Thứ Hai, 29 tháng 7, 2024

“ngoại giao cây tre” có ý nghĩa lịch sử

 Vai trò của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với nền ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” và chiến dịch “đốt lò” bài trừ tham nhũng?

Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế nhưng vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc dân tộc nhờ kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam là một nét đặc trưng được cả thế giới ghi nhận. Con người Việt Nam với tinh thần cởi mở luôn tích cực tiếp thu những yếu tố tốt đẹp trong văn hóa của thế giới. Trong tình hình quốc tế diễn biến phức tạp như ngày nay, hiếm có một quốc gia nào có quan hệ tốt với cả 5 nước thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc như Việt Nam. Đây cũng chính là một kết quả của “ngoại giao cây tre”. Đường lối đối ngoại Việt Nam mềm dẻo nhưng giữ được sự nhất quán trong việc thực hiện như vậy là công việc không dễ dàng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đóng vai trò lớn trong việc kiên trì đường lối “ngoại giao cây tre”. Chống tham nhũng là nỗ lực không thể thiếu khi muốn đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển. Trong sự nghiệp lãnh đạo của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kiên định lãnh đạo một chiến dịch chống tham nhũng có ý nghĩa lịch sử.

 

NHIỆM VỤ ĐỐI NGOẠI THEO TƯ TƯỞNG 
CỦA TỔNG BÍ THƯ  NGUYỄN PHÚ TRỌNG THỜI KỲ MỚI

Sáng 14/12/21, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu chỉ đạo hội nghị. Trên cơ sở khái quát những thành tựu đối ngoại của 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Với Kết luận: “Chúng ta đã xây dựng nên trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam," "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển" ("Thân gầy guộc, lá mong manh, mà sao nên lũy, nên thành tre ơi!"), thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.”

Tổng Bí thư đã khẳng định:

Nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại được xác định là: Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Các nhiệm vụ này có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau, trong đó giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm; nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.

Mặc dù Tổng Bí thư đã đi xa nhưng tư tưởng chỉ đạo, định hướng về nhiệm vụ đối ngoại thời kỳ mới sẽ mãi mãi trường tồn và định hướng cho hành động của các thế hệ dân tộc Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới./.

 

Nhà lãnh đạo cấp cao tiêu biểu

 Nhà lãnh đạo cấp cao tiêu biểu

Những thành tựu phát triển của Việt Nam sau gần 4 thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới đã nhận được sự ngưỡng mộ và khâm phục của các nước trên thế giới. Ngày càng có nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển quan tâm đến “mô hình phát triển của Việt Nam”. Nhắc tới những thành tựu và sự phát triển vượt bậc của đất nước Việt Nam ngày hôm nay, không thể không nhắc tới vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Với câu nói: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thực tế phát triển ở Việt Nam, lời khẳng định này có sức thuyết phục cao không chỉ ở trong nước mà còn được thế giới công nhận. Vì vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính là nhà lãnh đạo cấp cao tiêu biểu đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh và phát triển bền vững, giữ vững ổn định chính trị và góp phần đưa vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

NÊU CAO TINH THẦN CẢNH GIÁC CÁCH MẠNG TRONG XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” BẢO VỆ TỔ QUỐC

 


Cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn và phương thức tiến hành của các thế lực thù địch hòng gây mất niềm tin của nhân dân, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá vỡ “thế trận lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 

Tiếp tục đổi mới hình thức, biện pháp tuyên truyền, vận động nhân dân; kịp thời, nhạy bén nhận diện, phân loại và kiên quyết đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn, những quan điểm sai trái, thù địch, những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Thực hiện nhất quán chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân không tin, không nghe theo kẻ xấu kích động, gây rối trật tự, an toàn xã hội, vượt biên trái phép, tham gia “tà đạo, đạo lạ” và các tổ chức bất hợp pháp. Giải quyết có hiệu quả nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân, tuyệt đối không để kẻ thù lợi dụng; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, không ngừng chăm lo đời sống nhân dân; đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI THAM GIA XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” BẢO VỆ TỔ QUỐC

 


Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong tham gia xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng xác định: Củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân là nòng cốt. Đây là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. 

Theo đó, Quân đội nhân dân Việt Nam cần được xây dựng vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng nòng cốt để xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Các cấp ủy, chỉ huy cần tập trung làm tốt công tác giáo dục để nâng cao nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nhiệm vụ và trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân và nhân dân ý nghĩa, tầm quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện tốt công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo nhất là trên các địa bàn đặc biệt khó khăn, liên hệ chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương nơi đóng quân, tham gia có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân trên địa bàn, đi đầu giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng đến các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Quan tân xây dựng và củng cố đoàn kết quân dân, góp phần quan trọng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quân - dân.

XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” BẢO VỆ TỔ QUỐC GẮN VỚI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VỮNG MẠNH

 


Xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trong đó, hệ thống chính trị cơ sở là nơi cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng đến các tầng lớp nhân dân, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành xã hội ở địa phương. Do đó, xây dựng “thế trận lòng dân” luôn phải đặt trong mối quan hệ với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh. 

Theo đó, cần tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống cho đội ngũ đảng viên; thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Qua đó, không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhân dân, giải quyết có hiệu quả các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những bức xúc của nhân dân. Tuyệt đối không để kẻ thù lợi dụng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, ảnh hưởng niềm tin của nhân dân với hệ thống cơ sở chính trị địa phương.

Cần có sự quan tâm đặc biệt đối với các địa bàn biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng và thực hiện giải pháp toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa.

Người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Muốn hiểu Việt Nam phải hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh. Một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là quá trình tìm tòi, định hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, căn cứ vào thực tiễn quá trình đổi mới ở Việt Nam, đã có sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc tìm tòi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam. Nhiều người Việt Nam coi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà lãnh đạo cấp cao thể hiện rõ nét nhất tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông chính là tấm gương tiêu biểu cho đạo đức cách mạng trong sáng và lối sống giản dị. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xứng đáng là người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” BẢO VỆ TỔ QUỐC

 


Đây là vấn đề “then chốt” trong xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Hiệu quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội sẽ tác động trực tiếp đến củng cố nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhân dân, góp phần khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Cần tập trung thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, nhất là trên các địa bàn khó khăn, biên giới, hải đảo; đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, có các chính sách đầu tư và chính sách hỗ trợ nhân dân phát triển kinh tế… Phát triển kinh tế gắn với giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh; bảo đảm mỗi chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều gắn kết chặt chẽ với tăng cường quốc phòng an ninh, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng, củng cố địa bàn an toàn, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, nhất là vùng sâu, vùng xa, hải đảo, những địa bàn đặc biệt khó khăn theo tinh thần “kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, nhất là tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, khu kinh tế trọng điểm”. Việc kết hợp chặt chẽ kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại phải phù hợp với đặc điểm, thế mạnh của từng địa phương. 

CỦNG CỐ, NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN VÀ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC

 


Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt, tác động trực tiếp đến nhận thức, thái độ, trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân, trên cơ sở đó, định hướng hành động xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Thông qua giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc; quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” trong tình hình mới… tạo sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Hiện nay, tình hình thế giới, trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn, thử thách; các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng nước ta, đặt ra yêu cầu nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về thời cơ, thách thức với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, những yêu cầu mới nhằm củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Do đó, cần “đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc”…

Tiếp tục các giải pháp tăng lương bền vững

 Tiếp tục các giải pháp tăng lương bền vững

Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, chắc chắn, bài bản, khoa học để thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Năm 2024, Quốc hội giao Chính phủ triển khai thực hiện các nội dung đã rõ, đủ điều kiện để thực hiện, gồm: Hoàn thiện chế độ nâng lương; bổ sung chế độ tiền thưởng; quy định nguồn kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập. Mới đây, ngày 30-6, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó đã hướng dẫn cụ thể nguồn kinh phí thực hiện việc tăng lương cơ sở…

Về trung và dài hạn, Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ đề ra cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, tập trung vào việc xây dựng các bảng lương và chế độ phụ cấp mới, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về các chế độ, chính sách gắn với mức lương cơ sở, vị trí việc làm trong hệ thống chính trị và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, bảo đảm tính khả thi, công bằng, hợp lý, tổng thể, phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội và nguồn lực của đất nước.

Theo Bộ Nội vụ, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và lãnh đạo các bộ, ngành đã ban hành 39 thông tư hướng dẫn và 100% bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành phê duyệt Đề án vị trí việc làm. Thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng danh mục vị trí việc làm xã hội; bản mô tả công việc và khung năng lực của vị trí việc làm; tiếp tục rà soát tổng thể tất cả bảng lương và nghiên cứu, tính toán hài hòa vấn đề phụ cấp, khen thưởng và một số chế độ đặc thù của lực lượng vũ trang và của cán bộ, công chức, viên chức một số chuyên ngành (đặc biệt là phụ cấp theo nghề) mà trong quá trình thực hiện có phát sinh bất hợp lý…. Trên cơ sở đó tính toán nguồn lực và có giải pháp thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tiền lương xã hội.

Tóm lại, việc tăng lương cho người lao động đang được triển khai theo chủ trương và lộ trình trung và dài hạn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ; đồng thời, bám sát sự phát triển chung của nền kinh tế, phù hợp với các nguồn lực tài chính hiện có của đất nước. Việc tăng lương hay cải cách tiền lương là một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống nhân dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận được sự đồng thuận của nhân dân, đáp ứng được mong mỏi của người lao động, thể hiện tính nhất quán, tính ưu việt, nhân văn của chế độ ta…

QUAN TÂM XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” BẢO VỆ TỔ QUỐC TẠI CÁC ĐỊA BÀN CHIẾN LƯỢC, VÙNG ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN, BIÊN GIỚI, BIỂN, ĐẢO

 


Xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trên các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo là nền tảng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, bảo vệ thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. 

Đại hội XIII xác định “kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo”. Đây là phương hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trên các địa bàn; là sự cụ thể hóa quan điểm xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vào tình hình cụ thể. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới sẽ không thể hoàn thành nếu không dựa vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, “thế trận lòng dân” vững chắc. 

ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC LÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” BẢO VỆ TỔ QUỐC

 


Cốt lõi của xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc chính là sự đoàn kết, thống nhất của cả dân tộc thành một khối vững chắc xung quanh Đảng và cùng hành động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; giữ vững niềm tin, ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể dân tộc”. Do vậy, trước sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, việc quán triệt quan điểm “dân là gốc”, xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yêu cầu khách quan, là điều kiện tiên quyết góp phần phát huy sức mạnh của dân tộc trong từng thành tố của hệ thống chính trị, từng lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mỗi người dân, tạo nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

 

TƯ TƯỞNG TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ MỚI

Sáng 14/12/21, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu chỉ đạo hội nghị. Trên cơ sở khái quát những thành tựu đối ngoại của 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với Kết luận: “Chúng ta đã xây dựng nên trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam," "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển" ("Thân gầy guộc, lá mong manh, mà sao nên lũy, nên thành tre ơi!"), thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.”

Tổng Bí thư đã khẳng định:

Về phương hướng đối ngoại: Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; đối ngoại của các cấp, các ngành, các địa phương, các cơ quan, đơn vị, cộng đồng các doanh nghiệp. Đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất, thiết thực; huy động và kết hợp có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Không ngừng đổi mới, sáng tạo trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn bài học "dĩ bất biến, ứng vạn biến," kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt về phương pháp, sách lược.

Mặc dù Tổng Bí thư đã đi xa nhưng tư tưởng về phương hướng đối ngoại sẽ mãi mãi trường tồn và định hướng cho hành động của các thế hệ con người Việt Nam thời kỳ mới./.

XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY MẠNH MẼ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” LÀM NỀN TẢNG CHO SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC

 


Nhất quán quan điểm về xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định và nâng tầm quan điểm về “thế trận lòng dân”, đặt vấn đề xây dựng “thế trận lòng dân” trong tính chỉnh thể với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. 

Đại hội XII xác định: “xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân”, tới Đại hội XIII đã có sự bổ sung, phát triển khi khẳng định, xây dựng “thế trận lòng dân” ngay trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân: “xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dânvững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”.

Có thể thấy rằng, việc xác định “xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân” làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong Văn kiện Đại hội XIII thể hiện bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng. So với các kỳ đại hội trước, “thế trận lòng dân” được đặt lên hàng đầu trong mối quan hệ với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. 

Đây không đơn thuần là sự sắp xếp cơ học mà đó là sự khẳng định, bổ sung, có sự phát triển mới trong tư duy của Đảng ta về đường lối quân sự, quốc phòng và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự xác định rõ vị trí, ý nghĩa “thế trận lòng dân”. Bởi vốn dĩ  “thế trận lòng dân” nằm trong lòng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân chứ không phải nằm ngoài như một yếu tố để tạo nền tảng. “Thế trận lòng dân” thâm nhập vào từng yếu tố, tạo sức mạnh nội sinh từ bên trong, góp phần xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” ĐƯỢC ĐẶT TRONG QUAN ĐIỂM NHẤT QUÁN “DÂN LÀ GỐC”, NHÂN DÂN LÀ CHỦ THỂ, LÀ TRUNG TÂM CỦA NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

 


 

Bài học sâu sắc nhất mà Đảng ta rút ra từ thực tiễn cách mạng là huy động, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, nhân dân thực sự là trung tâm của mọi quan điểm, đường lối lãnh đạo. Tư tưởng dựa vào dân, lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc luôn nhất quán, xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VI của Đảng xác định “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc”. Đại hội VII và Đại hội VIII, bài học “lấy dân làm gốc” tiếp tục được Đảng ta khẳng định, Đại hội IX chỉ rõ “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân”… đến Đại hội XII, tư tưởng “dân là gốc” tiếp tục được khẳng định, trở thành một trong 5 bài học được Đảng ta đúc kết: “đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Phát triển tư tưởng “dân làm gốc”, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đặt xây dựng “thế trận lòng dân” trong quan hệ nhất quán với tư tưởng phát huy vai trò của nhân dân, nhân dân là chủ thể của công cuộc đổi mới, của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội XIII xác định: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. 

Như vậy, quan điểm xây dựng “thế trận lòng dân” theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng là thống nhất và kế thừa quan điểm “dân là gốc”. Cuộc sống, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, hạnh phúc ấm no của nhân dân là cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Ở chiều ngược lại, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là điều kiện bảo đảm thắng lợi của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhân dân thực sự là chủ thể, là trung tâm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” BẢO VỆ TỔ QUỐC LÀ SỰ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO VÀ QUAN ĐIỂM XUYÊN SUỐT, NHẤT QUÁN CỦA ĐẢNG TA

 


Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nư­­ớc và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy: Khi “lòng dân thuận” thì nước mạnh, “lòng dân ly tán” thì nước yếu. Vì vậy, bài học hàng đầu mà ông cha ta đúc kết là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”… Sự mất hay còn của nền độc lập dân tộc, sự hưng thịnh hay suy vong của các triều đại hầu hết đều do yếu tố “lòng dân” được nhận thức đúng, được quan tâm, chăm lo xây dựng hay bị coi nhẹ, xem thường thông qua thực thi các chính sách. 

Thực tiễn lịch sử cho thấy, triều đại phong kiến nào chú trọng việc “quy tụ lòng người”, biểu thị được nguyện vọng, ý chí và tình cảm thống nhất mạnh mẽ của cả dân tộc và nêu cao tư tưởng “trọng dân”, “an dân”, “nước lấy dân làm gốc”, “chúng chí thành thành”… thì quy tụ được lòng dân, tạo dựng được “thế trận lòng dân” vững chắc để đánh bại những kẻ thù xâm lược, giữ yên bờ cõi, bảo vệ độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, dù có thành cao, hào sâu và “nỏ thần” lợi hại như thời An Dương Vương hoặc quân đội hùng hậu, thành lũy kiên cố thời nhà Hồ, nhưng do không giữ được lòng dân, không có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, là nguyên nhân căn bản dẫn đến thất bại. 

Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn lại lịch sử dân tộc và yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, chúng ta thấy rõ sự khẳng định, phát triển của Đảng ta về xây dựng “thế trận lòng dân” là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn.

Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ nhân chân chính của lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân “không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước” và “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được…”. 

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, kế thừa bài học lịch sử, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng yếu tố “lòng dân”, lấy việc xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực chủ yếu để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho công cuộc giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Người khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người luôn nhấn mạnh, yếu tố quyết định sự thành công của cách mạng là sự đồng sức, đồng lòng của toàn dân, là sự đoàn kết “muôn người như một” dưới sự lãnh đạo của Đảng: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí”.

Xây dựng “thế trận lòng dân”trong các giai đoạn từ khi Đảng ra đời đến trước đổi mới. Đảng ta đã lãnh đạo giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, có chính sách phù hợp với quyền lợi của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; tạo nên sự đồng thuận, gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, là cơ sở để huy động nhân lực, vật lực, tăng cường sức mạnh thế trận chiến tranh nhân dân. Tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do, ý chí tự lực, tự cường, niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta được phát huy cao độ. Qua đó, Đảng ta đã tạo ra sự đồng thuận trong toàn dân, giữa Đảng với nhân dân để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và giữ vững thành quả cách mạng. 

Chính việc tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng cả trong nước và quốc tế, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền vào tháng 8 năm 1945; làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; chiến thắng lịch sử ngày 30-4-1975, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới, cả nước đi lên CNXH và bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. 

Xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức và đánh giá đúng tình hình thực tiễn, qua các kỳ đại hội, Đảng đã đề ra, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Những chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã thu hút ngày càng đông đảo quần chúng tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, động viên các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết chặt chẽ tạo thành thế trận vững chắc. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân về con đường đi lên CNXH được tăng cường, đó là những điều kiện thuận lợi để củng cố “thế trận lòng dân” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu của đất nước qua hơn 35 năm đổi mới cả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhất là vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao đã cho thấy rõ điều đó.

Cho đến trước Đại hội X của Đảng, trong các văn kiện chính thức, Đảng ta chưa sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân”, nhưng tư tưởng “dựa vào dân”, lấy “dân làm gốc”, “đoàn kết toàn dân để tạo sức mạnh tổng hợp” luôn nhất quán, xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng. 

Tại Đại hội X, lần đầu tiên thuật ngữ “thế trận lòng dân” được Đảng ta sử dụng khi nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”. 

Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương châm giữ nước là phải chăm lo xây dựng cho “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”. Trong đó, Trung ương đặc biệt nhấn mạnh đến yêu cầu về không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. 

Đại hội XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”. 

Khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng có tính cốt tử của “lòng dân” và “thế trận lòng dân”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”. Đồng thời, nhấn mạnh: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân”. 

 

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG
VỀ NGUYÊN TẮC ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ MỚI

Sáng 14/12/21, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu chỉ đạo hội nghị. Trên cơ sở khái quát những thành tựu đối ngoại của 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với Kết luận: “Chúng ta đã xây dựng nên trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam," "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển" ("Thân gầy guộc, lá mong manh, mà sao nên lũy, nên thành tre ơi!"), thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.”

Tổng Bí thư đã khẳng định:Về nguyên tắc đối ngoại: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. 

Mặc dù Tổng Bí thư đã đi xa nhưng tư tưởng đó sẽ mãi mãi trường tồn và định hướng cho hành động của các thế hệ chúng ta thời kỳ mới./.

 

QUÂN ĐỘI CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC, TRIỂN KHAI ĐỒNG BỘ, TOÀN DIỆN, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG

 


Quân đội chủ động, tích cực, triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc phòng song phương, đa phương; củng cố tin cậy chiến lược với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và bạn bè truyền thống. Kịp thời nhận diện, xử lý đúng đắn, hài hòa, linh hoạt đối tác, đối tượng quốc phòng, không để bị động, bất ngờ. Tranh thủ tối đa sự ủng hộ quốc tế, thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” bằng biện pháp hòa bình. Tham gia tích cực, có trách nhiệm các diễn đàn đa phương khu vực, quốc tế và hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế khắc phục hậu quả chiến tranh, rà phá bom, mìn, xử lý chất độc hóa học, góp phần bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

QUÂN ĐỘI TẬP TRUNG BẢO ĐẢM ĐẦY ĐỦ, KỊP THỜI HẬU CẦN, KỸ THUẬT VÀ CÁC MẶT CÔNG TÁC

 


Bảo đảm đầy đủ, kịp thời hậu cần, kỹ thuật và các mặt công tác đáp ứng các nhiệm vụ. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Triển khai hiệu quả các chương trình, đề án, dự án ngành hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, khoa học quân sự, với tinh thần chủ động, tích cực, phát huy nội lực, tự lực, tự cường. Nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực, tạo đột phá mới, làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa các loại vũ khí trang bị, vật tư kỹ thuật, sản phẩm công nghiệp quốc phòng công nghệ cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại.

COI TRỌNG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ

 


Coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, Đảng bộ Quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh, gương mẫu, tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần “7 dám”(7) đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thông tin, tuyên truyền; bảo vệ chặt chẽ chính trị nội bộ, an ninh, an toàn của toàn quân. Thực hiện nền nếp, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng, Phong trào Thi đua Quyết thắng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Triển khai hiệu quả công tác dân vận, chính sách, hoạt động “đền ơn, đáp nghĩa”, phong trào thi đua “dân vận khéo”, “đơn vị dân vận tốt”, góp phần củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc.