Thứ Ba, 24 tháng 9, 2024

Vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh.

 Hiện nay các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã trở thành hệ thống thống nhất trên toàn quốc. Đội ngũ giảng viên trường chính trị trực tiếp đảm đương nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học của nhà trường và tham gia tư vấn chính sách, tham gia công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị. Thực hiện nhiệm vụ của minh, đội ngũ giảng viên trường chính trị có vai trò quan trọng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm, sai trái thù địch.

Vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

Các giảng viên đạt danh hiệu "Giảng viên dạy xuất sắc" tại Hội thi Giảng viên dạy giỏi toàn quốc các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lần thứ VIII - năm 2023 - Ảnh: baocaovien.vn

1. Mở đầu

Xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của trường chính trị cấp tỉnh hiện nay, đội ngũ giảng viên các trường chính trị đảm đương các nhiệm vụ khá nặng nề, từ giảng dạy, nghiên cứu khoa học tổng kết thực tiễn và tham mưu, tư vấn chính sách, là tấm gương của người thày đối với các thế hệ học viên.

Xác định rõ, vai trò, nhiệm vụ là cơ sở để xây dựng hệ thống các tiêu chí cụ thể về tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá đội ngũ giảng viên, từ đó định hướng xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, cơ cấu phù hợp. Đây là điều kiện nền tảng để các trường chính trị đáp ứng hiệu quả các nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần xây dựng hệ thống chính trị các địa phương trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Để lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác cán bộ có vai trò rất lớn, là công việc gốc, trong đó công việc đào tạo, bồi dưỡng là công việc gốc của gốc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhiệm vụ của giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục (...) Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa”(1).

Trong sự nghiệp cách mạng, thông qua các hoạt động trực tiếp vào quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Các trường chính trị tỉnh, thành phố là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các địa phương, hằng năm thực hiện nhiệm vụ về tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên với chục hàng vạn học viên trên cả nước, đối tượng dự các khóa học là cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị, đảng viên trên cả nước.

2. Nội dung

Đội ngũ giảng viên ở các trường chính trị càng đặc biệt quan trọng, giữ vai trò nòng cốt, hạt nhân quyết định trực tiếp đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở.

Trường chính trị tỉnh, thành phố có chức năng là cơ sở giáo dục, đào tạo nên giảng viên trường chính trị cùng mang những đặc điểm chung của nhà giáo hệ thống giáo dục Việt Nam là: đối tượng giảng dạy trực tiếp là con người, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội; phẩm cách là nhân tố quan trọng hàng đầu nên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức; có yêu cầu cao trong nghiên cứu, giảng dạy, nên phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cao, nghiệp vụ tinh thông, khả năng lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch dạy - học và các kỹ năng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn nghề nghiệp, là tấm gương học tập suốt đời. Vai trò của đội ngũ giảng viên được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:

Một là, đội ngũ giảng viên trường chính trị là lực lượng trực tiếp đảm nhiệm vai trò chủ chốt, quyết định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các trường chính trị góp phần thực hiện mục tiêu, yêu cầu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở địa phương.

Khẳng định tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Hồ Chủ tịch chỉ rõ “Cán bộ là gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Cán bộ là khâu trọng yếu của công tác xây dựng nhân lực lãnh đạo, quản lý, muốn có cán bộ tốt, thông thạo công việc thì nhất nhiết phải huấn luyện và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách thường xuyên, có hiệu quả.

Vai trò quan trọng của đội ngũ giảng viên các trường chính trị là lực lượng trực tiếp tham gia đảm nhiệm vai trò chính, vai trò chủ chốt ở tất cả các khâu trong quy trình thực hiện đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường, từ việc xác lập các chương trình đào tạo, bồi dưỡng; quá trình xây dựng, phát triển chương trình; trực tiếp giảng dạy tất cả các bài, chuyên đề, nội dung trong các chương trình đó; hướng dẫn viết, tổ chức chấm đồ án, khóa luận tốt nghiệp... đến trực tiếp đánh giá chất lượng học tập của học viên.

Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, được áp dụng nhiều vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo làm tăng khả năng nhận thức của học viên. Nhưng suy cho cùng, tất cả các ứng dụng trên chỉ có thể là công cụ hỗ trợ, giúp quá trình nhận thức được thuận lợi hơn chứ không thể thay thế được vai trò chủ đạo của người giảng dạy trực tiếp. Vì vậy, giảng viên vẫn luôn đóng vai trò “trung tâm” của quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Chất lượng công tác của giảng viên luôn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Hai là, đội ngũ giảng viên trường chính trị là lực lượng nòng cốt, trực tiếp giáo dục, tuyên truyền sâu rộng về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 13-11-2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quy định số 09-Qđi/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Để thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, đội ngũ giảng các trường là lực lượng nòng cốt, lực lượng quan trọng nhất thực hiện phần lớn nhiệm vụ chính trị.

Thông qua công tác giảng dạy các chuyên đề, bài giảng, giảng viên trực tiếp truyền thụ đến người học hiểu sâu, hiểu đúng về những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra ở trong nước và trên thế giới.

Đội ngũ giảng viên trực tiếp trang bị cho người học thế giới quan, phương pháp luận khoa học, niềm tin vững chắc vào Đảng Cộng sản Việt Nam; trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu và thực hiện nghiêm, thực hiện đúng chủ trương, đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Ngăn ngừa, đẩy lùi những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, bóp méo sự thật để trục lợi cá nhân.

Ba là, đội ngũ giảng viên trường chính trị là lực lượng trực tiếp tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Nghị quyết 37/NQ-TW đã xác định rõ tầm quan trọng ngày càng cao của công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn.

Đây được xác định là một trong những nhóm nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của các trường chính trị. Đây là động lực thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ cán bộ, giảng viên, đòi hỏi họ phải nỗ lực phấn đấu, nâng cao trình độ, chuyên môn đáp ứng hiệu quả nhiệm vụ trên.

Đội ngũ giảng viên luôn là lực lượng xung kích hàng đầu trực tiếp tham gia thực hiện toàn bộ quá trình nghiên cứu: từ xác định định hướng, vấn đề cần nghiên cứu, các loại hình nghiên cứu đến xây dựng tổng quan, đề cương nghiên cứu và trực tiếp tham gia viết chuên đề khoa học, tổng kết, hoàn thiện đề tài khoa học, công bố kết quả nghiên cứu và thực hiện các giải pháp ứng dụng vào thực tiễn.

Qua các hoạt động khoa học, đội ngũ giảng viên đóng góp trực tiếp vào công tác tuyên truyền, phổ biến đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân về thực hiện nghiêm, hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bốn là, đội ngũ giảng viên trường chính trị đóng vai trò là chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị.

Qua việc trực tiếp giáo dục, bồi dưỡng, tuyên truyền về các nội dung liên quan đến khoa học lý luận chính trị, giảng viên các trường chính trị góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; trực tiếp trang bị cho người học thế giới quan, phương pháp luận khoa học, lý tưởng, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế chính trị - xã hội ở địa phương.

Giảng viên các trường chính trị là đội ngũ tiên phong trong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, trực tiếp tham gia đấu tranh, phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện truyền thông qua những bài phát biểu trên các diễn đàn khoa học, bài viết trên sách, báo, tạp chí và các sản phẩm khoa học của mình.

Năm là, đội ngũ giảng viên trường chính trị có vai trò quan trọng trong việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị góp phần xây dựng trường chính trị phát triển vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao trong giai đoạn mới.

Là lực lượng trực tiếp quán triệt và thực hiện thắng lợi chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy các trường, trước hết là nghị quyết của các cấp đảng bộ ở đơn vị. Đây là lực lượng chủ yếu đóng góp vào việc xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, trực tiếp giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên thuộc khoa, phòng, ban chuyên môn về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong cách công tác... đóng góp vào thành công và sự vững mạnh chung của các trường chính trị.

Sáu là, đội ngũ giảng viên trường chính trị có vai trò quan trọng trong bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện, là tấm gương mẫu mực về nhân cách cho học viên noi theo.

Dựa trên nguyên tắc của hành động “kỷ cương - đồng bộ - sáng tạo - hiệu quả”, để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trong giáo dục, rèn luyện học viên, các trường chính trị luôn xác định muốn có chất lượng tốt thì đội ngũ giảng viên phải tốt, học viên phải tốt và quy trình đào tạo, bồi dưỡng phải tốt.

Trong tiêu chuẩn giảng viên tốt, trước hết đội ngũ này phải có nhân cách người thày, nhân cách của giảng viên bao gồm: phẩm chất (trình độ chuyên môn, lý tưởng nghề nghiệp, lòng yêu thương học viên...) và năng lực (năng lực sư phạm, khả năng hiểu, hòa nhập với học viên, khả năng về biên soạn tài liệu học - tập, giáo án...). Giảng viên có tình yêu trong công việc là điều kiện quan trọng trở thành giảng viên tốt, đội ngũ giảng viên trường chính trị luôn ý thức rõ được vị trí cao quý của “người thầy” trong giáo dục, rèn luyện học viên, luôn phấn đấu là tấm gương sáng để học viên nhìn vào, noi gương.

Ngay từ khi được tuyển dụng vào là giảng viên, đến quá trình phát triển bản thân luôn phấn đấu hoàn thiện bản thân cả về đức và tài, coi đó là nguyên tắc, mục tiêu hàng đầu trong thực hiện nhiệm vụ.

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu và yêu cầu có tính đặc thù cao về vai trò, vị trí trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, cho nên cùng với phát huy tốt vai trò đội ngũ giảng viên trường chính trị, trong các giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên trường chính trị hiện nay, cần phải chú ý đến những đặc điểm riêng của đội ngũ này trên các phương diện cụ thể như sau:

Thứ nhất, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, trình độ khoa học lý luận chính trị và năng lực công tác phù hợp, đồng thời phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Từ yêu cầu công việc có tính đặc thù về đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng hằng năm, là đội ngũ cán bộ có trình độ cao (đa số đã tốt nghiệp đại học trở lên); nghiệp vụ vững vàng; có rất nhiều kinh nghiệm trong thực hiện công vụ do đã có thời gian dài công tác trong ngành, lĩnh vực phụ trách trước khi được cử đi học tập; đặc biệt có kiến thức thực tiễn phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực xã hội.

Nội dung học tập, bồi dưỡng chủ yếu tập trung về chuyên ngành khoa học lý luận, với trách nhiệm làm rõ hơn, sáng tỏ hơn về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn về xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật. Ngay từ các khâu xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu...đã đòi hỏi đội ngũ giảng viên trường chính trị phải có trình độ chuyên môn cao, sâu, rộng, có nghiệp vụ giỏi, đặc biệt là đội ngũ giảng dạy ở khoa lý luận cơ sở và khoa xây dựng Đảng phải là đảng viên. Đây cũng là một trong những tiêu chí bắt buộc về điều kiện tiêu chuẩn với chức danh nghề giảng viên trường chính trị đã được quy định.

Thứ hai, được đào tạo cơ bản, có chuyên ngành phù hợp với nội dung của nhà trường; có trình độ về lý luận chính trị cao. Theo số liệu khảo sát, tính đến năm 2023, số cán bộ ở các trường chính trị có trình độ từ thạc sĩ trở lên là 1.900 người, chiếm gần 62% tổng số cán bộ, viên chức hiện có của các trường, tập chung chính ở đội ngũ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy; số lượng cán bộ, viên chức có trình độ lý luận chính trị cao cấp chiếm đa số (trên 50%), còn lại cơ bản có trình độ trung cấp lý luận chính trị - hành chính, số ít chưa có tập trung chủ yếu ở đội ngũ cán bộ, viên chức trẻ, mới được tuyển dụng hoặc đối tượng làm công tác hành chính, phục vụ; hơn 80% được học tập, bồi dưỡng phương pháp giảng dạy hiện đại; bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bồi dưỡng giảng dạy chuyên ngành khoa học lý luận. Đại đa số được đào tạo bài bản ở những cơ sở đại học có uy tín trong và ngoài nước; có chuyên ngành phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị, chủ yếu tốt nghiệp các chuyên ngành về khoa học lý luận chính trị (triết học, xây dựng Đảng chính quyền nhà nước, lịch sử Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh...) kinh tế, luật - hành chính. Đây là cơ sở quan trọng giúp các trường hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị được giao hằng năm.

Thứ ba, là người chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định, nhạy cảm chính trị, thường xuyên tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Là những người có khả năng, kỹ năng áp dụng những phương pháp giảng dạy tích cực và hiện đại vào bài giảng, đội ngũ giảng viên thông qua bài giảng khẳng định lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đội ngũ cán bộ ở địa phương.

Thứ tư, thường xuyên được trau dồi kiến thức thực tiễn thông qua nhiều hình thức. Với vị trí, vai trò có tính riêng biệt, đặc thù từ nội dung thực hiện nhiệm vụ đến đối tượng tham gia và các chương trình học tập, đặc biệt có yêu cầu cao về kiến thức thực tiễn gắn liền với thực hiện nhiệm vụ. Do vậy ngay từ khi xây dựng chiến lược phát triển trường chính trị; xây dựng hệ thống các quy chế, quy định thực hiện ở đơn vị đã xác định rõ một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của đội ngũ giảng viên là phải thường xuyên được trải nghiệm những kiến thức từ thực tiễn thông qua các hình thức thực hiện như: đi biệt phái ở cơ sở; tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào tổng kết thực tiễn ở địa phương; tham dự hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học; tham gia viết bài trên sách, báo, tạp chí; tham gia các nhóm nghiên cứu theo từng nội dung, chuyên ngành cụ thể.

3. Kết luận

Đội ngũ giảng viên trường chính trị có vị trí, vai trò trụ cột, hạt nhân trong mọi hoạt động của nhà trường. Đội ngũ giảng viên trường chính trị không chỉ đơn thuần là trực tiếp đảm đương công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà còn là tấm gương mẫu mực để thế học viên noi theo.

Đánh giá đúng vai trò, đặc điểm của đội ngũ giảng viên trường chính trị là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết để trên cơ sở xác định rõ tiêu chí, tiêu chuẩn giảng viên, góp phần thực hiện nhiệm vụ của các trường chính trị cấp tỉnh hiện nay, đi tới xây dựng được hệ thống các tiêu chí đánh giá cụ thể về chất lượng đội ngũ giảng viên, từ đó xây dựng thành công đội ngũ giảng viên có trình độ cao, chuyên môn giỏi, có cơ cấu phù hợp, có phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp tốt, để các trường chính trị đáp ứng hiệu quả các nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, địa phương trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Bồi dưỡng năng lực của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên trong nhà trường quân đội.

 Đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên ở các nhà trường quân đội là một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục. Năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ này có vai trò rất quan trọng, là cơ sở để cán bộ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, đồng thời là nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng giáo dục, đào tạo của các nhà trường quân đội. Bài viết làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp bồi dưỡng năng lực của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong nhà trường quân đội hiện nay. Đây cũng là những kinh nghiệm đối với công tác quản lý học viên, sinh viên các trường đại học, cao đẳng.

Bồi dưỡng năng lực của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên trong nhà trường quân đội
Chính trị viên Đại đội Liên kết Bách khoa, Tiểu đoàn 1 tận tình hướng dẫn học viên thực hiện sắp xếp nội vụ vệ sinh_Ảnh: qdnd.vn

1. Đặt vấn đề

Đội ngũ cán bộ quản lý học viên ở các nhà trường quân đội là lực lượng nòng cốt, trực tiếp quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, chỉ huy các cấp phù hợp với thực tế đơn vị quản lý học viên ở các nhà trường quân đội. Không những vậy, đây còn là lực lượng nòng cốt lãnh đạo, nâng cao chất lượng các mặt hoạt động của đơn vị quản lý học viên ở các nhà trường quân đội. Cán bộ quản lý học viên là người cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với học viên; mỗi lời nói và hành động của cán bộ đơn vị quản lý học viên có ảnh hưởng trực tiếp đến tư cách, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của học viên. Do đó, cán bộ quản lý học viên chính là hạt nhân, trung tâm đoàn kết trong đơn vị; là “cầu nối” phản ánh tâm tư, nguyện vọng của học viên đến cấp ủy, chỉ huy, cán bộ quản lý các cấp. Để đội ngũ này thật sự phát huy vai trò trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, đòi hỏi phải thường xuyên quan tâm bồi dưỡng năng lực toàn diện.

2. Thực trạng bồi dưỡng năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên ở các nhà trường quân đội

Năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên là một bộ phận trong năng lực của cán bộ nói chung, đó là năng lực có tính chuyên biệt, chuyên sâu, là sự kết tinh kiến thức, kỹ năng và khả năng huy động các yếu tố đó để tiến hành hoạt động quản lý có hiệu quả theo cương vị, chức trách của từng người, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường. Năng lực đó được hình thành và phát triển gắn liền với hoạt động quản lý học viên.

Hoạt động quản lý học viên là quản lý con người, quản lý quân nhân nhưng có đặc thù là gắn liền với hoạt động giáo dục, đào tạo. Do vậy, năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên bao gồm hệ thống các phẩm chất, kỹ năng như: kỹ năng quản lý lịch sử chính trị của học viên; kỹ năng quản lý phẩm chất năng lực, phương pháp, tác phong công tác của học viên; kỹ năng quản lý về lập trường tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu, quyết tâm... của học viên; kỹ năng quản lý các mối quan hệ xã hội, hậu phương, gia đình của học viên; kỹ năng quản lý việc chấp hành nền nếp, chế độ học tập, sinh hoạt, công tác; kỹ năng quản lý việc chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, quy định của nhà trường và đơn vị; kỹ năng quản lý các hoạt động của học viên với tư cách thành viên của các tổ chức quần chúng, tổ chức đảng, hội đồng quân nhân đơn vị.

Bồi dưỡng năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên là tổng thể các chủ trương, nội dung, hình thức, biện pháp của chủ thể và lực lượng tham gia bồi dưỡng, nhằm củng cố, bổ sung phát triển tri thức, rèn luyện, hoàn thiện kỹ năng và nâng cao trình độ tổ chức, quản lý, chỉ huy bảo đảm cho đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Nội dung bồi dưỡng năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên tập trung vào các nội dung: bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức quản lý; bồi dưỡng kỹ năng tiến hành công tác quản lý học viên; bồi dưỡng kinh nghiệm quản lý học viên.

Hình thức, phương pháp bồi dưỡng năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên cũng hết sức đa dạng, phong phú, nhưng chủ yếu tập trung vào các hình thức: học tập, sinh hoạt chính trị; tập huấn cán bộ; thông qua hoạt động của các tổ chức trong đơn vị; thông qua hoạt động thực tiễn quản lý của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên; thông qua tham quan, diễn tập, hội thi, hội thao, sơ kết, tổng kết, đi thực tế, đi học tập...

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ quản lý học viên và năng lực quản lý học viên của lực lượng này, trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, ban giám đốc, ban giám hiệu các nhà trường quân đội, hoạt động bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý học viên luôn được quan tâm và tiến hành thường xuyên, có nền nếp.

Cấp ủy, chỉ huy các cấp đã tập trung xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên ở các nhà trường quân đội “bảo đảm đủ số lượng, bảo đảm chất lượng và từng bước chuẩn hóa”(1).

Đại đa số cán bộ đơn vị quản lý học viên có tinh thần, trách nhiệm cao; bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng; phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh; trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý, chỉ huy tốt; chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội; đảm nhiệm và thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao theo từng cương vị; góp phần quan trọng vào “công tác giáo dục và đào tạo trong Quân đội đạt được nhiều kết quả quan trọng”(2).

Tuy nhiên, còn một số cán bộ đơn vị quản lý học viên chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; trình độ năng lực, phương pháp, tác phong, chuyên môn nghiệp vụ còn có mặt hạn chế, như “năng lực ngoại ngữ, tin học và kiến thức thực tiễn”(3)... Những thiếu sót, yếu kém đó đã tác động đến chất lượng giáo dục và đào tạo ở các nhà trường quân đội. Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương “Về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới” chỉ ra những hạn chế của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các nhà trường quân đội là: “Số lượng và tỷ lệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đạt trình độ tiến sĩ, đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư, danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú còn thấp, chưa đồng đều giữa các nhà trường”(4). Đồng thời, Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ, giải pháp về “Xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục có đủ số lượng, chất lượng, có cơ cấu hợp lý, đạt chuẩn theo quy định, có đủ quân số thực hiện nhiệm vụ quản lý, giảng dạy, đi đào tạo, bồi dưỡng, đi thực tế và sẵn sàng mở rộng lực lượng khi cần thiết...”(5).

3. Giải pháp bồi dưỡng năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên

Để thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo “Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và đào tạo trong nhà trường với bồi dưỡng tại đơn vị và tự học, tự rèn luyện trong quá trình công tác”(6), một nhiệm vụ quan trọng là phải xây dựng đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên ở các nhà trường quân đội có đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng, có cơ cấu hợp lý, đạt chuẩn theo quy định. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này, các nhà trường quân đội cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng về hoạt động bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên ở các nhà trường quân đội

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”(7). Như vậy, có nhận thức đúng mới có hành động đúng; nhận thức đúng chính là cơ sở tiền đề hoạt động thực tiễn của cán bộ có tính khoa học, nhanh chóng đi đến kết quả, hạn chế được sai lầm, khuyết điểm.

Đối với cấp ủy, tổ chức đảng: trước hết cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý học viên, về năng lực quản lý học viên, đặc điểm, tính chất của hoạt động quản lý học viên. Đồng thời, phải kiên quyết đấu tranh với các quan điểm, nhận thức và hành động sai lệch, không đúng về vai trò của quản lý học viên và hoạt động bồi dưỡng năng lực quản lý học viên hiện nay.

Để thực hiện được những nội dung này, cấp ủy đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm chuyển biến về nhận thức vị trí, vai trò và việc bồi dưỡng năng lực quản lý học viên cho các tổ chức, cá nhân trong nhà trường. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc tổng kết rút kinh nghiệm về công tác quản lý học viên và bồi dưỡng năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên; đánh giá chính xác những ưu điểm, thiếu sót, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và đúc rút những kinh nghiệm để chỉ đạo những năm tiếp theo.

Thực hiện sự thống nhất, ổn định biên chế đội ngũ cán bộ các đơn vị quản lý học viên theo hướng đồng nhất mỗi đơn vị quản lý là một khóa học hoặc chuyên ngành học. Lãnh đạo thực hiện nghiêm quy chế giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng công tác khảo thí và bảo đảm chất lượng. Bởi vì, chất lượng quản lý học viên được thể hiện chủ yếu bằng kết quả học tập, rèn luyện và công tác của học viên, là tiêu chí để đánh giá phẩm chất, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên.

Đối với trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, nhất là lãnh đạo, chỉ huy các nhà trường, cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị, trên cơ sở nghị quyết của đảng ủy nhà trường về việc bồi dưỡng năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, cụ thể hóa vào nghị quyết cấp mình, xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức thực hiện bồi dưỡng năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ cấp mình cho phù hợp với đặc điểm của đơn vị.

Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các chương trình, kế hoạch bồi dưỡng đã được xác định, từ đó đánh giá chính xác việc chấp hành của từng đơn vị. Cán bộ chủ trì trực tiếp làm công tác quản lý học viên phải thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng tại chỗ, luôn bám sát hoạt động của đơn vị, đặc điểm của đội ngũ cán bộ trong đơn vị kịp thời phát hiện, ngăn chặn những vấn đề nảy sinh, những yếu kém trong đơn vị.

Đối với cơ quan chức năng, cần thực hiện tốt việc tham mưu, đề xuất đúng, trúng nội dung bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hằng năm; cụ thể hóa thành hướng dẫn, kế hoạch và triển khai tổ chức thực hiện đồng bộ, thống nhất trong toàn trường.

Hai là, xác định đúng nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp bồi dưỡng năng lực quản lý học viên cho đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên các nhà trường quân đội

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng khâu trung tâm của công tác cán bộ là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, “Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác”(8). Xác định đúng nội dung là cơ sở để vận dụng phương pháp bồi dưỡng phù hợp và hiệu quả.

Xác định đúng nội dung bồi dưỡng năng lực quản lý học viên cho đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên, tập trung vào những nội dung sau:

(1) bồi dưỡng về trình độ chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ và trình độ sư phạm. Người làm công tác quản lý học viên đòi hỏi phải có phẩm chất chính trị, bản lĩnh kiên định, vững vàng; phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ toàn diện; có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; có kinh nghiệm thực tiễn và những hiểu biết xã hội cần thiết cho công tác quản lý; có trình độ sư phạm cần thiết để đáp ứng yêu cầu tư cách là người thầy thứ hai của học viên.

(2) nâng cao trình độ quản lý con người, trọng tâm là quản lý lịch sử chính trị, tư tưởng, quản lý thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Đây là nội dung trọng tâm, điển hình của công tác quản lý học viên. Do vậy, cần tập trung bồi dưỡng cán bộ quản lý về khoa học quản lý con người, nhất là khoa học tâm lý. Bồi dưỡng kinh nghiệm trong phán đoán, nghiên cứu, nhận biết nhân cách học viên, nhất là về những đặc điểm cá nhân riêng biệt, như cảm xúc, tình cảm, thể chất, khí chất, thói quen hành vi... Bồi dưỡng cho cán bộ có trình độ quản lý, lưu trữ và nghiên cứu tổng hợp, phân loại, bổ sung lịch sử chính trị của học viên. Bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý học viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, trọng điểm là nhiệm vụ huấn luyện, rèn luyện kỷ luật xây dựng chính quy. Bồi dưỡng kỹ năng điều hành huấn luyện, tổ chức rèn luyện học viên, nhất là kỹ năng tổ chức giờ tự học tại đơn vị. Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức các hoạt động phương pháp; xây dựng kế hoạch hoạt động ngoại khóa, tổ chức hoạt động thi đua; phân loại học lực... Bồi dưỡng kỹ năng quản lý kỷ luật, xây dựng chính quy; trọng tâm là bồi dưỡng kiến thức về pháp luật, về điều lệnh quản lý bộ đội, kỷ luật quân đội, quy định của nhà trường; kỹ năng kiểm tra, đánh giá chất lượng thực hiện chế độ nền nếp chính quy...

(3) bồi dưỡng kiến thức, trình độ xây dựng các tổ chức, xây dựng và phát triển những phẩm chất người cán bộ cho học viên. Hoạt động quản lý học viên chủ yếu thông qua các tổ chức, với các quy chế, quy định ràng buộc học viên trong những khuôn khổ nhất định mà ở đó học viên được học tập, rèn luyện phát triển nhân cách toàn diện. Do đó, nhất định phải bồi dưỡng trình độ xây dựng các tổ chức trong đơn vị vững mạnh, làm cơ sở để thực hiện quản lý học viên một cách toàn diện, hiệu quả.

Để thực hiện các nội dung đã xác định, cấp ủy, tổ chức đảng và người chỉ huy phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp bồi dưỡng như: cử cán bộ đi học, đi thực tế, dự nhiệm, tập huấn cán bộ hằng năm, thông qua hoạt động thực tiễn hằng ngày để bồi dưỡng, cấp trên bồi dưỡng cho cấp dưới, người biết bồi dưỡng cho người chưa biết.

Ba là, kết hợp bồi dưỡng năng lực quản lý học viên với bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ ở đơn vị quản lý học viên

Để có năng lực quản lý học viên tốt, cần phải có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, thật sự là tấm gương để học viên noi theo. Thực tế hành động của cán bộ quản lý học viên là mệnh lệnh không lời đối với học viên.

Năng lực và phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cũng chính là mối quan hệ giữa “đức” và “tài” trong nhân cách người cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn... Nói tóm lại, chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng... Đức phải có trước tài”(9). Chính phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống là thành tố quan trọng của năng lực quản lý học viên. Hoạt động quản lý học viên là hoạt động làm mẫu, làm gương của cán bộ, cán bộ quản lý làm trước, học viên noi theo, góp phần thực hiện tốt phương châm: “Trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo”. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, vừa là yêu cầu bức thiết, vừa là giải pháp quan trọng hiện nay

Bốn là, phát huy tính tích cực, chủ động trong tự học tập, rèn luyện, tự bồi dưỡng năng cao năng lực quản lý học viên của đội ngũ cán bộ ở các đơn vị quản lý học viên

Phát huy tinh thần tự bồi dưỡng nâng cao năng lực của bản thân mỗi cán bộ là hình thức rất quan trọng, đây là yếu tố trực tiếp quyết định đến việc phát triển năng lực quản lý học viên của cán bộ. Để thực hiện tốt hình thức này, các cấp lãnh đạo, chỉ huy phải có cơ chế, chế tài khích lệ, phát huy nỗ lực chủ quan của mọi cán bộ trong việc tự bồi dưỡng. Cần gắn trách nhiệm, kết quả quản lý học viên với đánh giá nhận xét, đề bạt, bổ nhiệm, cử đi học của cán bộ. Lấy kết quả tiến bộ của tập thể học viên để đánh giá năng lực quản lý của cán bộ. Kịp thời biểu dương, nhân rộng mô hình cán bộ quản lý tốt, kiểm điểm nhắc nhở, phê bình cán bộ thiếu trách nhiệm trong quản lý học viên. Cấp ủy, tổ chức đảng, người chủ trì cần công minh, công bằng trong đánh giá thi đua của các đơn vị cũng như trong đánh giá cán bộ, đấu tranh khắc phục tình trạng cục bộ, bè phái, tiêu cực trong công tác quản lý học viên.

Kết luận

Bồi dưỡng năng lực của đội ngũ cán bộ ở đơn vị quản lý học viên trong các nhà trường quân đội là công việc đòi hỏi có thời gian, lực lượng, phương tiện và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Để công tác bồi dưỡng đạt kết quả cao, sát với đòi hỏi năng lực cần có của cán bộ quản lý học viên, các cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy các cấp, các lực lượng tham gia bồi dưỡng cũng như chính đội ngũ cán bộ phải có hiểu biết và đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học viên; từ đó mới xác định đúng nội dung, phương pháp bồi dưỡng đạt kết quả cao, góp phần xây dựng các nhà trường vững mạnh tiêu biểu, mẫu mực.

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

 Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là ba yếu tố gắn bó hòa quyện chặt chẽ với nhau. Bài viết phân tích vai trò quan trọng của việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ đức, đủ tài, tổ chức đảng và hệ thống chính trị ngày càng đoàn kết, thống nhất, trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Từ khóa: học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; trong sạch, vững mạnh.

5 nguyên tắc xây dựng đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh | Luật Havip
Ảnh minh họa: IT

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, thể hiện trên những phương diện sau:

1. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị ngày càng chặt chẽ, đoàn kết, thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chỉ đạo hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm đoàn kết toàn dân tộc dưới ngọn cờ chung để đánh đổ kẻ thù, giành, giữ và xây dựng đất nước. Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh cả dân tộc đang chìm đắm trong đêm trường nô lệ, Người đã vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về các yếu tố cấu thành Đảng Cộng sản trong điều kiện nước ta là một nước thuộc địa, đưa ra các luận điểm về cơ cấu tổ chức đảng từ cấp trung ương tới cấp cơ sở, đề ra các nguyên tắc xây dựng Đảng để Đảng luôn phát triển, trong sạch, vững mạnh, phát huy vai trò lãnh đạo. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm nêu rõ yêu cầu, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh; nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp, phương thức lãnh đạo của Đảng và những nội dung, nguyên tắc xây dựng Đảng.

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng sẽ giúp các tổ chức đảng thấm nhuần những quan điểm, phương pháp luận về tầm quan trọng, nghĩa vụ, trọng trách trong xây dựng tổ chức đảng để Đảng thực sự “là đạo đức”, “là văn minh”, thực sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kiến tạo Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam - châu Á. Theo quan điểm của Người, Nhà nước ta là Nhà nước của dân “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(1); Nhà nước do dân cử ra, đồng thời, “có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”(2); Nhà nước đó tận tâm, tận lực phục vụ lợi ích của đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, “đem tài dân, sức dân, của dân” để làm lợi cho dân. Nhà nước do dân là chủ, Chính phủ là đày tớ, công bộc của dân. Nhà nước đó phải là Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, có hệ thống pháp luật và quản lý xã hội bằng luật pháp, mọi công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước là cơ sở quan trọng để giữ vững, kiên định mục tiêu xây dựng Nhà nước, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và dân tộc của Nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ hướng tới mục tiêu cao nhất vì dân, không ngừng nâng cao quyền tự do, dân chủ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Xây dựng, tổ chức Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết và phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất - hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn dân, liên minh chính trị - xã hội nhằm đoàn kết rộng rãi mọi tổ chức, cá nhân yêu nước vào một khối thống nhất, đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH. Mặt trận là phương tiện để thực hiện đoàn kết. Đồng thời, dưới tổ chức Mặt trận, Người đã chỉ đạo xây dựng các đoàn thể quần chúng nhằm tập hợp tối đa các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt để mở rộng tổ chức, mở rộng khối đại đoàn kết. Khối đại đoàn kết đó được củng cố bền chặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người cũng chỉ rõ các nguyên tắc, phương pháp hoạt động của Mặt trận.

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất nói riêng sẽ giúp Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội nhận thức rõ tầm quan trọng, nắm vững được nội dung, nguyên tắc, phương pháp hoạt động. Từ đó, vận dụng linh hoạt nhằm đạt hiệu quả cao nhất, hướng tới xây dựng đất nước phát triển phù hợp với mục tiêu, khát vọng của toàn dân.

2. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ đức, đủ tài góp phần xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “cán bộ là dây chuyền của bộ máy, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân”. Cán bộ đem chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu để thực hiện hiệu quả, mặt khác “đem tình hình, nguyện vọng của dân chúng” báo cáo với Đảng và Chính phủ để Đảng và Chính phủ đề ra chủ trương, chính sách phù hợp nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Theo Người: “Có cán bộ tốt việc gì cũng xong” và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(3). Để tổ chức đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, yếu tố quan trọng là cán bộ, đảng viên trong tổ chức đó phải trong sạch, đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của tổ chức.

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giúp cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức và tư duy lý luận, kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và CNXH

Trình độ nhận thức và tư duy lý luận có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động, công tác và hiệu quả làm việc của mỗi cán bộ, đảng viên. Trình độ nhận thức, tư duy lý luận đúng sẽ định hướng cho hành động đúng, mở đường cho bước phát triển tương lai và ngược lại sẽ dẫn tới những sai lầm, lạc lối, thậm chí khủng hoảng, làm kìm hãm sự phát triển của cá nhân, tổ chức và rộng hơn là kìm hãm sự phát triển của quốc gia, dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, bao chứa nhiều vấn đề cốt lõi của cách mạng, của công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Nắm rõ được bản chất và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền; về Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về Mặt trận dân tộc thống nhất và các tổ chức quần chúng nói riêng giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao được khả năng tư duy lý luận sắc bén, hiểu biết thấu đáo, ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như quyền lợi cá nhân trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Từ đó, cải tiến cách thức lao động, phương pháp làm việc khoa học, đúng đắn, hiệu quả, góp phần xây dựng, phát triển tổ chức đảng và hệ thống chính trị, xây dựng và phát triển đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Đổi mới tư duy, nhận thức đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển là cơ sở quan trọng để loại bỏ, bài trừ những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực, phiến diện, phản động. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đúng đắn và phù hợp, hiệu quả. Chính vì vậy, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giúp mỗi cán bộ, đảng viên kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, kiên định con đường cách mạng Việt Nam, có lập trường tư tưởng vững vàng, không dao động, ngả nghiêng trước những khó khăn, thử thách, bài trừ những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực, phiến diện, có lý luận sắc bén để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.

Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân”.

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giúp cán bộ, đảng viên nâng cao và thực hành tốt đạo đức cách mạng

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít những lãnh tụ luôn đặc biệt quan tâm, chú trọng tới đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là nội dung nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Người, được Người quan tâm từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến tận cuối đời.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là sự kết hợp những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại; truyền thống với hiện đại; phương Đông và phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Người đã đưa ra hệ thống quan điểm về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng, các phẩm chất đạo đức cách mạng cơ bản, cần có của người cán bộ, đảng viên và cả những chỉ dẫn về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.

Theo Người, để lãnh đạo được quần chúng, mỗi cán bộ, đảng viên “phải làm mực thước cho người ta bắt chước”; phải thực hiện “tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc”, nghĩa là lúc khổ sở, khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng viên ta hưởng sau; phải thực hiện “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đồng thời, Hồ Chí Minh yêu cầu phải kiên quyết chống tệ quan liêu, tham ô, lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân... trong cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nâng cao năng lực công tác, đồng thời phải tu dưỡng đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải có tinh thần “phụng công thủ pháp”; phải nhận thức rõ làm cách mạng là để chống lại tình trạng bất công, bất bình đẳng, vì vậy phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu, mẫu mực, điển hình nhất về thực hành đạo đức cách mạng, Người luôn tiên phong, gương mẫu trong mọi hoạt động, công tác trong mọi hoàn cảnh. Người đã thể hiện tinh thần tận tụy, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người nói, “cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”(4). Người chỉ có một tâm nguyện và ham muốn tới tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(5); cho đến khi phải từ biệt thế giới này, Người chỉ tiếc: “...tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”(6). Chính ham muốn và mục đích vô cùng cao đẹp ấy đã tạo cho Người ý chí và nghị lực vô song: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”(7); là cơ sở giúp Người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tìm đường, vạch đường và dẫn đường để dân tộc ta đến độc lập, tự do, hạnh phúc.

Do đó, việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh góp phần quan trọng giúp cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đạo đức cách mạng, những giá trị, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc; những chuẩn mực đạo đức cần có của người cán bộ, đảng viên và phương pháp rèn luyện đạo đức cách mạng. Học tập, làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cán bộ, đảng viên nâng cao lòng tự hào dân tộc, rèn luyện những phẩm chất đạo đức cơ bản: trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng... sống hợp đạo lý, biết phân biệt phải - trái, tốt - xấu, đúng - sai trong mọi mối quan hệ và trong công việc.

Hiện nay, trong xã hội xuất hiện sự phân tầng, phân hóa giàu nghèo, sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin, tư tưởng và tình cảm của quần chúng nhân dân với Đảng. Số liệu về tình trạng tham nhũng, lãng phí, về xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên tham nhũng lãng phí(8) đã cho thấy nguy cơ của “chủ nghĩa cá nhân” - giặc nội xâm, kẻ thù của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN. Vì vậy, việc học tập, noi gương, làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh càng trở nên cấp thiết và quan trọng hơn, nhằm đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, chống chủ nghĩa cá nhân, với tinh thần “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, lan tỏa những giá trị đạo đức cách mạng nhằm loại bỏ những thói hư, tật xấu làm kìm hãm sự phát triển xã hội.

Không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần thiết thực, hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Việc cán bộ, đảng viên rèn luyện đạo đức cách mạng và phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc là động lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng phát triển, phồn vinh, hạnh phúc.

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh giúp cán bộ, đảng viên xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác

Phương pháp có vai trò lớn trong đời sống và hoạt động thực tiễn, Đềcáctơ - triết gia người Pháp cho rằng: “thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi. Có phương pháp thì người tầm thường cũng làm việc phi thường”. Nếu đổi mới tư duy có vai trò dẫn dắt khởi nguồn cho sự tiến bộ thì cải tiến phương pháp góp phần hiện thực hóa những dự định, quan điểm đổi mới đó. Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng góp phần đem lại thắng lợi cho cách mạng.

Trong quá trình hoạt động và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều phương pháp cách mạng. Người đã tổng kết thành lý luận và thường xuyên vận dụng trong thực tiễn. Các phương pháp đó hợp thành một hệ thống hoàn chỉnh trong quá trình thực hiện mục tiêu cách mạng. Từ phương pháp xác định mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, đến các phương pháp: xác định lực lượng và tổ chức lực lượng cách mạng; “dĩ bất biến ứng vạn biến”; “tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu”, phát huy các nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” và phương pháp biết thắng từng bước. Trong thực tiễn, Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò của một phương pháp nào mà kết hợp các phương pháp để tác động tới đối tượng, khách thể ở nhiều mặt, nhiều cấp độ nhằm đạt mục tiêu tốt nhất.

Hiểu được nội dung, ý nghĩa các phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ có cách thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong thực tiễn và hoạt động để đạt hiệu quả. Vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh sẽ giúp cán bộ, đảng viên hình thành những phương pháp làm việc hiệu quả trong bối cảnh mới, từ đó, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là ba yếu tố gắn bó hòa quyện, chặt chẽ với nhau. Trong tư tưởng thể hiện đạo đức và phong cách, trong đạo đức thể hiện tư tưởng và phong cách, trong phong cách thể hiện rõ tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Do đó, học tập, làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.

Phong cách Hồ Chí Minh phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày. Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, phát triển theo lôgíc đi từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện ra qua hoạt động sống hàng ngày (phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt). Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh vực đời sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ.

Thực tiễn cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh cho thấy, đạo đức, phong cách của Người đã góp phần đưa tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của Đảng và cách mạng Việt Nam, đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.

Mỗi cán bộ, đảng viên khi học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh, từ tư duy tới hành động và trong cuộc sống sẽ góp phần hình thành phong cách người cán bộ, người lãnh đạo hết lòng vì nước, vì dân, gần dân, gắn bó mật thiết với dân, tạo niềm tin cho nhân dân theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đạt kết quả khi cán bộ, đảng viên học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh: tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo; phong cách diễn đạt chân thực, ngắn gọn, giản dị, trong sáng, dễ hiểu; phong cách làm việc quần chúng, tập thể, dân chủ, khoa học; phong cách ứng xử khiêm tốn, lịch thiệp, chân tình, nồng hậu, tự nhiên, chủ động, linh hoạt, biến hóa, vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa khoảng cách; phong cách giản dị, trong sạch, thanh cao, cách sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, quý trọng thời gian. Học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh và vận dụng linh hoạt trong điều kiện mới sẽ khắc phục được những hạn chế, bất cập như quan liêu, xa dân... Từ đó, không ngừng nâng cao chất lượng của tổ chức đảng và hệ thống chính trị, tạo niềm tin cho nhân dân vào con đường cách mạng Việt Nam, vững bước đi lên CNXH.

Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, được Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ qua các Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7-11-2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và đặc biệt là Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây là phương thức góp phần nâng cao đạo đức cách mạng, nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc, giúp mỗi cán bộ, đảng viên đủ đức, đủ tài hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ người dân tộc thiểu số tại Trường Chính trị Lê Duẩn, tỉnh Quảng Trị.

 Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên của tỉnh là một chức năng cơ bản của Trường chính trị. Thực hiện Nghị quyết 09/2018/NQ-HĐND về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2018 - 2025, chiến lược đến 2030, từ năm 2018 đến nay, Trường Chính trị Lê Duẩn, tỉnh Quảng Trị đã mở được 02 lớp đào tạo lý luận chính trị và 3 lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên dành riêng cho đối tượng học viên là người dân tộc thiểu số. Qua đó, nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi dưỡng kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ, công chức này.

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ người dân tộc thiểu số tại Trường Chính trị Lê Duẩn, tỉnh Quảng Trị
Trường Chính trị Lê Duẩn tổ chức học tập chuyên đề năm 2024 về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí"_Ảnh: truongleduan.quangtri.gov.vn

Đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ người dân tộc thiểu số (DTTS) nói riêng có vai trò, vị trí quan trọng, là lực lượng nòng cốt đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với nhân dân. Đồng thời, tổ chức cho nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: "Chỉ có đồng bào và cán bộ người dân tộc mình mới hiểu dân tộc mình sâu sắc nhất, để phát huy mọi truyền thống tốt đẹp của dân tộc và mọi tiềm năng của quê hương mình trong việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”(1). Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ nói chung, cán bộ người DTTS nói riêng là nhiệm vụ quan trọng của Trường Chính trị Lê Duẩn, tỉnh Quảng Trị.

1. Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho học viên người DTTS

Thời gian qua, Tỉnh ủy Quảng Trị đã chỉ đạo thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác dân tộc, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ là người DTTS. Xác định đào tạo đội ngũ cán bộ người DTTS là nhiệm vụ hết sức quan trọng bởi đội ngũ này đóng vai trò quyết định trong lãnh đạo, quản lý, vận động đồng bào DTTS lao động sản xuất, tổ chức đời sống, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương.

Hiện nay, đội ngũ cán bộ người DTTS ở Quảng Trị có cơ cấu giữa các dân tộc khá hợp lý, được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, đạo đức, có trình độ, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao. Nhiều người giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị, địa phương.

Trường Chính trị Lê Duẩn có chức năng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Quảng Trị và 02 tỉnh Salavan và Savannakhet của nước bạn Lào. Nhà trường đã phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, địa phương trong tỉnh mở các lớp đào tạo về lý luận chính trị, các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức, viên chức. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường ngày càng khoa học, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Thực hiện Nghị quyết 09/2018/NQ-HĐND, ngày 18 - 7 - 2018 vềchính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã người DTTS tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2018 – 2025, chiến lược đến 2030, đến nay, Nhà trường đã mở được 02 lớp đào tạo lý luận chính trị và 03 lớp quản lý nhà nước ngạch chuyên viên dành riêng cho đối tượng học viên là người DTTS. Qua đó, đã nâng cao trình độ lý luận chính trị, năng lực quản lý cho học viên. Tính đến tháng 9-2023, 100% cán bộ người DTTS có bằng trung cấp lý luận chính trị, 93% cán bộ có chứng chỉ bồi dưỡng ngạch chuyên viên, 70% cán bộ chuyên trách có bằng trung cấp chính trị.

Kết quả trên cho thấy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người DTTS được cấp ủy, chính quyền các cấp đặc biệt coi trọng; trong quá trình học tập, Nhà trường luôn động viên, giúp đỡ,tạo điều kiệnđể học viên yên tâm học tập, giúp học viên nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập, nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Đối với các lớp được đào tạo, bồi dưỡng theo Nghị quyết 09/2018/NQ-HĐND, Nhà trường phối hợp với các sở, ban, ngành thực hiện các chế độ liên quan đến tổ chức lớp học. Công tác tổ chức lớp học được tiến hành khoa học, lựa chọn địa điểm thuận lợi nhất để bảo đảm cán bộ người DTTS có điều kiện tham gia học tập. Học viên đi học được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định. Trên cơ sở khung chương trình, Nhà trường đổi mới chất lượng bài giảng theo hướng sâu sát thực tế hơn để học viên dễ nắm bắt, tiếp cận. Tổ chức đi thực tế ở những địa phương khác để học viên có cơ hội tham quan, học hỏi. Từ những chuyến đi thực tế do Nhà trường tổ chức, học viên được trải nghiệm và học hỏi nhiều kinh nghiệm, giúp nâng cao nhận thức và tầm nhìn cho học viên.

Nhà trường bố trí đủ ký túc xá bảo đảm nơi ở và có bếp ăn cho học viên học tập tại trường. Sau giờ lên lớp, học viên có thể tham gia sinh hoạt văn hóa, thể thao ngay tại trường.

Trong đào tạo, bồi dưỡng cho học viên người DTTS, Nhà trường luôn chăm lo từ sinh hoạt hằng ngày đến việc học tập. Trường luôn ưu tiên bố trí ký túc xá cho họ, bố trí nơi ăn, chốn ở đầy đủ.

Trong học tập, đối với học viên người DTTS, giảng viên luôn gợi mở, đưa ra những ví dụ liên quan đến tình hình kinh tế - xã hội ngay tại cơ sở, địa phương nơi họ sinh sống để họ dễ tiếp thu nhất; có chính sách miễn, giảm tiền học bù, học lại đối với họ. Việc ra đề thi luôn rõ ràng, ngắn gọn không mang tính đánh đố, phần liên hệ ngay tại địa phương để học viên có thêm nhiều thông tin. Với những học viên người DTTS có con nhỏ, Trường tạo điều kiện bố trí chỗ ở cho họ để họ vừa được tham gia học tập vừa có thể chăm con; phân công các tổ chức, đoàn thể trong Trường giúp đỡ về vật chất, động viên tinh thần để họ vượt qua khó khăn, bảo đảm học tập. Đến nay, 100% học viên người DTTS tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng đều hoàn thành chương trình học và được cấp bằng, chứng chỉ tốt nghiệp theo đúng quy định.

2. Những hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho học viên người DTTS

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng cho học viên người DTTS vẫn còn gặp những khó khăn như: Học viên người DTTS thường ở xa trường hoặc xa các trung tâm chính trị huyện nên việc đi lại gặp nhiều khó khăn đặc biệt vào mùa mưa lũ, đời sống kinh tế của học viên còn khó khăn, trình độ học vấn còn hạn chế, một số học viên chưa nói rành tiếng của người Kinh nên khó khăn trong việc tiếp thu bài giảng.

3. Nguyên nhân

Thứ nhất,do cơ hội học tập không nhiều, nhân thức về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn hạn chế, bị động trong kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của cơ quan quản lý; cán bộ người DTTS thường muốn lựa chọn những lớp học được tổ chức tại Trung tâm chính trị huyện để thuận tiện hơn cho việc đi lại, phù hơp hơn với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân.

Thứ hai,cơ chế hỗ trợ của địa phương cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế; đa số học viên ở xa trung tâm, việc ăn, ở, đi lại đặc biệt khó khăn, phần lớn học viên tự túc kinh phí để trang trải cho việc học nên chưa tạo động lực thúc đẩy học viên tham gia học tập.

Thứ ba, thời tiết ở tỉnh Quảng Trị thường không thuận lợi, đặc biệt vào mùa mưa lũ, ở các xã vùng sâu dễ bị chia cắt, cô lập nhiều ngày khi trời mưa to dẫn đến học viên không thể ra trung tâm tham gia học tập đầy đủ; hệ thống cơ sở hạ tầng kết nối mạng còn yếu, phương tiện máy móc còn hạn chế nên học viên khó tiếp cận tham gia các lớp học online.

4. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cho học viên người DTTS

Để khắc phục những hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị cho học viên DTTS góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng để bám làng, bám bản; lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và sự phối hợp của các sở, ban, ngành, địa phương trong công tác đào tạo, bồi dưỡng; kịp thời giải quyết các chế độ chính sách liên quan cho học viên để họ yên tâm học tập. Đối với những học viên không thuộc các lớp thực hiện theo Nghị quyết 09/2018/NQ-HĐND và không học tập trực tiếp tại trường mà học ở các trung tâm chính trị các huyện, huyện cần quan tâm bố trí, sắp xếp chỗ ở cho học viên hoặc hỗ trợ thêm về vật chất, kinh phí để học viên có điều kiện học tập tốt hơn.

Hai là, các địa phương cần chủ động trong công tác thống kê số lượng cán bộ người DTTS đã qua và chưa qua đào tạo trình độ lý luận chính trị và các chương trình bồi dưỡng liên quan, báo cáo gửi các cơ quan, ban, ngành và Trường Chính trị Lê Duẩn để Nhà trường chủ động trong triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với học viên người DTTS.

Ba là, đối với những xã có học viên người dân tộc thiểu số đi học, lãnh đạo xã cần hết sức tạo điều kiện cho họ để họ chuyên tâm cho việc học tập; bố trí người thay thế đảm nhiệm công việc và có sự hỗ trợ cần thiết về vật chất lẫn tinh thần để học viên được yên tâm khi tham gia học tập và các hoạt động do Nhà trường tổ chức.

Bốn là, đối với những lớp có học viên người DTTS hoặc những lớp chỉ dành riêng cho đối tượng này, Nhà trường nên định hướng giảng viên soạn bài theo hướng sâu sát hơn với thực tiễn cơ sở; giải thích chi tiết, rõ ràng các quan điểm, luận điểm, có ví dụ minh họa từ thực tiễn để giúp học viên dễ hiểu, nắm bắt đúng vấn đề giảng viên truyền đạt. Nội dung các bài thi, bài kiểm tra phải vừa sức, phù hợp với trình độ nhận thức của học viên.

Năm là, Nhà trường cần thường xuyên thực hiện việc đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho học viên người DTTS sau mỗi khóa học; có kiến nghị, đề xuất với các cơ quan liên quan để thực hiện tốt hơn ở các khóa học tiếp theo.

Sáu là, bố trí đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tiễn phong phú, am hiểu về văn hóa, phong tục tập quán, lối sống, cách nghĩ của đồng bào DTTS làm công tác chủ nhiệm lớp để nắm bắt thêm tâm tư, nguyện vọng của học viên.

Bảy là, Nhà trường cần tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về giảng dạy cho đối tượng là cán bộ người DTTS để phát huy các sáng kiến, kinh nghiệm của cán bộ, giảng viên. Qua đó, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ là người DTTS.