mưu đồ cận công của họ. Lợi dụng tinh hình dịch bệnh trên thế giới để xâm phạm chủ quyền của các nước trên biển Đông là hành động xấu xa, đê hèn của quốc gia thứ hai thế giới.

Nói đi cũng phải nói lại rằng: tạo hóa đã bắt chúng ta phải chung sống với người láng giềng khổng lồ ở phương Bắc; đến tỷ năm sau thì ta và họ vẫn là hàng xóm của nhau. Chúng ta ủng hộ Đảng và Nhà nước đấu tranh ngoại giao, bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Không loại trừ khả năng là quốc tế hóa vấn đề biển Đông nếu Trung Quốc manh động, tiếp tục xâm phạm chủ quyền của chúng ta. Chủ quyền quốc gia là tối thượng, không có gì có thể đánh đổi được; tuy nhiên, chúng ta muốn môi trường hòa bình để phát triển kinh tế - xã hội, nhân dân được no ấm. Chiến tranh xảy ra thì hậu quả thật to lớn, không chỉ ta mà cả tàu đều phải gánh chịu. 

Nói thế để thấy rõ cái khó của Việt Nam trong vấn đề đấu tranh để bảo vệ chủ quyền của mình, nhưng rõ ràng là trong thế giới ngày nay, Trung Quốc không thể cứ muốn “mang binh đoạt thành” là có thể ngay lập tức làm được. Các khu tự trị của họ, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật, Ấn Độ, Phillipines, Indonesia và cả Hoa Kỳ chẳng ai muốn họ độc chiếm biển Đông; một khi chiến tranh xảy ra thì rõ ràng Trung Quốc phải “vạn bề thọ địch”. Người tàu vốn cao mưu, chắc chắn họ cũng sẽ cân nhắc vận mệnh của nước họ. Với lại, họ thừa hiểu trình độ đánh hiệp đồng các quân binh chủng của người Việt Nam là như thế nào rồi. Kiện Trung Quốc hay biểu tình phản đối họ chỉ là lý luận của những kẻ thất phu, bất trí vì chắc chắn ta có thắng thì họ cũng chẳng trả lại Hoàng Sa. Ngoại trừ chuyện biển Đông thì về cơ bản ta và họ đang hợp tác tốt trên rất nhiều lĩnh vực. Vậy nên chẳng có cớ gì để bài Trung.

2. ĐỐI VỚI HOA KỲ:
Mỹ và Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ kể từ năm 1995, từ đó đến nay ta và họ về cơ bản có quan hợp tác tốt, kim ngạch hai chiều về kinh tế phát triển ổn định, giao thương, trao đổi, chia sẻ với nhau nhiều kinh nghiệm. Quan hệ hợp tác Mỹ - Việt chưa bao giờ tốt đẹp như ngày nay…Tuy nhiên, có thể khẳng định rõ: Người Mỹ chưa bao giờ từ bỏ mưu đồ xóa bỏ CNXH trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài Phát biểu nhậm chức của Obama và cả diễn văn của đương kim Tổng thống Trump cũng đã cho thấy rõ dã tâm đó. Mỹ thua Việt Nam và họ đã vạch ra kế hoạch thời hậu chiến, dùng sức mạnh mềm hòng xóa bỏ chế độ ta. 

Hãy lắng nghe cựu Tổng thống Mỹ R.Reagan đã từng tuyên bố: “Đầu tư cho học sinh - sinh viên các nước Xã hội chủ nghĩa du học ở Mỹ là một khoản đầu tư lâu dài, hãy gây ảnh hưởng tư tưởng với họ, hun đúc họ trong lối sống và giá trị quan niệm văn minh Mỹ, chờ họ từng bước trở thành rường cột của xã hội họ, rồi thông qua cái đầu của họ biến đất nước đó chuyển mình theo nền văn minh tư bản của ta”.

Đây là một trong những sách lược quan trọng trong công cuộc diễn biến hòa bình của Mỹ, cuộc chiến không tiếng súng nhưng nguy hiểm bội phần, góp phần lớn trong việc sụp đổ Liên Xô và khối các nước XHCN Đông Âu. Và kể từ đó, hầu hết các đời Tổng thống Mỹ đều làm rất tốt việc này, tích cực tuyển chọn, nuôi dạy và thả những mầm loạn “tự do dân chủ” đi khắp nơi trên thế giới. Một mặt Mỹ nuôi dưỡng đám tàn dư ngụy quân, ngụy quyền để chống phá đất nước ta từ hơm 47 năm qua. Nói thật, nếu không có bàn tay của CIA thì còn lâu đám vong quốc nô đó mới có tiền để sống… 

NGOẠI GIAO CÂY TRE: 

Việt Nam là đất nước có nền văn hiến lâu đời, với hơn 4000 năm lịch sử. Cây tre Việt Nam gắn liền với đời sống của nhân dân từ lúc nào, chắc hẳn không ai có thể lý giải, "tre xanh xanh tự bao giờ/chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh" nhưng cây tre gắn bó với đất nước từ ngàn xưa như trong câu chuyện Thánh Giống dùng trẻ mà đánh giặc. Cây tre dáng thẳng, tượng trưng cho quân tử, cương trực, thẳng thắn. Cây tre Việt Nam vững vàng dù bão táp mưa sa, sống thành lũy, cụm cũng như tinh thần đoàn kết, gắn bó của con người Việt Nam. 

Cây tre vừa cứng cáp lại mềm dẻo, uyển chuyển giữa gió dập mưa dồn nhưng sau tất cả, cây tre vẫn đứng thẳng, ngẩng cao đầu. Ngoại giao cây tre mềm dẻo, uyển chuyển là "ứng vạn biến". Nghĩa là, tùy vào thực tiễn, thời thế để có đối sách phù hợp. Sau bão táp cây tre lại đứng thẳng, ngẩng cao đầu là "dĩ bất biến". Nghĩa là, tùy thực tế để có đối sách phù hợp, bảo đảm môi trường hoà bình để phát triển đât nước nhưng giữ vững hoà bình, độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ. Lợi ích của quốc gia, dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là bất biến, là không thể đánh đổi! Chúng ta sẵn sàng làm bạn với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, kể cả đó là cựu thù, miễn là bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi. Việt Nam hợp tác, có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia, vùng lãnh thổ. 

Tóm lại, Việt Nam ta độc lập, tự chủ, không lệ thuộc nước nào. Ta chơi với cả Mỹ và tàu trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, vì lợi ích của quốc gia dân tộc. Vừa hợp tác nhưng lại vừa đấu tranh để bảo đảm chủ quyền và phẩm giá của người Việt Nam. Ưu tiên các giải pháp hòa bình trong giải quyết các bất đồng, khác biệt. Học theo Bác Hồ là "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Tất nhiên, khi không còn sự lựa chọn nào khác thì chắc chắc người Việt Nam chẳng sợ bất cứ kẻ thù nào./.


Yêu nước ST.

CÁCH MẠNG THÁNG 8 - THẮNG LỢI CỦA KHÁT VỌNG ĐỘC LẬP, HÒA BÌNH VÀ PHÁT TRIỂN!

         Độc lập, hòa bình và phát triển là khát vọng của dân tộc Việt Nam, được đánh dấu bằng thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là mốc son chói lọi của dân tộc, mang tầm vóc quốc tế và ý nghĩa thời đại sâu sắc. Phát huy tinh thần đó, 77 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, từng bước đổi mới để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.

🇻🇳Tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám
Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX theo lập trường phong kiến hay dân chủ tư sản, tiểu tư sản đều có mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, nhưng lại sai lầm trong xác định đường lối, con đường phát triển và phương pháp đấu tranh nên lần lượt bị thất bại. Chỉ có xu hướng yêu nước theo lập trường của giai cấp vô sản, gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội được khẳng định cả về phương diện khoa học và thực tiễn, được phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chấp nhận và thực hiện. Sự phát triển theo quỹ đạo cách mạng vô sản đã đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, nhân dân đã giành lại và củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, là cơ sở để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện khát vọng của dân tộc, trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc khảo nghiệm thực tiễn tại nhiều nước tư bản chủ nghĩa, nhưng Người không lựa chọn con đường cách mạng tư sản, vì cho rằng: con đường đó không mang lại quyền lợi thực sự cho quần chúng lao động và không mở đường cho độc lập của các dân tộc thuộc địa. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm thấy ở lý luận cách mạng đó con đường cứu nước đúng đắn: gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, tức là phải đi tới chủ nghĩa xã hội. Sự gặp gỡ giữa Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Mác - Lênin là sự gặp gỡ tất yếu giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của thời đại. Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, gieo hạt giống chủ nghĩa xã hội vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Trên cơ sở mục tiêu được xác định trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, qua thực tiễn các cao trào cách mạng (1930 - 1931), (1936 - 1939) và những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng bổ sung, phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Đặc biệt, khi thời cơ đến, Hội nghị Trung ương 6 (11/1939) của Đảng xác định: “tất cả mọi vấn đề của cách mệnh, kể cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào các mục đích ấy mà giải quyết”1. Đến Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), Đảng ta nhấn mạnh: “nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương,... cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”2.
Để thực hiện đường lối đúng đắn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, phát động khởi nghĩa từng phần, đồng thời chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, quân đội Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động đến cực độ, chính quyền tay sai suy yếu là lúc thời cơ thuận lợi nhất xuất hiện. Chớp thời cơ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”3.

Thực hiện lời kêu gọi của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên tạo thành cơn bão táp cách mạng lật đổ ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật, giành lại quyền độc lập cho dân tộc. Đây là đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh đoàn kết toàn dân, thể hiện tầm cao trí tuệ dân tộc và sức mạnh của thời đại, mở ra trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất và là một trong những bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Với Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”4, đánh dấu sự khởi đầu thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; từ thân phận nô lệ, nhân dân ta trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ý nghĩa đó đã khẳng định tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, không chỉ với dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Đúng như Đảng ta khẳng định, đó còn là sự kiện: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”5.

🇻🇳Khát vọng độc lập, hòa bình và phát triển trong Cách mạng Tháng Tám - động lực tinh thần của 30 năm trường chinh chống các thế lực ngoại xâm và công cuộc đổi mới hiện nay!
Thành quả vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trở thành động lực và sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để tiến hành cuộc trường chinh 30 năm chống các thế lực ngoại xâm hung bạo của thế giới, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (năm 1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”6. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và niềm tin sắt đá “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”7, dân tộc Việt Nam một lần nữa đứng lên đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Trải qua hơn 20 năm chiến đấu anh dũng, với đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta; với một phương pháp cách mạng đúng đắn; với phương châm toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, “mỗi người dân là một dũng sĩ diệt Mỹ”; với sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ trên thế giới,... quân và dân ta đã đánh bại các chiến lược, biện pháp chiến tranh của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX”8.

Bước vào thời kỳ đổi mới, phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám, dưới ngọn cờ của đường lối đổi mới mà Đại hội VI đã xác định, của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và tiếp đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân và toàn quân, vượt lên những khó khăn, thử thách, đất nước ta đã giành được những thành tựu rất đáng tự hào. Nổi bật là, kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định; lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt được những thành tựu quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi: chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố; thế và lực của đất nước được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, như Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”9.

Nhằm phát huy những giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thành quả sau 77 năm xây dựng và phát triển đất nước, khắc phục những hạn chế trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, xây dựng nước ta phát triển toàn diện, bền vững, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”10. Để thực hiện quan điểm này, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam. Bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững với ý chí, khát vọng độc lập, hòa bình và phát triển theo tinh thần Cách mạng Tháng Tám.

Lịch sử tuy đã lùi xa nhưng những giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành quả của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc với khát vọng độc lập, hòa bình và phát triển vẫn mãi là động lực to lớn để dân tộc ta vững bước trên con đường xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Môi trường ST.

VỊ THUYỀN TRƯỞNG ANH HÙNG TRONG TRẬN GẠC MA 1988 VỪA QUA ĐỜI !


Chiều 19-8, trao đổi với Báo Người Lao Động, lãnh đạo phường Đằng Hải (quận Hải An, TP Hải Phòng) cho biết theo thông tin từ phía gia đình, ông Vũ Huy Lễ đã qua đời tại nhà riêng vào lúc 9 giờ 50 phút sáng ngày 19-8. Hiện gia đình và chính quyền địa phương đang chuẩn bị lo hậu sự cho ông Lễ. Dự kiến, lễ nhập quan cho vị cựu thuyền trưởng tàu HQ-505 sẽ diễn ra lúc 9 giờ ngày 20-8.
Sinh năm 1946, khi ông Vũ Huy Lễ 22 tuổi, đang học ở Hải Phòng thì sự kiện Vịnh Bắc Bộ diễn ra, ông xung phong đi bộ đội. Ông được phân công gia nhập đội tàu không số (nay là Lữ đoàn 125) với nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào miền Nam chiến đấu chống Mỹ.
Năm 1982, ông được cử đi đào tạo ở Leningrat (Liên Xô cũ). Học xong, về nước, ông nhận nhiệm vụ làm thuyền trưởng tàu HQ-505. Đó là con tàu lớn, dài cả trăm mét, nhưng là tàu vận tải quân sự. Vũ khí trang bị trên tàu chỉ có pháo cỡ nhỏ, tầm bắn hạn chế.
Đầu năm 1988, Trung Quốc chiếm đóng trái phép một số đảo ngoài Trường Sa như đảo Châu Viên, đảo Đá Nhỏ… Lúc đó, HQ-505 mới vận chuyển hàng hóa từ cảng Hải Phòng vào Cam Ranh. Ông Lễ huy động anh em chuẩn bị nhổ neo ra Bắc ăn Tết thì nhận nhiệm vụ phải đưa tàu ra chốt trực, giữ đảo ngoài Trường Sa.
Đóng ở đảo Đá Lớn được một tháng, đến trưa 13-3-1988, ông Vũ Huy Lễ (lúc đó mang hàm thiếu tá) nhận mật lệnh tiến ra Cô Lin để giữ đảo.
9 giờ ngày 13-3, tàu HQ 604 do đại úy Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng và tàu HQ 505 do thiếu tá Vũ Huy Lễ làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin.
Đến 6 giờ 30 phút sáng 14-3-1988, sau khi tàu HQ 604 bị bắn chìm, 3 tàu chiến Trung Quốc liên tục nã pháo vào HQ 505. Tàu bị trúng đạn vào buồng máy bên phải, hỏng máy trôi ra xa đảo Cô Lin gần 1 hải lý. Tất cả các khoang máy đều bốc cháy dữ dội, điện tắt tối om, nước tràn, dầu lênh láng. Tàu có xu hướng nghiêng, khả năng chìm trên vùng biển sâu 1.000 m.
Trong thời khắc sinh tử, ông Lễ nhận định nếu tàu HQ 505 chìm, cán bộ chiến sĩ hi sinh, tàu mất, đảo không giữ được. Vì thế, ông quyết định bằng mọi giá phải giữ được tàu.
Chỉ trong vòng 3-4 phút, ông yêu cầu anh em kỹ thuật tập trung sửa máy tàu. Khi sửa xong, ông lệnh chạy cả 2 máy để mũi tàu hướng về đảo Cô Lin.
Khi gần đến Cô Lin, ông hạ lệnh mở hết tốc lực, cho tàu HQ 505 phi thẳng lên đảo. Lúc này tàu HQ 505 nằm gác 1/3 thân trên đảo và trở thành pháo đài kiên cố giữ đảo. Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ lập tức lên kế hoạch, nếu quân Trung Quốc đánh tàu, chiếm đảo, bộ đội sẽ dùng súng bộ binh để chiến đấu.
Sau khi đưa 5 chiến sĩ trên tàu bị thương lên đảo Cô Lin để cấp cứu, thuyền trưởng Lễ cùng nhiều đồng đội khác đưa xuồng cứu sinh quay lại đảo Gạc Ma để cứu vớt đồng đội.
Bị lính Trung Quốc dùng súng AK bắn trước mũi xuồng ngăn cản nhưng thuyền trưởng Vũ Huy Lễ vẫn anh dũng cùng anh em cứu trợ đồng đội. Suốt buổi sáng hôm ấy, họ vớt được 44 thương binh và tử sĩ rồi đưa về đảo Sinh Tồn để cứu chữa, mai táng.
Đến tối 14-3-1988, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ cùng 9 người nữa ở lại tàu, giữ đảo và luôn trong trạng thái chiến đấu.
Không chỉ thiếu thốn thực phẩm, tiếp tế khó khăn, các chiến sĩ giữ đảo Cô Lin luôn phải đối diện với căng thẳng về tinh thần. Ngày nào quân Trung Quốc cũng quấy nhiễu, cho tàu chiến đến đe dọa, kêu gọi đầu hàng.
Dù có thể rút về đảo Sinh Tồn nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe nhưng thuyền trưởng Lễ và đồng đội đã bám trụ lại đảo Cô Lin đến tháng 6-1988. Khi các hành động khiêu khích của hải quân Trung Quốc đã giảm và chủ quyền trên đảo Cô Lin được giữ vững.
Quyết định dùng chính con tàu dài gần 100 m, rộng 38 m làm pháo đài giữ đảo Cô Lin sau này được đánh giá là quyết định trọng đại, táo bạo và chính xác của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ. Năm 1989, Tập thể tàu HQ 505 và thuyền trưởng Vũ Huy Lễ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân. Nhiều chiến sĩ khác được thưởng huân chương chiến công các hạng.
(Theo NLĐ)
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và văn bản cho biết 'TIN BUỒN: ĐẠI TÁ VŨ HUY LỄ NGƯỜI CHỈ HUY TÀU HQ-505 THAM GIA TRẬN CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ TRƯỜNG SA NĂM 1988 VỪA QUA ĐỜI HG-505 THEANH 28'

TUYÊN TRUYỀN MIỆNG - VŨ KHÍ SẮC BÉN TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH



Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Phải dạy lý luận, công tác, chuyên môn cho cán bộ, đảng viên. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại. Chúng ta phải đánh thắng địch về mặt tuyên truyền cũng như bộ đội ta đánh thắng địch về mặt quân sự (Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên truyền được tiến hành bằng lời nói trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe; là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất của công tác tư tưởng. Tuyên truyền miệng có vai trò truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại; giáo dục, phổ biến, quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước; thông báo kịp thời và có định hướng các vấn đề thời sự quan trọng trong nước và quốc tế, các vấn đề nóng bỏng mà dư luận quan tâm; nắm bắt được nhận thức và thái độ của nhân dân đối với chủ trương, đường lối, chính sách, nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích…. của quần chúng; góp phần to lớn vào việc xây dựng nền văn hoá, xây dựng và phát huy nhân tố con người, nâng cao bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; định hướng thông tin, tuyên truyền, vận động, góp phần định hướng suy nghĩ và hành động của mọi người theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giải thích cho nhân dân hiểu rõ đâu là thông tin chính thức, chính thống nhất là trong giai đoạn bùng nổ thông tin như hiện nay; là vũ khí sắc bén trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, nhất là sau 15 năm thực hiện Chi thị 17-CT/TW, ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư (khóa X) về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới, công tác tuyên truyền miệng trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, từng bước phát triển, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác tư tưởng trong từng thời kỳ, góp phần tăng cường sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, tạo sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Công tác tuyên truyền miệng đã đi vào nền nếp, bám sát cơ sở, có cố gắng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động thực sự là một trong những kênh quan trọng, có hiệu quả cao của công tác tư tưởng. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên được phát triển cả về số lượng và chất lượng có nhiều hoạt động phong phú, tích cực, làm tốt vai trò là lực lượng nòng cốt, chủ lực thực hiện công tác tuyên truyền miệng của Đảng, hiện nay toàn tỉnh có 235 báo cáo viên (trong đó báo cáo viên cấp trung ương 5 đồng chí; cấp tỉnh 31 đồng chí; cấp huyện và tương đương 199 đồng chí); 726 tuyên truyền viên cơ sở.
Yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng đối với công tác tuyên truyền miệng
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong hơn 37 năm qua, chúng ta cũng đang và sẽ phải đương đầu, phải giải quyết những khó khăn, thách thức mới do tác động của mặt trái kinh tế thị trường và quá trình hội nhập, nhất là những tác động về mặt xã hội, tư tưởng, tâm lý. Những khó khăn do đại dịch Covid-19, cuộc chiến Nga – Ukraina. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, nhất là công nghệ thông tin và xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc, tạo ra nhiều cơ hội và cả những thách thức gay gắt đối với quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Các thế lực cơ hội, phản động, thù địch tăng cường chống phá ta trên nhiều mặt, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” ngày càng thâm độc, nham hiểm hơn. Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái thù địch tiếp tục diễn ra dai dẳng, quyết liệt. Bên cạnh đó công tác tuyên truyền miệng trên địa bàn tỉnh thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục: Một số cấp uỷ và ban tuyên giáo các cấp chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng; chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền miệng và việc xây dựng lực lượng, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của đội ngũ báo cáo viên; tính thuyết phục, tính hấp dẫn chưa cao, gần đây có biểu hiện né tránh những vấn đề bức xúc mà dư luận quan tâm; phương thức hoạt động còn nặng về tuyên truyền một chiều từ trên xuống, ít chú trọng trao đổi, đối thoại trực tiếp với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tình hình trên cho thấy, đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề mới, đòi hỏi những người làm công tác tư tưởng nói chung và tuyên truyền miệng nói riêng phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tích cực tham gia giải quyết.
Một số nhiệm vụ chủ yếu để triển khai thực hiện tốt công tác tuyên truyền miệng làm tốt vai trò là vũ khí sắc bén trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Tiếp tục quán triệt ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Xác định công tác tuyên truyền miệng là công tác của Đảng, vì vậy tất cả các đảng viên hoạt động trên mọi lĩnh vực, cấp uỷ viên các cấp từ tỉnh đến cơ sở đều phải xác định trách nhiệm làm nhiệm vụ của tuyên truyền viên của Đảng. Đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động tuyên truyền miệng và báo cáo viên, tuyên truyền viên, vừa đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu và trình độ mới của quần chúng, vừa nâng cao tính định hướng và sự thuyết phục của hoạt động tuyên truyền miệng. Chú trọng gắn truyền đạt với đối thoại, trao đổi, truyền tải trực tiếp những thông tin nội bộ cần thiết phục vụ công tác tư tưởng đối với tất cả các đối tượng ở mọi hoàn cảnh, điều kiện một cách linh hoạt. Đặc biệt đổi mới nội dung tuyên truyền, tăng cường thông tin tích cực, nâng cao nhận thức tạo sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục tư tưởng chính trị, nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; phản ánh rõ nét thành tựu công cuộc đổi mới và hiện thực cuộc sống đang thay đổi tích cực từng ngày của Nhân dân. Tăng cường tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên và nhân dân về truyền thống văn hóa, thành quả cách mạng của đất nước của địa phương; hình ảnh tiêu biểu của quê hương, đất nước gương điển hình về người tốt, việc tốt …về âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Công tác tuyên truyền miệng cần chủ động, kịp thời tham gia định hướng thông tin liên quan đến các sự kiện chính trị, vụ việc phức tạp, nhạy cảm, tạo sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch. Bên cạnh đó đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là một chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tích cực tham gia đăng tải, chia sẻ, lan tỏa thông tin tích cực, viết tin, bài đấu tranh phản bác thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 20/8


“Phải quyết chiến quyết thắng, những chớ chủ quan khinh địch…”.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Việc đình chiến ở Triều Tiên” đăng trên Báo Nhân dân, số 130, từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 8 năm 1953; bút danh C.B.
Chiến tranh Triều Tiên kéo dài từ giữa năm 1950 đến giữa năm 1953, chiến cuộc tạm ngưng khi hai miền đạt được một thỏa hiệp ngừng bắn vào ngày 27 tháng 7 năm 1953. Song, thương vong lớn tất cả các bên tham chiến; trong đó có quân đội Mỹ. Việc đình chiến ở Triều Tiên góp phần cổ vũ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trên thế giới; trong đó, tinh thần của quân và dân ta hăng hái lên cao, có lợi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang ở giai đoạn quyết liệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời nhắc nhở quân và dân ta luôn giữ vững tinh thần quyết chiến, quyết thắng, không được chủ quan khinh địch.
Thực hiện lời Bác dạy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, vượt mọi gian khổ, hiểm nguy, chiến đấu kiên cường dũng cảm với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được Đảng, Bác Hồ trực tiếp tổ chức, giáo dục và rèn luyện; kế thừa truyền thống tốt đẹp, hào hùng của dân tộc và tinh hoa của nhân loại về quân sự, chính trị, đặc biệt là tinh thần quyết chiến, quyết thắng - một nhân tố đặc trưng tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của quân đội ta. Ý chí quyết chiến, quyết thắng được thể hiện sâu sắc và triệt để trong các giai đoạn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta, đã tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cán bộ, chiến sĩ quân đội tiếp tục giữ vững và phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận thức rõ đối tượng, đối tác, phối hợp chặt chẽ các hoạt động quốc phòng với an ninh và đối ngoại nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và văn bản cho biết 'ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CHỦ TỊCH Há CHÍ MINH'
40
1 bình luận
14 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

TIẾNG NÓI LẠC LÕNG TỪ CÁI ĐẦU BỆNH HOẠN CỦA ĐẶNG HỮU NAM


Việt Tân vừa đăng trên Facebook: “Lời cảm ơn” linh mục Đặng Hữu Nam bởi những lời chống cộng điên cuồng: “Khi Cộng sản ghét ai, người đó được cả thế giới ca ngợi, tôn vinh! Khi Cộng sản thờ ai, người đó bị cả nhân loại nguyền rủa”.
Theo vị chủ chăn và đồng bọn Việt Tân thì: Cộng sản ghét chiến tranh, ghét chủ nghĩa phát xít, ghét bè lũ cướp nước và bán nước, ghét bọn xâm lược dày xéo đất nước, giết người cướp của, đàn áp nhân dân, ghét lũ giặc bóc lột tàn bạo khiến 25% dân số nước ta chết đói năm 1945, ghét những kẻ đem bom đạn dội xuống đất nước ta làm hơn 4 triệu người thương vong, ghét bọn mặt người dạ thú vô cớ bắn chết 504 người dân vô tội ở Hà My, Điện Bàn, Quảng Nam và giết nhiều người ở hàng ngàn nơi khác, ghét bọn ác ôn làm tay sai cho giặc tra tấn, đầu độc giết hại hàng vạn người yêu nước ở Phú Lợi, Vĩnh Trinh, Phú Quốc, Côn Đảo… Rồi Cộng sản chủ trương diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm là ghét những thứ đó; Cộng sản ghét bọn bán nước như Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc, Nguyễn Ánh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Hoàng Văn Hoan; bây giờ ghét bọn khủng bố luôn tìm cách phá hoại cuộc sống yên bình của Nhân dân nên kiên quyết chặn tay chúng, ghét tham ô tham nhũng nên bỏ tù rất nhiều kẻ tham nhũng; ghét ma túy, mại dâm, ghét dịch bệnh nên ra sức dẹp tệ nạn, phòng chống dịch bệnh, ghét thiên tai, tai nạn, hỏa hoạn nên ra sức bảo vệ môi trường, phòng chống rủi ro, thiên tai để giảm thiểu thiệt hại cho dân.v.v.. Không biết cả thế giới có ca ngợi, tôn vinh những kẻ từng có tội với dân với nước và những tai ương, tệ nạn Việt Nam đã phòng ngừa dẹp bỏ hay chỉ Đặng Hữu Nam và Việt Tân đang tôn vinh những thứ đó? Như vậy là Đặng Hữu Nam, Việt Tân đang tự đứng về phía cái ác, cái xấu độc làm hại con người bị toàn dân Việt Nam và cả thế giới phỉ nhổ, đề phòng, ngăn chặn, sao lại có sự tự thú ngu đến thế nhỉ?
Theo Việt Tân, Đặng Hữu Nam còn “chia sẻ”: “khi Cộng sản thờ ai, người đó bị cả nhân loại nguyền rủa”. Cộng sản thờ tổ tiên, cha ông đã để lại dòng giống con Lạc, cháu Hồng ngày nay, tôn thờ các Vua Hùng có công dựng nước để dân tộc Việt Nam ngày nay có một non sống gấm vóc như thế này; Cộng sản thờ những người yêu nước, có công với nước, các anh hùng dân tộc từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Hoàn, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Thánh Tông, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh… cùng các anh hùng liệt sỹ, nhờ các vị ấy mà dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa, đất nước không bị biến thành một quận, một bang của nước ngoài. Cộng sản còn thờ Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu… Các vị đó cùng Hồ Chí Minh đều được Liên Hiệp Quốc tôn vinh: “Danh nhân văn hóa thế giới”, riêng Hồ Chí Minh còn được vinh danh: “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cộng sản tôn vinh thì sao? Tướng pháp Decastries thú nhận: “Tôi hân hạnh được làm đối thủ của tướng Giáp, được làm kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài giỏi như tướng Giáp. Tôi ngưỡng mộ và kính phục ông”. Đại tướng Mỹ Wiliam Westmorelan đánh giá: “Tướng Giáp là người hội tụ được tất cả phẩm chất của một thống lĩnh quân sự vĩ đại gồm khả năng quyết đoán, sức mạnh tinh thần, tập trung và trí tuệ”. Tướng Anh Peter Macdonal viết: “Cuộc đời Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng khiến ông trở thành thống soái lớn của mọi thời đại”. Nhà sử học quân sự Mỹ Cecil B.Currey viết về Võ Nguyên Giáp: “Ông không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất thế kỷ XX”. Tướng Giáp được ghi danh như là một vĩ nhân quân sự hiển hách nhất trong Bách Khoa toàn thư của nhiều nước như Mỹ, Pháp, Anh… Thế giới ghi danh Võ Nguyên Giáp là một trong 21 vị tướng tài nhất của thế giới trong 2.500 năm qua. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình 30 năm, Tướng Giáp đã đọ sức và đánh thắng 10 Đại Tướng của đối phương (Pháp 4, Mỹ 6). Các tướng Mỹ khi nhắc đến ông thường gọi ông là “Đại tướng 5 sao”.
Sự thật không thấy “cả thế giới nguyền rủa” những danh nhân, anh hùng giải phóng dân tộc và những gì những người Cộng sản Việt Nam tôn thờ, ngược lại những danh nhân và những giá trị, tinh hoa đó được cả thế giới ngưỡng mộ, cảm phục; Kể cả những tướng lĩnh, nguyên thủ các nước từng là cựu thù của Việt Nam cũng phải ngợi ca, tôn vinh các vĩ nhân, tinh thần quả cảm và phẩm chất yêu nước của người Việt Nam.
Đặng Hữu Nam và Việt Tân chỉ là lũ khủng bố và loại nhãi nhép nằm đáy giếng, lấy tư cách gì mà nhân danh “cả nhân loại”? Chúng chỉ có thể đại diện cho chính chúng, những kẻ cặn bã không chỉ nhân dân ta mà cả loài người tiến bộ đều khinh ghét bởi dã tâm phản nước hại dân đã biến chúng thành kẻ lạc loài với cái đầu bệnh hoạn ngu xuẩn đến bất chấp mọi lẽ phải và sự thật.
ST
Có thể là tranh biếm họa về văn bản cho biết 'Bất chấp đúng, sai. Xuyên tac sự thật. BUF'