Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

Khát vọng, lý tưởng và phân kỳ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 Bài viết khẳng định ở nước ta, lý tưởng của Đảng gắn với khát vọng của nhân dân về chủ nghĩa xã hội được thể hiện qua cách thức phân kỳ có tính mở về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên hai phương diện kết nối với nhau là hiện đại hóa gắn với văn minh của nền sản xuất xã hội.

Khát vọng, lý tưởng và phân kỳ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bài viết làm rõ phân kỳ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với các tiêu chí cơ bản: Con người là chủ thể, là động lực trung tâm và phát triển toàn diện; bảo đảm và gắn kết các quyền dân sinh - dân chủ - dân tộc như kiềng ba chân; thể chế phát triển nhanh - bền vững gắn với bao trùm để đi lên chủ nghĩa xã hội.

Qua tổng kết lý luận gắn với thực tiễn đổi mới đã cho thấy, trong suốt quá trình cách mạng và ở từng giai đoạn phát triển đất nước theo định hướng XHCN đã từng bước định hướng, định hình được khát vọng của dân, lý tưởng của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng rõ, thiết thực hơn qua cách thức phân kỳ các chặng đường nhằm trả lời câu hỏi “CNXH là gì và đi lên CNXH như thế nào?”.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đây là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, có nội dung rộng lớn và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học(1).

1. Lý tưởng của Đảng gắn với khát vọng của dân về phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đi lên chủ nghĩa xã hội

 Trước đổi mới, lý tưởng của Đảng dẫn dắt khát vọng của dân về đấu tranh, giành độc lập, tự do và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Trong thời kỳ đổi mới, lý tưởng của Đảng gắn kết với khát vọng của dân về phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để bảo đảm nền độc lập, tự do, vững bước đi lên CNXH.

Tại Đại hội XIII (năm 2021), ngay trong chủ đề của Đại hội và trong các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm đều khẳng định: Khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(2). Việc gắn kết giữa ý Đảng lòng dân trước tiên và chủ yếu xuất phát và dựa vào khát vọng của dân. Dân và khát vọng của dân luôn ở vị trí trung tâm, đóng vai trò là chủ thể, là động lực cho lý tưởng của Đảng về con đường đi lên CNXH. Con đường này chính là quá trình kiến thiết một kiểu xã hội mới về chất mà điều kiện trước tiên, cơ bản là công cuộc đổi mới, phát triển theo định hướng XHCN ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay và điều kiện khách quan xuất phát từ cả thành công và hạn chế lịch sử của CNTB hiện đại, từ phong trào công nhân và các lực lượng tiến bộ trên thế giới đang đấu tranh cho các thành tựu, giá trị văn minh của nhân loại.

Khát vọng của dân và lý tưởng của Đảng không phải là những ảo tưởng, xuất phát từ ngẫu hứng nhất thời, chủ quan, duy ý chí, mà được khơi dậy, thiết lập từ thực tiễn, từ niềm tin vào sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng XHCN và vào bản lĩnh, kinh nghiệm mà Đảng, nhân dân ta đã tổng kết được cùng với vị thế, uy tín của đất nước đã đạt được qua các chặng đường cách mạng. Ý Đảng lòng dân đó nuôi dưỡng, thúc đẩy nhu cầu, năng lực đổi mới sáng tạo vì mục tiêu XHCN: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Khát vọng, lý tưởng là hoài bão, ước mơ, nguyên tắc, giá trị tốt đẹp, dù cao cả hay giản dị; trong đó, lý tưởng thiên về nguyên tắc, có tính lý luận cao hơn. Khát vọng, lý tưởng đều là kết quả của tổng kết thực tiễn với nhận thức sâu sắc và niềm tin vào con đường đi lên CNXH; đồng thời được biểu hiện, thực hiện bằng tình cảm trong sáng cùng ý chí kiên cường. Những nhân tố này đóng vai trò như lực lượng vật chất để tạo nên “sĩ khí quốc dân” nhằm chủ động, tích cực thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc và đổi mới sáng tạo trong hiện thực hóa từng bước mục tiêu XHCN, trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH ở nước ta.   

2. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Cần phải có một TKQĐ khá lâu dài từ CNTB lên CNXH. Định nghĩa kinh điển về TKQĐ được C.Mác nêu trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôtha (năm 1875): “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị...”(3). V.I.Lênin cho rằng, TKQĐ từ CNTB lên CNXH “gồm những cơn đau đẻ kéo dài”; và có vị trí độc lập tương đối, không nằm trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản - dịch chính xác là xã hội cộng đồng(4).

C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều nhận thấy những nước có nền kinh tế lạc hậu như nước Nga, khi quá độ lên CNXH sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp, do vậy càng phải trải qua nhiều bước quá độ, nhiều bước thử nghiệm. Từ đó, cùng với tư tưởng về TKQĐ từ CNTB - đã phát triển đến mức tột cùng - lên CNXH (kiểu quá độ trực tiếp), các ông cũng đề cập đến con đường phát triển không qua chế độ TBCN, tức là TKQĐ từ hình thái xã hội tiền TBCN lên CNXH (kiểu quá độ gián tiếp). Tuy là một loại hình TKQĐ chưa được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin trình bày đầy đủ, nhưng các ông đã nêu những tư tưởng có ý nghĩa phương pháp luận về quá độ gián tiếp lên CNXH.

Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra vị trí, giới hạn của TKQĐ, nhưng như C.Mác nêu “...những thời kỳ lịch sử của xã hội cũng giống như những thời kỳ lịch sử của trái đất, đều không có những ranh giới trừu tượng nào thật rành mạch cả”(5). C.Mác khẳng định, có ngư­ời “nhất định phải biến bài tiểu luận có tính chất lịch sử của tôi về sự phát sinh chủ nghĩa tư­ bản ở Tây Âu thành một học thuyết có tính chất lịch sử - triết học về con đường chung mà tất cả các dân tộc dù ở trong những điều kiện lịch sử nào đi nữa cũng nhất thiết phải theo,... Điều đó có lẽ vừa là điều quá ư ­vinh hạnh, vừa quá ư­ nhục nhã đối với tôi”(6). Trong thư­ gửi cho bà V.I. Daxulich năm 1881, ông tiếp tục nhấn mạnh, rằng lý luận phủ định của phủ định về sự phát triển lịch sử đ­ược trình bày trong mục “Tích lũy ban đầu” của bộ T­ư bản chỉ hạn chế nói về “tính tất yếu lịch sử” ấy của “các nư­ớc Tây Âu”(7).

V.I.Lênin cũng cho rằng, “Dĩ nhiên là những cách phân giới hạn đó, cũng như nói chung những cách phân giới hạn trong giới tự nhiên hoặc trong xã hội, đều chỉ có tính chất quy ước và không cố định, đều là tương đối chứ không phải là tuyệt đối”(8).

Ngày 11-5-1893, khi được hỏi những người XHCN Đức đặt mục đích nào là mục đích cuối cùng, Ph.Ăngghen đã trả lời: “Chúng tôi chủ trương phát triển thường xuyên, không ngừng, và chúng tôi không có ý định áp đặt cho loài người những quy luật dứt khoát nào đó”(9).   

Như vậy, cách phân kỳ về TKQĐ “chỉ có tính chất quy ước... tương đối” (V.I.Lênin), chỉ có “chủ trương phát triển thường xuyên không ngừng” (Ph.Ăngghen) nhằm từng bước đạt đến mục tiêu cuối cùng là xác lập điều kiện phát triển tự do, toàn diện của mỗi người và của mọi người (C.Mác) mới là nội hàm bản chất của TKQĐ lên CNXH.

Ở nước ta, trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(10). Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn hình thức quá độ “gián tiếp” nhằm phát triển “rút ngắn” và “không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để đi lên CNXH. Tuy nhiên, quá trình phát triển “rút ngắn” này vẫn là một thời kỳ phát triển lâu dài với nhiều chặng đường. Vì thế, phải thực hiện sự phân kỳ thời kỳ phát triển này theo hướng từng bước rõ hơn cả về định tính và định lượng, nhất là trên cơ sở tổng kết lý luận gắn với nghiên cứu, tổng kết thực tiễn đổi mới, phát triển theo định hướng XHCN.

3. Cách thức, tiêu chí phân kỳ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

Về cách thức

Xét về lý luận và thực tiễn, sự phân kỳ con đường đi lên CNXH có thể nuôi dưỡng và thúc đẩy tầm nhìn để kiên định khát vọng, lý tưởng về CNXH một cách thực tế bằng cách gắn với xây dựng, thực hiện Cương lĩnh chính trị, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển trong nước và quốc tế. Từ đó, “nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây”(11) về CNXH, đưa tinh thần phụng sự, cống hiến cho sự nghiệp đổi mới, phát triển theo định hướng XHCN vào đời sống xã hội, nhất là vào thực tiễn hoạt động của giới trẻ và doanh nghiệp, nhằm góp phần xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.

Theo phương châm đó, bước vào sự nghiệp đổi mới, tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”(12). Đại hội xác định: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong những chặng đường tiếp theo.

Đại hội VII (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó thực hiện cách thức phân kỳ con đường đi lên CNXH về mặt định tính: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: Thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”(13).  Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc TKQĐ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phát triển.

Đại hội IX (năm 2001), tiếp tục xác định nội dung phân kỳ con đường đi lên CNXH về mặt định tính: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”(14). Trong đó, chặng đường đầu tiên là bước quá độ nhỏ nhằm chuẩn bị tiền đề cho chặng sau, tạo ra sự ổn định vững chắc của xã hội thông qua đổi mới, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau. Chặng đường tiếp theo là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Tại Đại hội XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục xác định cách thức phân kỳ con đường đi lên CNXH theo hướng rõ hơn về mặt định tính: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,... Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(15). Mục tiêu tổng quát khi kết thúc TKQĐ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), lần đầu tiên lượng hóa về trình độ hiện đại hóa và trình độ phát triển: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(16), định hướng XHCN. Trên cơ sở đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam kiên trì, phát triển nhanh, bền vững lên CNXH nhằm tiếp tục kiên định đạt được trình độ phát triển cao. Sự toàn diện của mỗi người dân là điều kiện cho phát triển toàn diện của con người và văn hóa Việt Nam.

Đến nay, nội dung các chặng đường đầu và chặng sau của con đường đi lên CNXH đã bước đầu được lượng hóa trên hai phương diện gắn bó với nhau là: trình độ hiện đại hóa gắn với văn minh của nền sản xuất xã hội và trình độ phát triển theo hướng tiến bộ XHCN của các thể chế và các tổ chức xã hội trong việc tôn vinh, phát huy phẩm giá con người và văn hóa Việt Nam.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, không nên và thực tế cũng không cho phép “áp đặt những quy luật dứt khoát nào đó”; sự phân kỳ “chỉ có tính chất quy ước,... không phải là tuyệt đối”, chỉ có “chủ trương phát triển thường xuyên không ngừng” nhằm kiên định, kiên trì từng bước đạt đến mục tiêu cao nhất của CNXH trong việc bảo đảm phát triển tự do, toàn diện của mỗi người và của mọi người mới là nội hàm bản chất của TKQĐ lên CNXH.

Theo tinh thần này, trong thời kỳ đổi mới, phạm trù TKQĐ được dùng theo ý nghĩa phương pháp luận trong Cương lĩnh và trong báo cáo chính trị tại các kỳ đại hội Đảng, còn nội hàm của phạm trù chủ yếu được thể hiện qua khái niệm “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” và “phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(17). Như vậy, cả về lý luận cũng như thực tiễn, cách thức xác định nội hàm và cách thức phân kỳ về con đường đi lên CNXH (hay TKQĐ) ở nước ta là có tính mở.

Về tiêu chí phân kỳ con đường đi lên CNXH

Thứ nhất, con người là chủ thể, là động lực trung tâm và phát triển toàn diện    

Tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người là tư tưởng về con người hiện thực mà bản chất là tổng hòa các quan hệ xã hội, chứ không chỉ là con người nhân bản siêu hình trừu tượng, hay con người chính trị - xã hội hoặc con người vật chất thuần túy. Phương châm của C.Mác là tuân theo chủ nghĩa nhân đạo hiện thực nhằm từng bước hiện thực hóa sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người.

Trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo phương châm đó, ở nước ta hiện nay, việc đề cao “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân”(18) đòi hỏi khâu thực hành, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân phải kết nối với phát huy vai trò chủ thể, vị trí động lực trung tâm của con người nhằm phát triển toàn diện con người.

Thực tế cho thấy, chỉ con người với khát vọng, lý tưởng XHCN mới là chủ thể của tất cả các nguồn lực, đồng thời là động lực trung tâm của tất cả các nguồn lực trên con đường đi lên CNXH. Xuất phát từ con người và “lấy con người là trung tâm” là tất yếu, nhưng nếu con người không được trao quyền, không được bảo đảm quyền của mình với tư cách là người chủ - làm chủ trong thể chế dân chủ XHCN thì không thể “lấy dân làm gốc”, không thể phát huy được vị trí chủ thể, vai trò động lực trung tâm của con người và xây dựng được con người phát triển toàn diện.

Thông qua tiêu chí này có thể làm sáng tỏ vấn đề: Để đo lường trình độ hiện đại hóa gắn với văn minh và phát triển theo hướng tiến bộ XHCN trên con đường đi lên CNXH thì phải căn cứ vào sự “phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”(19); năng lực tôn vinh, phát huy phẩm giá con người là tiêu chí trước tiên và cơ bản để đánh giá trình độ hiện đại hóa gắn với văn minh và trình độ phát triển theo hướng tiến bộ XHCN của các thể chế và các tổ chức xã hội trong việc tôn vinh, phát huy phẩm giá con người.

Từ đó chỉ rõ: thể chế pháp quyền của Nhà nước XHCN không chỉ thể hiện ở mục tiêu và bản chất bảo đảm quyền lực của dân, do dân, vì dân, mà còn phải được thể chế hóa thành công cụ, phương tiện để đạt được mục tiêu đó một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế. Bởi lẽ, trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần, khu vực  kinh tế và phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, hội nhập quốc tế như hiện nay, mỗi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội chỉ có thể được lựa chọn, xác định chính xác và triển khai, thực hiện một cách hiệu lực, hiệu quả trên thực tế khi: (i) phân rõ chủ thể được bảo đảm quyền lợi và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền lợi đó; (ii) lôi cuốn và huy động được sự tham gia chủ động, tích cực, đông đảo của người dân vào thực hiện chủ trương, chính sách đó; (iii) bảo đảm sự công khai, minh bạch trong triển khai, thực hiện.

Đây là tiêu chí phù hợp với cách tiếp cận dựa trên quyền con người. Dựa vào tiêu chí này sẽ nắm bắt, điều tiết được những thách thức mới đang đặt ra ngày càng lớn hơn trên con đường đi lên CNXH, khi vấn đề nhân quyền được đề cập trực tiếp ngày càng nhiều hơn, bức xúc hơn, thay vì chỉ được giới hạn trong quyền và nghĩa vụ của công dân như hiện nay.

Thứ hai, bảo đảm và gắn kết các quyền dân sinh - dân chủ - dân tộc, là “kiềng ba chân” để đi lên chủ nghĩa xã hội

Ngày nay, dưới tác động của phân hóa giàu nghèo theo cơ chế thị trường, càng nổi lên tính thời sự của tư tưởng Hồ Chí Minh: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(20). Việc vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền dân tộc (gồm chủ quyền quốc gia, quyền tự quyết và quyền phát triển của dân tộc) phải luôn gắn với bảo đảm quyền dân sinh (sinh kế), quyền dân chủ và quyền phát triển của các nhóm yếu thế, nhất là quyền con người của các dân tộc thiểu số; bởi “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(21).

Trên con đường đi lên CNXH, “quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một... Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(22). Do đó, cùng với việc bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Trong mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH. Cho nên, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Dân sinh là cội nguồn sâu xa, dân chủ với tính cách là bản chất của chế độ XHCN sẽ bảo đảm cho con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trung tâm trên con đường đi lên CNXH. Đồng thời, đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là yếu tố có ý nghĩa quyết định thúc đẩy không ngừng quyền bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.

Theo tinh thần này, Đảng, Nhà nước ta sử dụng cả hai thuật ngữ nhân quyền (quyền con người) và quyền công dân, đồng thời luôn gắn với dân sinh, dân chủ nhằm bảo đảm quyền dân tộc - quốc gia trên cơ sở bảo đảm quyền dân sinh, dân chủ và ngược lại. Vì lẽ, dân chủ là dân quyền, trước hết là quyền dân sinh và quyền chính trị, cho nên bảo đảm nhân quyền và quyền công dân sẽ thúc đẩy bảo đảm các quyền con người (dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa) cũng như quyền dân tộc - quốc gia. Thông qua đó, tăng cường xây dựng mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, thể chế pháp quyền và đại đoàn kết toàn dân tộc trong Nhà nước pháp quyền XHCN.

Hiện nay, do khung khổ pháp lý lớn hơn, toàn diện hơn của cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(23) do Đại hội XIII xác định, nên việc luật hóa Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn (năm 2007) và các nghị định về thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp sẽ kịp thời ghi nhận, bảo vệ, thực hiện, thúc đẩy hàm nghĩa mới là “dân giám sát, dân thụ hưởng” cũng như tổng thể cơ chế đó.

Thứ ba, thể chế phát triển nhanh, bền vững gắn với bao trùm để tiến lên chủ nghĩa xã hội

Khát vọng, lý tưởng Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc phải được diễn ra trên cơ sở một thể chế chính trị - xã hội cụ thể. Trong điều kiện lực lượng sản xuất xã hội được hiện đại hóa ngày càng gắn kết với văn minh như hiện nay, để đi lên CNXH tại một nước đang phát triển như Việt Nam, trước tiên và cơ bản phải xây dựng, thực hiện được thể chế phát triển nhanh, bền vững gắn với bao trùm nhằm kiến tạo niềm tin, khơi dậy khát vọng, lý tưởng đổi mới sáng tạo nơi người dân, nhằm đẩy mạnh và đạt được trình độ hiện đại hóa gắn với văn minh ngày càng sâu sắc, đồng thời đạt được trình độ phát triển theo hướng tiến bộ XHCN một cách thực chất.

Tiêu chí về thể chế phát triển nhanh, bền vững gắn với bao trùm để làm rõ “một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(24). Đồng thời, “phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội”(25), để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Tiêu chí này gợi mở cho việc khơi dậy khát vọng, lý tưởng đổi mới sáng tạo để mạnh dạn “đi tắt, đón đầu”, tận dụng những vận hội mà cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất quốc tế,... đem lại nhằm hiện thực hóa mục tiêu XHCN với các trình độ hiện đại hóa và trình độ phát triển vào năm 2030 và năm 2045 như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Trên cơ sở đó, góp phần nâng cao năng lực phát triển trên con đường đi lên CNXH, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cải cách thể chế, đáp ứng được yêu cầu chuyển mạnh sang nền kinh tế số, chính quyền số và xã hội số; tìm kiếm hướng phát triển mới, thị trường mới; đẩy mạnh phân cấp, trao quyền, ủy quyền, phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương, cơ sở theo hướng bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nhằm khuyến khích, thúc đẩy đổi mới sáng tạo của địa phương, cơ sở; xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ, đảng viên dám đột phá, đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của bộ máy nhà nước nhằm thực hiện công khai, minh bạch nghĩa vụ bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân;...

Tiêu chí này gợi mở cho việc làm sáng tỏ phương thức phát triển hợp quy luật trên con đường đi lên CNXH dưới tác động thường trực của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, cơ bản là sự tác động của các cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất hiện đại và biến đổi của đời sống chính trị - xã hội trên thế giới. Từ đó, làm rõ được các cuộc vận động, phong trào đổi mới sáng tạo một cách đồng bộ, toàn diện về cả cách nghĩ và cách làm theo phương châm: Đổi mới sáng tạo trong tư duy, trước hết trong tư duy kinh tế, trong thực hiện ba đột phá chiến lược (thể chế, nguồn nhân lực, hạ tầng), trong công tác tổ chức và cán bộ để không bỏ lại ai ở phía sau trên các lĩnh vực của đời sống xã hội... Bởi chỉ đổi mới sáng tạo nước ta mới trở thành một nước phát triển phù hợp với khát vọng, lý tưởng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trên con đường đi lên CNXH.

                                                                                        Nguon: vietnamhoinhap.vn

Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

 Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng định những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong tình hình mới; quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi những quan điểm cơ bản đó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay, trong đó cần nắm vững một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, cần bảo đảm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia trong tình hình mới, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.“Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”. Đây là sự thể hiện quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước; nhất là trong tình hình mới, Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Các nhiệm vụ này phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng, tác động hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Theo đó, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh cũng có nghĩa là tạo điều kiện, tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; ngược lại, mỗi thành quả của nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội lại tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh của quốc gia. Vì vậy, cần giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước nhận thức sâu sắc hơn nữa đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Thứ hai, cần quán triệt và nâng cao hơn nữa trong nhận thức và hành động thực tiễn về mục tiêu, nội dung, yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

“Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.

Như vậy, nội hàm của vấn đề bảo vệ Tổ quốc được mở rộng và bao trùm hơn, thể hiện tính toàn diện, tổng thể của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Ở đây, cần đặc biệt chú trọng tới mối quan hệ biện chứng của mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc… luôn gắn liền với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định của quốc gia. Đây là hai mặt của vấn đề liên quan hết sức mật thiết với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, cần luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả vấn đề này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong xử lý những vấn đề nhạy cảm, phức tạp hiện nay trên tinh thần coi mục tiêu tối thượng là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN và đi liền với đó là phải giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định để tranh thủ mọi nguồn lực (cả nội lực và ngoại lực) nhằm xây dựng, phát triển đất nước bền vững hơn. Tích cực đấu tranh với những quan điểm phiến diện, lệch lạc về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Thứ ba, cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc vấn đề phát huy sức mạnh tổng hợp cũng như phương châm, phương pháp tiến hành bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới, cần phải: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ cao nhất sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN…

Đảng đã chỉ rõ sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đó là lực lượng của toàn dân tộc. Đảng xác định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Theo đó, cần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm mới không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam, tăng cường quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân”; “Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc” để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cùng với việc khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XII còn chỉ rõ cần tranh thủ cao nhất sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết và kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây là một trong những kinh nghiệm lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta, nhất là trong điều kiện bối cảnh quốc tế hiện nay. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực hiện nay, vấn đề kiên quyết và kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là một trong những phương châm, phương pháp cơ bản để giải quyết những mâu thuẫn, khác biệt đối với chủ quyền của quốc gia, dân tộc giữa các nước. Bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ phải kiên quyết, song quá trình đấu tranh phải kiên trì, dựa vào luật pháp quốc tế, dựa vào sức mạnh của cộng đồng quốc tế, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc để đấu tranh.

Thứ tư, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; tích cực xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

Nghị quyết khẳng định: xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về mọi mặt, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”.

Theo đó, cần nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, chủ động chuẩn bị lực lượng và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trong mọi tình huống…

Đối với Quân đội nhân dân, cần tập trung giáo dục, rèn luyện, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định cho mọi cán bộ, chiến sĩ, bảo đảm cho lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ XHCN, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, có ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất năng lực, coi đó là khâu có ý nghĩa quyết định. Tiếp tục triển khai đồng bộ, có hiệu quả các nhóm giải pháp thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Không ngừng tăng cường sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang; nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, thực hiện tốt phương châm huấn luyện: "cơ bản, thiết thực, vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, sát yêu cầu, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động, phù hợp tổ chức biên chế, trang bị hiện có...

Những quan điểm, chủ trương, định hướng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, có sự bổ sung, phát triển toàn diện, sâu sắc thể hiện tính cách mạng, khoa học, phù hợp tình hình quốc tế và điều kiện thực tiễn của nước ta; phù hợp ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

                                                                                    Nguon: nhandan.vn

Bàn luận về bản chất của chủ nghĩa xã hội qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 (ĐCSVN) - Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có tầm khái quát cao về lý luận, thực tiễn và những định hướng đặt ra cần bổ sung, phát triển tiếp tục làm rõ lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Ngày 16 tháng 5 năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết của Tổng Bí thư có kết cấu, cách tiếp cận nội dung rất cơ bản, hệ thống và khoa học, đã đặt ra và giải đáp một số nội dung: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì? Tôi rất tâm đắc với các nội dung thể hiện trong bài viết có tầm khái quát cao về lý luận, thực tiễn và những định hướng đặt ra cần bổ sung, phát triển tiếp tục làm rõ lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở phạm vi bài viết của mình chỉ góp phần tập trung bàn luận về bản chất của chủ nghĩa xã hội qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua. Ảnh minh họa. Ảnh: Việt Hà 

Thứ nhất, bài viết sử dụng phương pháp so sánh bản chất giữa chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa với chủ nghĩa xã hội. Theo đó chỉ rõ, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, những bất công xã hội và đời sống của đa số dân cư lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa chỉ là vì lợi nhuận của giai cấp tư sản. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Tổng Bí thư đã phân tích, khẳng định các cuộc khủng hoảng hiện nay chỉ làm trầm trọng thêm mâu thuẫn vốn có và không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa. Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa.

Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đó là yếu tố bản chất nhất để so sánh sự khác nhau giữa chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Hệ thống quyền lực ở các nước tư bản chủ nghĩa vẫn chủ yếu thuộc về giai cấp tư sản (thiểu số giàu có) và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của Nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản và quyền lực của Nhân dân lao động chỉ là lý thuyết.

Thứ hai, khẳng định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Tổng Bí thư đã khẳng định bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xây dựng dựa trên học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự vì lợi ích của Nhân dân lao động.

Thứ ba, bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ. Tổng Bí thư cho rằng đó là “sự sáng tạo của Đảng ta”, vì kinh tế thị trường là giá trị chung của nhân loại, chứ không phải là giá trị riêng của giai cấp tư sản và chủ nghĩa xã hội kế thừa giá trị nhân loại để phát triển hơn là hợp quy luật khách quan.

Thứ tư, về bản chất chính trị của xã hội XHCN mà Việt Nam xây dựng là xã hội của dân, do dân, vì dân và quyền lực thuộc về Nhân dân. Tổng Bí thư khẳng định: “Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân là chủ”. Hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản là: “pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân”. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.

Thứ năm, về bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là xã hội phát triển hài hòa, tiến bộ, công bằng vì con người. Trong bài viết Tổng Bí thư đã khẳng định ở những nước tư bản thường diễn ra: Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội… Còn ở nước ta thường xuyên đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa cho Nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Sự khác biệt rất cơ bản giữa bản chất xã hội của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với chủ nghĩa tư bản là: chúng ta không chạy theo kinh tế đơn thuần và bằng mọi giá mà luôn luôn gắn kết hài hòa với yếu tố xã hội, bảo đảm lợi ích chân chính của Nhân dân lao động. Sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Việt Nam chưa phải là nước giàu, đang ở giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng thu hẹp, bình đẳng và công bằng xã hội ngày càng được tăng cường. Hiện tượng cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm được xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Mỗi chính sách kinh tế của Đảng là gắn với chính sách xã hội, coi trọng và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vì một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn và vì khuyến khích Nhân dân làm giàu.

Trong xã hội con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Phát triển giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Chúng ta luôn luôn chăm lo thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam…

Thứ sáu, thực tiễn chứng minh bản chất ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng. Trong bài viết Tổng Bí thư đã đưa ra dẫn chứng thực tế, với kết quả “Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó đáng chú ý: Về kinh tế, trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Sau chiến tranh, Mỹ và các nước phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong gần 20 năm… Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Về xã hội, hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của Nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước).

Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng.

Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được Nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống Nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

Cuối bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đã nhận định: Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Đảng ta đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi…

Thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện tập trung ở giải trình bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Tổng Bí thư trong bài viết. Đó là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của Nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; kiên định với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực, uy tín để tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thành tựu mà đất nước đạt được trong 35 năm đổi mới đã chứng minh đường lối lãnh đạo của Đảng ta là đúng đắn, không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, tiếp tục chỉ đạo nhiệm vụ quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong đời sống. Những nội dung cơ bản của bài viết cần tiếp tục được nghiên cứu, luận giải, làm cơ sở cho quá trình quán triệt, tổ chức thực hiện. Đường lối, quan điểm của Đảng chỉ trở thành lực lượng vật chất khi được thâm nhập, quán triệt sâu sắc và tổ chức trong hoạt động thực tiễn ở mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Chúng ta tin tưởng rằng, với trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối lãnh đạo công cuộc đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng; khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hùng cường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của Nhân dân sẽ trở thành hiện thực.

                                                                                              Nguon: dangcongsan.vn

Hiệu quả từ việc nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật.

 Là đơn vị tàu chiến đấu mặt nước hiện đại của Quân chủng Hải quân, thời gian qua, Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân đã tập trung nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật. Với những giải pháp đồng bộ cùng cách làm sáng tạo, việc bảo đảm tốt công tác kỹ thuật đã góp phần nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của toàn Lữ đoàn; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong tình hình mới.

Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân là đơn vị chiến đấu được biên chế đa dạng về chủng loại tàu thuyền, xe, vũ khí, trang bị kỹ thuật. Tuy nhiên, qua nhiều năm khai thác, sử dụng, tuổi thọ, độ tin cậy, tính đồng bộ của nhiều phương tiện, vũ khí, trang bị kỹ thuật đã suy giảm. Mặt khác, các loại vật tư, linh kiện để thay thế, sửa chữa có tính chất đặc thù, đặc chủng cao; rất khó khăn trong việc bảo đảm và khai thác trên thị trường. Trước thực trạng đó, Đảng ủy, chỉ huy Lữ đoàn 167 đã chú trọng đẩy mạnh phong trào “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” trong toàn đơn vị; xác định đây là giải pháp quan trọng để thực hiện đột phá “xây dựng nền nếp chính quy kỹ thuật, làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật” và nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật của toàn Lữ đoàn.

Cán bộ chiến sĩ Tàu 380, Lữ đoàn 167 kiểm tra hệ thống pháo AK 630 trong "Ngày Kỹ thuật" .

Theo đó, hằng năm, phong trào “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” ở Lữ đoàn 167 đã được đông đảo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật hưởng ứng tích cực gắn với nhiều hình thức, biện pháp cụ thể, phù hợp như: phát động Hội thi mô hình học cụ; Hội thi "Kho trạm, xe máy tốt; lái xe an toàn"; Hội thi "Bàn tay vàng";… Cùng với đó là việc quan tâm, hỗ trợ kinh phí để nghiên cứu, triển khai các mô hình, sáng kiến và khen thưởng, động viên kịp thời các cá nhân, tập thể có sáng kiến mang tính ứng dụng cao. Đặc biệt, Lữ đoàn còn thành lập Tổ sửa chữa cơ động bao gồm những cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật có nhiều kinh nghiệm; thành lập Tổ tinh chỉnh tàu chính quy mẫu mực; triển khai áp dụng các sản phẩm sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đã được thông qua.

Cùng với đó, cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của Lữ đoàn 167 đã tích cực nghiên cứu, chế tạo thành công một số linh kiện, vật tư thường xuyên hư hỏng trong quá trình khai thác sử dụng. Các sáng kiến phong phú về nội dung có tính khả thi, thực tiễn cao; nội dung tập trung vào nâng cao chất lượng công tác bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật đáp ứng tốt yêu cầu bảo đảm kỹ thuật cho trang bị của đơn vị. Qua phong trào thi đua đã có một số sáng kiến cải tiến kỹ thuật cao như: Bo mạch điều khiển hệ thống điều hòa KЛИMAT125, 40Б; Cẩm nang sửa chữa Tua bin khí M15Э trên tàu 12418; Quy trình thay xăm khí; cẩm nang sửa chữa pháo AK-176; Thiết bị đo độ nghiêng của tàu. Thiết bị cảm biến tốc độ vòng quay, thiết bị vi xử lý; dùng để điều khiển việc cấp khí khởi động vào cho động cơ đề;…

Cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của Lữ đoàn 167 kiểm tra tình trạng kỹ thuật của thiết bị.

Được biết, chỉ tính từ năm 2019 đến nay, đơn vị có hơn 45 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được triển khai thực hiện hiệu quả, nhiều sáng kiến được lựa chọn tham gia thi cấp Vùng và Quân chủng kết quả cao. Đặc biệt trong năm 2019 Mô hình “Thiết bị huấn luyện bắn pháo cho trắc thủ tại bàn điều khiển ПУАРТ 76” của Đại úy Vũ Xuân Huy đạt giải A giải thưởng Nguyễn Phan Vinh và giải Ba giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội.

Theo đồng chí Thượng tá Phạm Tiến Dũng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 167, để công tác kỹ thuật đi vào thực chất, hiệu quả, thời gian vừa qua, Đảng uỷ chỉ huy Lữ đoàn đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo Phòng Hậu cần - Kỹ thuật và các cơ quan, đơn vị triển khai đồng bộ nhiều biện pháp gắn với thực tiễn của Lữ đoàn. Đồng thời, thường xuyên quan tâm động viên đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật nêu cao trách nhiệm, thực hiện tốt các nội dung công tác kỹ thuật.

Nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật góp phần bảo đảm cho Lữ đoàn 167 hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Đặc biệt, trước khi các tàu thực hiện nhiệm vụ đi biển, tổ sửa chữa của Lữ đoàn 167 đã phối hợp với đơn vị kiểm tra nắm tình trạng vũ khí, trang bị kỹ thuật, hệ động lực, thân vỏ tàu, vừa chủ động khắc phục những hỏng hóc trong thời gian cấp bách. Lữ đoàn cũng đã chủ động ban hành bộ tiêu chí tàu “Chính quy, mẫu mực” theo từng dạng tàu và tổ chức thực hiện tốt các tiêu chí. Đồng thời, tổ chức cho các đơn vị, các tàu thực hiện nghiêm giờ kỹ thuật trong ngày, ngày kỹ thuật trong tuần, tháng, quý; chế độ sấy, kiểm tra vũ khí, trang bị kỹ thuật;… Định kỳ hàng quý, Lữ đoàn tổ rút kinh nghiệm công tác bảo quản, kiểm sửa nhằm khắc phục những khâu yếu, mặt yếu còn tồn tại đồng thời xây dựng nền nếp công tác kỹ thuật chính quy, an toàn. Nhờ đó, trong năm 2023 vừa qua, 100 số tàu của Lữ đoàn 167 đã được Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân công nhận đạt tiêu chí “Tàu chính quy mẫu mực”; Lữ đoàn đã làm mới 720 tem nhãn, 623 xương sườn. Bảo quản, sơn sửa được 4.440 m2 mạn tàu và mặt boong.

Tuy điều kiện vật chất, kinh phí còn nhiều khó khăn, song đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của Lữ đoàn 167 đã tích cực, phát huy tinh thần trách nhiệm và năng lực sáng tạo để nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật. Qua đó, bảo đảm cho các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất của Lữ đoàn, trọng tâm là sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện chiến đấu, tuần tra, trinh sát bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng của Tổ quốc. Đồng thời, tạo cơ sở để Lữ đoàn 167 luôn là điểm sáng trong công tác kỹ thuật và phong trào “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” của Vùng 2 nói riêng và Quân chủng Hải quân nói chung./.


Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp

 ác văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, sau khi hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta chuyển sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Nhưng thực tế, cho đến nay vẫn còn không ít người hoài nghi về tính tất yếu của sự quá độ này, thậm chí có ý kiến cho rằng, không cần sử dụng phạm trù thời kỳ quá độ hoặc nên lựa chọn một con đường khác. Bởi vậy, làm rõ tính tất yếu khách quan và nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN ở nước ta vẫn là một vấn đề lý luận và thời sự cấp bách trong hoàn cảnh hiện nay.

Đồng chí Nguyễn Đình Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy định kỳ tháng 5/2022. Ảnh: Duy Tiến

Khi phân tích những mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản và những đặc trưng của xã hội cộng sản, Các Mác đã chỉ ra rằng, từ xã hội TBCN lên xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN) là cả một thời kỳ lịch sử lâu dài, từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công CNCS. Trong quan niệm đó, thời kỳ quá độ được coi là một quá trình cải biên từ xã hội TBCN lên xã hội CSCN. Trên cơ sở thực tiễn của Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga và thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô, Lênin đã phát triển nhiều luận điểm mới cho rằng, từ CNTB lên CNXH có một thời kỳ lịch sử đặc biệt, đó là thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung thêm, các nước thuộc địa, nô lệ, tiền TBCN đặt trong chủ nghĩa Mác - Lênin có thể quá độ lên CNXH. Vì vậy, con đường quá độ từ CNTB lên CNXH và CNCS là một tất yếu khách quan của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội.

Nước ta đi lên CNXH là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới. Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biến cách mạng mà bất cứ quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua. Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu lịch sử. Bởi vì, thời đại chúng ta đang sống là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Đảng ta ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh năm 1930 đã khẳng định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta là độc lập dân tộc và CNXH. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, lại phù hợp với xu thế của thời đại.

Đảng ta ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh năm 1930 đã khẳng định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta là độc lập dân tộc và CNXH. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, lại phù hợp với xu thế của thời đại.

Trong tác phẩm của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột TBCN; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển CNTB. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.

Rõ ràng, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta sẽ lâu dài và gian khổ, vì một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái tiến bộ nhất định thắng. Nước ta lại là một nước nông nghiệp, công cuộc thay đổi xã hội cũ thành xã hội mới sẽ gian nan và phức tạp hơn đánh giặc, vì phải đấu tranh với kẻ địch nguy hiểm khác đó là nghèo nàn, đói khổ và lạc hậu.

 

Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới".

 
Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử nước ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng nghìn năm. Chúng ta phải cải biến quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ vang nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và đầy khó khăn nhất. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay, nước ta luôn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ngay cả trong điều kiện không còn hệ thống XHCN thế giới.

CNTB có vai trò lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã hội hóa lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu TBCN. Quá trình này diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ. Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định hướng XHCN. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức đầy đủ sự rút ngắn ở đây không phải là công việc có thể làm nhanh chóng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Tiến lên CNXH, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục; CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần”. Do đó, chúng ta không thể nóng vội tiến ngay lên CNXH mà còn phải duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong một thời gian tương đối dài.

Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp chúng ta khắc phục được những quan niệm đơn giản, duy ý chí về thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước đang phát triển. Đồng thời, chúng ta không ngừng tiếp thu có chọn lọc, tận dụng phù hợp với giá trị của nền văn minh nhân loại để hiện thực hóa con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.    

                                                                                                        Nguon: baodaklak.vn