Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam cho thấy: Khi “lòng dân thuận” thì nước mạnh, “lòng dân ly tán” thì nước
yếu. Vì vậy, bài học hàng đầu mà ông cha ta đúc kết là “việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân” và “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ
nước”… Sự mất hay còn của nền độc lập dân tộc, sự hưng thịnh hay suy vong của
các triều đại hầu hết đều do yếu tố “lòng dân” được nhận thức đúng, được quan
tâm, chăm lo xây dựng hay bị coi nhẹ, xem thường thông qua thực thi các chính
sách.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, triều đại phong kiến nào chú trọng việc “quy
tụ lòng người”, biểu thị được nguyện vọng, ý chí và tình cảm thống nhất
mạnh mẽ của cả dân tộc và nêu cao tư tưởng “trọng dân”, “an dân”, “nước lấy dân
làm gốc”, “chúng chí thành thành”… thì quy tụ được lòng dân, tạo dựng được
“thế trận lòng dân” vững chắc để đánh bại những kẻ thù xâm lược, giữ yên bờ
cõi, bảo vệ độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, dù có thành cao, hào sâu và “nỏ
thần” lợi hại như thời An Dương Vương hoặc quân đội hùng hậu, thành lũy
kiên cố thời nhà Hồ, nhưng do không giữ được lòng dân, không có mối quan hệ mật
thiết với nhân dân, là nguyên nhân căn bản dẫn đến thất bại.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn đứng vững trên lập
trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn lại
lịch sử dân tộc và yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ,
chúng ta thấy rõ sự khẳng định, phát triển của Đảng ta về xây dựng “thế
trận lòng dân” là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ nhân
chân chính của lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân “không
phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước” và
“Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền
phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể
thực hiện được…”.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân, kế thừa bài học lịch sử, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng yếu tố “lòng dân”, lấy việc xây
dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực chủ yếu để tạo nên
sức mạnh tổng hợp cho công cuộc giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Người khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Người luôn nhấn mạnh, yếu tố quyết định sự thành
công của cách mạng là sự đồng sức, đồng lòng của toàn dân, là sự đoàn kết “muôn
người như một” dưới sự lãnh đạo của Đảng: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải
có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan
trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan
trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất
trí”.
Xây dựng “thế trận lòng dân”trong các giai đoạn từ khi Đảng ra đời đến
trước đổi mới. Đảng ta đã lãnh đạo giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện chính sách đoàn kết dân
tộc rộng rãi, có chính sách phù hợp với quyền lợi của các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân; tạo nên sự đồng thuận, gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, là
cơ sở để huy động nhân lực, vật lực, tăng cường sức mạnh thế trận chiến tranh
nhân dân. Tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do, ý chí tự lực, tự cường,
niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta được phát huy cao độ. Qua đó, Đảng ta
đã tạo ra sự đồng thuận trong toàn dân, giữa Đảng với nhân dân để thực
hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và giữ vững thành quả cách mạng.
Chính việc tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc, phát huy được sức mạnh
tổng hợp của mọi lực lượng cả trong nước và quốc tế, Đảng ta đã lãnh đạo toàn
dân tộc tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền vào
tháng 8 năm 1945; làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu”; chiến thắng lịch sử ngày 30-4-1975, kết thúc 21 năm
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới, cả nước đi lên CNXH và bảo vệ vững chắc chủ
quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
Xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức và đánh giá đúng
tình hình thực tiễn, qua các kỳ đại hội, Đảng đã đề ra, kiên trì thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Những chủ trương, quan điểm đúng đắn của
Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã thu hút ngày càng
đông đảo quần chúng tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, động viên các tầng lớp nhân dân, các dân tộc,
tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết chặt chẽ tạo thành thế
trận vững chắc. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, sự
đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân về con đường đi lên CNXH được tăng
cường, đó là những điều kiện thuận lợi để củng cố “thế trận lòng dân” trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu của đất nước qua hơn 35 năm đổi mới cả
về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhất là vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao đã cho thấy rõ
điều đó.
Cho đến trước Đại hội X của Đảng, trong các văn kiện chính thức, Đảng ta
chưa sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân”, nhưng tư tưởng “dựa vào dân”, lấy
“dân làm gốc”, “đoàn kết toàn dân để tạo sức mạnh tổng hợp” luôn nhất quán,
xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng.
Tại Đại hội X, lần đầu tiên thuật ngữ “thế trận lòng dân” được Đảng ta
sử dụng khi nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng thế trận lòng dân làm
nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”.
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc
trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Tổng kết 10 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta
tiếp tục khẳng định phương châm giữ nước là phải chăm lo xây dựng cho “kinh tế
phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính
trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”. Trong
đó, Trung ương đặc biệt nhấn mạnh đến yêu cầu về không ngừng củng cố, tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Đại hội XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng thế
trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân
và nền an ninh nhân dân”.
Khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng có tính cốt tử của “lòng dân”
và “thế trận lòng dân”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Làm hợp lòng dân
thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng
dân, để mất niềm tin là mất tất cả”. Đồng thời, nhấn mạnh: “trong
mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin
tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện
đúng nguyên tắc: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân
thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân”.