Thứ Ba, 24 tháng 9, 2024

Đẩy mạnh học tập phong cách nêu gương Hồ Chí Minh trong đội ngũ giảng viên các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(1). Luận điểm của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nêu gương trong đời sống xã hội. Bài viết phân tích ý nghĩa của việc học tập phong cách nêu gương Hồ Chí Minh đối với giảng viên các học viện, trường sĩ quan quân đội. Đây là nội dung có ý nghĩa rất quan trọng trong đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng đội ngũ nhà giáo quân đội “vừa hồng”, “vừa chuyên”, là chiến sĩ xung kích, tiên phong trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận của Đảng.

Đẩy mạnh học tập phong cách nêu gương Hồ Chí Minh trong đội ngũ giảng viên các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

Giảng viên Khoa Văn hóa, Ngoại ngữ (Trường Sĩ quan Chính trị) trao đổi chuyên môn - Ảnh: qdnd.vn

1. Phong cách nêu gương Hồ Chí Minh

Sinh thời, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(2). Bởi theo Người, hành động gương mẫu, tấm gương của cán bộ, đảng viên là “mệnh lệnh không lời”, có sức thuyết phục và cảm hóa mạnh mẽ, trực tiếp truyền cảm hứng cho nhân dân học tập, noi theo. Thực hiện “nêu gương”, “làm gương”, phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên còn là một trong những phương thức lãnh đạo rất quan trọng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về phong cách nêu gương cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo, có thể khái quát trên những nét chính sau:

Một là, nêu gương về mục đích và lý tưởng sống

Trong thực hành nêu gương của cán bộ, đảng viên, theo Hồ Chí Minh điều quan trọng nhất là nêu gương về mục đích và lý tưởng sống. Nêu gương về mục đích là một lòng, một dạ vì nước, vì dân, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Lý tưởng sống là lòng trung thành với mục tiêu cách mạng; niềm tin và sự kiên định về lập trường, quan điểm, tôn trọng và gương mẫu chấp hành luật pháp. Người nhắc nhở “chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”(3). Cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu cho cấp dưới, cho nhân dân.

Chính Người là hình ảnh mẫu mực trong nêu gương về mục đích và lý tưởng sống. Người khẳng định: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(4). Lời Người nói đúng như việc Người làm, cả cuộc đời vì dân, vì nước. Đến cuối đời, Người vẫn khẳng định: “Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”(5). Đồng thời căn dặn: “Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”(6); “Trên vì nước, dưới vì nhà. Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh”(7).

Hai là, nêu gương về đạo đức cách mạng

Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(8). Bởi theo Người, cán bộ là gốc của mọi công việc, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Để làm tốt trọng trách này, đòi hỏi mỗi người cán bộ phải có đạo đức và tài năng. Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người khẳng định: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”(9). Người cán bộ phải có đạo đức và thực hành đạo đức, thực sự gương mẫu, là “mực thước” để quần chúng nhân dân noi theo.

Theo Người, nêu gương về đạo đức là nét nổi bật của người cán bộ, đảng viên. Để trở thành người cách mạng chân chính, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nêu cao đức tính tốt đẹp: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; phải tránh xa những thói xấu như lười biếng, tham lam. Đạo đức cách mạng hoàn toàn đối lập với sự giả dối, bất minh, bất chính. Người cán bộ luôn khiêm tốn, giản dị, có lòng vị tha, nhân ái, khoan dung, đồng thời luôn đấu tranh chống thói kiêu ngạo, vụ lợi, vị kỷ, những ham muốn danh lợi, địa vị, chức quyền, chính là đã thực hành và nêu gương về đạo đức. Bởi theo Người, nêu gương về đạo đức phải bao hàm cả thái độ, tình cảm, nhất là trong lời nói và việc làm.

Ba là, nêu gương về thái độ khiêm tốn, giản dị trong công việc và cuộc sống

Khiêm tốn, giản dị là những đức tính quan trọng của người cán bộ cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tự kiêu là mù quáng, chỉ trông thấy những việc mình tưởng mình làm được, những điều mình tưởng mình biết hết; mà không trông thấy những điều mình không biết, những việc mình chưa làm được... Tự kiêu là hẹp hòi... Tự kiêu là thoái bộ. Vì tự mãn tự túc, không cố gắng học hỏi thêm. Không theo kịp sự tiến bộ của thời đại. Tự mình ngăn trở sự tiến bộ của mình”(10).

Do đó, Người yêu cầu: “Mỗi một đồng chí ta phải có thái độ khiêm tốn, càng cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ”(11). Bởi vì, theo quan điểm của Người, khiêm tốn sẽ có sự tỉnh táo, để nhận thức được chân lý một cách đúng đắn, khách quan, đồng thời có được sự ủng hộ, tin tưởng, giúp đỡ chân thành của mọi người, cũng như đem lại cho ta nhiều khả năng cả về trí lực và vật lực để đạt đến sự thành công. Để có được đức tính khiêm tốn, mỗi cán bộ phải luôn luôn học hỏi, không ngừng phấn đấu vươn lên, không ngừng hoàn thiện nhân cách.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân của đức khiêm tốn, giản dị, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở cương vị rất cao nhưng Người không bao giờ tự đặt mình cao hơn người khác để đòi hỏi một sự suy tôn, mà luôn quan tâm chu đáo đến mọi người xung quanh. Đức khiêm tốn, giản dị của Người đã trở thành triết lý nhân sinh thấm đẫm trong lời nói, tư tưởng và hành động.

Bốn là, nêu gương về thực hành đoàn kết, tôn trọng nhân dân, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân

Theo Hồ Chí Minh, để làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình, mỗi cán bộ, đảng viên phải được dân tin, dân phục, dân yêu. Người nhấn mạnh: “Phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; phải hiểu thấu rằng lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng và phải đặt lợi ích của nhân dân và của Đảng lên trên hết, trước hết”(12). Muốn vậy, trước hết mỗi cán bộ phải đoàn kết, tôn trọng nhân dân, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân; phải thực sự yêu thương, kính trọng nhân dân, gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân để thấu dân tình, hiểu rõ dân sinh.

Theo Người, yêu thương, tôn trọng nhân dân luôn gắn liền với ý chí đấu tranh và khát vọng mãnh liệt để làm cho dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Người từng dạy: “Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm. Tinh thần trách nhiệm là: nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ”(13). Gần dân, sát dân, hiểu dân, tôn trọng nhân dân phải bằng những hành động thiết thực, những việc làm cụ thể để mang lại lợi ích cho dân. Muốn đạt điều đó, đòi hỏi mỗi người cán bộ phải có phong cách làm việc quần chúng, phong cách làm việc dân chủ, tập thể, gắn bó với cơ sở, với thực tiễn, phải gương mẫu làm trước để dân hiểu và làm theo.

Năm là, nêu gương về phương pháp và phong cách làm việc khoa học, cẩn trọng, chu đáo, lối ứng xử tinh tế, nhân văn

Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ trong lãnh đạo và quản lý phải dựa trên các nguyên tắc làm việc chuẩn mực, dân chủ, khoa học, luật pháp, kỷ cương. Trong công việc, Người yêu cầu: “Cán bộ phải nghiên cứu, hiểu suốt, thấm nhuần chính sách ấy. Theo chính sách ấy mà điều tra, nghiên cứu, hiểu suốt hoàn cảnh thiết thực của đơn vị mình, địa phương mình”(14); phải có mục đích rõ ràng, cẩn thận; chương trình, kế hoạch đặt ra phải chi tiết, sát hợp, chu đáo; kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng; cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng điểm, có điển hình và toàn diện. Bởi theo Người, gương mẫu là mệnh lệnh không lời: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(15). Trong gia đình, cha mẹ là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương cho các em; trong nhà trường, thầy, cô giáo là tấm gương cho học trò; trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm tự tu dưỡng để là tấm gương giúp nhân dân làm điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.

2. Ý nghĩa việc học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh đối với giảng viên

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sự chỉ đạo thường xuyên, trực tiếp của Đảng ủy, Ban Giám hiệu các học viện, trường sĩ quan quân đội, việc học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh được cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các khoa giáo viên thường xuyên quan tâm, có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức, biện pháp.

Cấp ủy, chỉ huy các khoa giáo viên tuyên truyền, phổ biến và yêu cầu giảng viên hằng năm viết cam kết nội dung phấn đấu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có nội dung về phong cách nêu gương; hằng tháng, các buổi sinh hoạt tại chi bộ khoa giáo viên đều lồng ghép nội dung đánh giá, kiểm tra, giám sát đảng viên, đưa vào kế hoạch kiểm tra, giám sát năm của chi bộ; trên cơ sở hướng dẫn của cơ quan chính trị, cấp ủy, tổ chức đảng các khoa giáo viên đã cụ thể hóa, thể chế hóa thành tiêu chí, nội dung cụ thể để phát huy tinh thần, trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của giảng viên trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học; cơ quan chính trị và lãnh đạo, chỉ huy khoa giáo viên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của giảng viên thông qua dự giờ trên lớp, thông qua giáo án, tham gia hội thi giảng viên dạy giỏi các cấp, nghiên cứu khoa học.

Hằng năm, các học viện, trường sĩ quan quân đội tổ chức sơ kết học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, biểu dương, khen thưởng, tôn vinh giảng viên có nhiều nỗ lực, cố gắng trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học...

Tuy nhiên, việc học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh của giảng viên ở các học viện, trường sĩ quan quân đội còn một số hạn chế:

Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng trong tuyên truyền, giáo dục về tầm quan trọng học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh cho giảng viên chưa sâu sắc; việc xây dựng kế hoạch phấn đấu tu dưỡng học tập, rèn luyện của một số giảng viên còn chung chung, đại khái, chưa gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao; hình thức, biện pháp học tập ở một số khoa giáo viên chưa hấp dẫn, chưa tập trung vào khâu yếu, chưa tạo ra đột phá trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, đặt ra cho đội ngũ giảng viên ở các học viện, trường sĩ quan quân đội phải không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực chuyên môn để giáo dục, đào tạo những sĩ quan có kiến thức lý luận chính trị, sử dụng thành thạo các loại vũ khí trang bị kỹ thuật, sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống xảy ra. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xác định: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục có trình độ tương xứng với công việc; ngành đào tạo, thực hiện tốt bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học qua thực tiễn; có chính sách thu hút nhân tài về các học viện, nhà trường công tác”(16).

Để nâng cao chất lượng việc học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh về nêu gương của giảng viên các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay cần thực hiện một số nội dung, biện pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của giảng viên về tầm quan trọng của việc học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh

Đây là biện pháp quan trọng có ý nghĩa hàng đầu. Cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm, đường lối của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, của các học viện, trường sĩ quan quân đội về nêu gương của cán bộ, đảng viên, như: Quy định 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về “trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Quy định 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 về “những điều đảng viên không được làm”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII về “đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””; Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về “tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020-2025); Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về “phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”;...

Những nội dung trên được thực hiện thông qua học tập nghị quyết do thường vụ đảng ủy các học viện, trường sĩ quan quân đội xác định ở kế hoạch hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; thông qua sinh hoạt ra nghị quyết lãnh đạo hằng tháng; thông qua ngày chính trị văn hóa tinh thần; thông qua giảng dạy, nghiên cứu khoa học để lồng ghép các nội dung, qua đó, tạo sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động, phát huy tinh thần, trách nhiệm của mỗi giảng viên đối với thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Hai là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các nội dung, hình thức, biện pháp học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh của giảng viên các học viện, trường sĩ quan quân đội

Đây là giải pháp có tính chất quyết định đến việc học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh của giảng viên các học viện, trường sĩ quan quân đội. Theo đó, về nội dung học tập cần tập trung vào phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; những chuẩn mực trong ba mối quan hệ: giữa giảng viên với mình, với người, với việc, nhất là mối quan hệ với đồng nghiệp và học viên. Xây dựng phong cách nêu gương phải nằm trong chỉnh thể đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của học viện, nhà trường; chú trọng đến phương pháp, tác phong giảng dạy trên lớp, vận dụng linh hoạt phương pháp giảng dạy, giải quyết các tình huống sư phạm; quá trình thực hành giảng dạy diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, có sức thuyết phục cao. Đặc biệt, khi ứng xử với tập thể đơn vị phải thật sự khiêm tốn, giản dị, gần gũi, chân thành; gương mẫu, chuẩn mực về lời nói, hành vi; những kiến thức mới phải thường xuyên được cập nhật, bổ sung vào bài giảng.

Về hình thức, biện pháp, thực hiện thông qua học tập chính trị hằng năm của sĩ quan; tập huấn cán bộ đầu năm; hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học; thực hiện các phong trào thi đua Quyết thắng...

Để thực hiện được những nội dung trên, cơ quan đào tạo, lãnh đạo, chỉ huy phải chủ động xây dựng kế hoạch công tác đảng, công tác chính trị, xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, điều kiện bảo đảm, thời gian huấn luyện; kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ giảng viên theo sự phân công.

Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động trong tự học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh

Phát huy tính tích cực, chủ động thể hiện ý thức, trách nhiệm sâu sắc với chức trách, nhiệm vụ được giao và yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của việc xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”. Tính tích cực, chủ động trong tự học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh là khả năng tự mình nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi ở các điều kiện, môi trường khác nhau, tích hợp lại thành tài sản, thành vốn của riêng mình. Mỗi giảng viên phải chủ động sắp xếp, bố trí thời gian, công việc sao cho hợp lý, khoa học, vừa bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, vừa bảo đảm việc tự mình học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về con đường tự học, tự bồi dưỡng. Người khẳng định: Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học, “lấy tự học làm cốt”(17). Trong công việc, cuộc sống, bản thân thấy yếu chỗ nào, hổng chỗ nào phải tập trung vào tự bồi dưỡng, tránh để tình trạng cấp trên phải nhắc nhở, phê bình trong hội nghị về phương pháp, tác phong sư phạm; đặt ra yêu cầu cao cho bản thân trong quá trình tự học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh, không tự bằng lòng với kết quả có được, phải khiêm tốn, cầu thị, chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ. Xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ được giao đặt ra ngày càng cao để phấn đấu, rèn luyện. Mỗi giảng viên phải đặt ra những mục tiêu, nhiệm vụ vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài, tự bồi dưỡng mỗi ngày, nâng cao dần năng lực, phương pháp, tác phong công tác của bản thân; đối chiếu, so sánh việc đã làm được, chưa làm được để bổ sung, điều chỉnh cho hợp lý, khoa học, không cứng nhắc, dập khuôn, tùy vào môi trường, điều kiện, tình huống cụ thể mà việc tự bồi dưỡng có sự khác nhau.

Bốn là, làm tốt việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm

Đây là giải pháp giữ vai trò tạo động lực, niềm tin, khí thế, kích thích, cổ vũ, động viên giảng viên tiếp tục phát huy năng lực, sở trường, thế mạnh của mình cho đơn vị. Theo đó, phải làm rõ những ưu điểm, khuyết điểm của việc học tập, làm theo phong cách nêu gương Hồ Chí Minh của mỗi giảng viên ở tất cả các khâu, các bước, từ việc soạn giáo án, bài giảng đến thực hành giảng bài; phát huy tính dân chủ trong thảo luận, trao đổi về nội dung, phương pháp học tập; làm rõ những hạn chế, khuyết điểm, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm đó, trách nhiệm thuộc về ai, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho những lần bồi dưỡng sau được tốt hơn; thẳng thắn, khách quan, không áp đặt trong thảo luận, trao đổi.

Quán triệt quan điểm “trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo” trong quá trình học tập, làm theo, sai đến đâu sửa đến đấy, phê bình việc chứ không phê bình người; đồng thời, làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến đối với giảng viên có nhiều nỗ lực, cố gắng trong quá trình tự bồi dưỡng để động viên, khích lệ, tạo thành đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp trong đơn vị.

Phong cách nêu gương Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của dân tộc để mỗi cán bộ, đảng viên, giảng viên các học viện, trường sĩ quan quân đội khắc cốt, ghi tâm học tập, làm theo, đề cao tinh thần, trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mỗi giảng viên thấm nhuần phong cách nêu gương Hồ Chí Minh để không ngừng tu dưỡng, phấn đấu rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, trình độ, phương pháp, tác phong sư phạm, góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

_________________

Tạo môi trường để nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở miền núi phía Bắc hiện nay.

 Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần nâng cao ý thức pháp luật ngay từ cơ sở. Trong đó, cán bộ cấp cơ sở chính là lực lượng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện, vận dụng, bổ sung, kiểm nghiệm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn, là cầu nối quan trọng giữa Đảng với nhân dân. Bài viết phân tích những yếu tố tác động đến nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở miền núi phía Bắc, giải pháp tạo lập môi trường để nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở.

Tạo môi trường để nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở miền núi phía Bắc hiện nay

Cán bộ xã hướng dẫn cử tri về bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 tại tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN 

1. Những yếu tố tác động đến nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở miền núi phía Bắc

Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Miền núi phía Bắc Việt Nam gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, có tổng diện tích 101.559,0km2, lớn thứ hai sau vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung; dân số ít thứ hai cả nước, chỉ hơn vùng Tây Nguyên. Miền núi phía Bắc được phân thành 2 tiểu vùng: Tây Bắc và Đông Bắc; trong đó tiểu vùng Tây Bắc gồm 6 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái; tiểu vùng Đông Bắc gồm các tỉnh còn lại. Vùng có địa hình hiểm trở, chia cắt, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lũ; thiếu những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, như: thiếu đất, thiếu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, quy mô lớn; đồng bào dân tộc đông, dân trí thấp, sống rải rác, đời sống khó khăn, v.v..

Dân cư và tộc người

Sự phân bố tộc người thiểu số ở các địa phương không đều, cao nhất là ở Cao Bằng (95%); Hà Giang là 87,9%; Lai Châu, Điện Biên trên 80%; Hòa Bình là 72,3%; Yên Bái trên 50%. Các tỉnh có tỷ lệ người dân tộc thiểu số thấp là: Thái Nguyên (25%); Phú Thọ (14,5%) và Bắc Giang (12,0%).

Đa số các dân tộc thiểu số cư trú phân tán, đan xen; trình độ dân trí và kinh tế còn thấp, phát triển không đồng đều. Chất lượng dân số của nhiều dân tộc thiểu số bị ảnh hưởng bởi hôn nhân cận huyết và nạn tảo hôn. Năm 2018, tỷ lệ tảo hôn của người dân tộc thiểu số là 21,9%, giảm trung bình 1%/năm, giảm 4,7% so với năm 2014. Một số dân tộc có tỷ lệ tảo hôn thấp (dưới 7%) như: Thổ, Hoa, Si La, Tày v.v.. Dân tộc Mông có tỷ lệ tảo hôn cao nhất với 51,5% dân số kết hôn trước tuổi quy định. Một số cộng đồng dân tộc thiểu số do sống biệt lập, nên ít kết hôn khác tộc người, hôn nhân thường được lựa chọn là cùng tộc và cùng trong cộng đồng; từ đó dẫn tới nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết khá phổ biến ở một số dân tộc như Pu Péo, Lô Lô, La Hủ, Phù Lá(1).

Kinh tế - xã hội

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi phía Bắc còn thấp, không đồng đều và nổi lên một số vấn đề sau:

Trình độ sản xuất còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Đa số đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở những khu vực thường xảy ra thiên tai, thuộc diện đặc biệt khó khăn (núi cao, địa hình chia cắt, biên giới,...), một số phong tục, tập quán lạc hậu. Điều đó đặt ra không ít thách thức, khó khăn đối với công tác giáo dục, đào tạo và khả năng tiếp cận với các dịch vụ sản xuất, văn hóa, chăm sóc y tế.

Thời gian qua, nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội và chương trình xóa đói, giảm nghèo cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được triển khai, đời sống của người dân được nâng lên rõ rệt. Tuy vậy, số liệu điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc vẫn khá cao (35,5%), gấp 3,5 lần toàn quốc (10,2%).

Chưa có sự phát triển bứt phá về kinh tế - xã hội: hình thức sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp, manh mún còn khá rõ; chưa hình thành vùng sản xuất quy mô lớn. Sản phẩm không có lợi thế cạnh tranh, giá trị gia tăng thấp, do chủ yếu được sản xuất dưới dạng thô. Tỷ lệ xã, thôn thuộc diện đặc biệt khó khăn khá cao(2). Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chi phí sản xuất cao,... dẫn đến kém hấp dẫn các nhà đầu tư.

Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt còn lạc hậu và chưa đồng bộ: mạng lưới điện - đường - trường - trạm chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do điều kiện núi cao, địa hình chia cắt, sự phức tạp về điều kiện thủy văn, nên một số tuyến đường giao thông ở các xã vùng cao thường quanh co, độ dốc cao và hay bị sạt lở vào mùa mưa. Từ đó gây khó khăn cho việc tham gia giao thông, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng.

Tại một số khu vực còn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn: nhiều tỉnh vùng núi phía Bắc có đường biên giới dài, địa hình phức tạp, thường bị các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”; kích động đồng bào biểu tình, đòi thành lập “khu tự trị của người Mông”, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Ngoài ra, còn có những vấn nạn khác như tình trạng tranh chấp biên giới, buôn lậu, buôn bán phụ nữ và trẻ em, lâm tặc v.v..

Văn hóa

Sự quần tụ sinh sống của nhiều tộc người đã tạo nên đặc điểm văn hóa phong phú và độc đáo trong vùng. Mỗi tộc người đều có bản sắc văn hóa với những nét nổi trội như yêu nước, gắn bó với quê hương, đoàn kết dân tộc, hiền hậu, chất phác, trung thực.

Tuy vậy, sự hiểu biết xã hội và trình độ học vấn của đồng bào các dân tộc còn thấp. Số lượng học sinh giảm khá nhiều sau mỗi cấp học, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông thấp, tái mù chữ còn cao, tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học gia tăng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo dục nghèo nàn, lạc hậu, một số môn học như ngoại ngữ, tin học, nhạc, họa chưa được phổ biến v.v..

Tỷ lệ biết đọc, biết viết tiếng phổ thông ở một số dân tộc thiểu số khá thấp, như: dân tộc Mông 54,3%, Lự 49,7%, La Hủ 46,9%, dân tộc Mảng 46,23%. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết tiếng nói, chữ viết dân tộc mình thấp, chỉ 15,9%, có 32 trong số 53 dân tộc có chữ viết riêng của dân tộc mình(3)

Một bộ phận đồng bào các dân tộc còn bị ảnh hưởng của tâm lý tộc người, tàn dư phong tục, tập quán lạc hậu (canh tác một vụ, thói quen sản xuất tự cung, tự cấp, du canh du cư, trồng và hút thuốc phiện, mê tín dị đoan... ). Trong khi đó, nhiều giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng bị mai một. Tại một số nơi, việc xuất hiện các “tà đạo”, “đạo lạ”, các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp đã gây ra những khó khăn, thách thức cho công tác quản lý của chính quyền địa phương, trước hết là cấp cơ sở. Điều này đòi hỏi chính quyền và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở phải hiểu rõ tình hình địa phương, bám sát dân, tổ chức tuyên truyền vận động dân hiểu đúng về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; khắc phục việc chỉ đạo công tác thiên về cảm tính, ưu tiên những đối tượng quen biết, dòng tộc, lối suy nghĩ, cách làm việc qua loa, đại khái, giải quyết công việc theo kiểu “trăm cái lý không bằng tý cái tình” mà ít coi trọng thực hành theo pháp luật, v.v..

Việc nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ cơ sở có điều kiện thuận lợi là cộng đồng các dân tộc có tính cố kết cộng đồng cao gắn với lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước của các dân tộc Việt Nam. Họ có nhiều đóng góp cho quá trình bảo đảm an ninh biên giới và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nhìn chung, các dân tộc đều thực hiện và duy trì mối quan hệ bình đẳng, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển.

Tác động của sự nghiệp đổi mới đất nước, với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Trải qua tiến trình đổi mới, sức mạnh của đất nước, trong đó có miền núi phía Bắc được nâng lên, đời sống của nhân dân ngày một tốt hơn, đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường, củng cố, dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng.

Trong việc đẩy mạnh công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị cấp cơ sở, đội ngũ cán bộ luôn phải ý thức và gương mẫu tuân thủ, thực hành thể chế pháp quyền trong tổ chức và hoạt động, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị cơ sở và trong toàn xã hội.

Đây là một trong những điều kiện thuận lợi và cũng là thách thức đối với việc nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, quá trình này sẽ thúc đẩy tư duy sáng tạo, năng động, coi trọng chất lượng, hiệu quả của hoạt động kinh tế - xã hội; từ đó tác động tích cực tới ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở và nhân dân nói chung.

Nền kinh tế - xã hội phát triển, lợi ích kinh tế được bảo đảm tốt hơn, đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên, sẽ củng cố tình cảm, niềm tin vào chính sách, pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động điều hành, quản lý của Nhà nước. Nhưng quá trình này cũng xuất hiện hàng loạt những hiện tượng phức tạp, tác động đến quan niệm, ý thức pháp luật của người dân, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Thí dụ, sự phân hóa giàu nghèo làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội, dễ làm nảy sinh những tệ nạn, tiêu cực, kích thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý; diễn biến và tác động đa dạng, phức tạp của các kênh thông tin, kể cả những thông tin xấu, độc, trái chiều nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và chống phá chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Như vậy, tại miền núi phía Bắc, bên cạnh một số yếu tố tích cực (coi trọng tình cảm chân thực, đoàn kết cộng đồng,...) thì những vấn đề như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, trình độ dân trí thấp, kinh tế chưa phát triển,... đã và đang gây khó khăn và đặt ra không ít thách thức đối với việc nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, từ việc tiếp cận thông tin, tri thức pháp luật đến việc tuân thủ, thực hành thể chế pháp quyền XHCN tại cơ sở.

2. Giải pháp tạo lập môi trường để nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở

Một là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội để tăng cường nguồn lực hỗ trợ và thúc đẩy việc nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ cấp cơ sở

Từ nay đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, miền núi phía Bắc tiếp tục được xác định là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và kinh tế - xã hội của cả nước. Vùng cần tiếp tục phát huy lợi thế về kinh tế cửa khẩu, tiềm năng, lợi thế về nông, lâm nghiệp và du lịch để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, trước hết thông qua việc tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển.

Phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi phía Bắc gắn với an ninh, quốc phòng, giảm nghèo bền vững, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân theo hướng bảo đảm công bằng xã hội, môi trường sinh thái. Khai thác tối đa các lợi thế so sánh để biến khó khăn, thách thức thành cơ hội, phát huy nội lực của vùng và biến những điểm yếu thành lợi thế phát triển du lịch, như: khai thác danh lam thắng cảnh hùng vĩ, bản sắc văn hóa đặc sắc, đa dạng. Phấn đấu đến năm 2030 và 2045 rút ngắn đáng kể khoảng cách phát triển với các vùng khác trong cả nước.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy hoạch phát triển theo trục dọc để kết nối vùng trung du và miền núi Bắc Bộ với vùng đồng bằng sông Hồng và với các tỉnh phía Nam Trung Quốc; liên kết với Lào theo trục Đông - Tây, kết nối với các tỉnh vùng duyên hải Bắc Bộ cùng hướng ra biển; đồng thời đẩy mạnh kết nối theo trục ngang giữa các tỉnh trong vùng. Đây chính là chìa khóa để phát triển kinh tế - xã hội; từ đó có thể huy động nguồn lực hỗ trợ, chăm sóc về vật chất, tinh thần và tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng ý thức pháp luật cho cán bộ cấp cơ sở. Đồng thời, tạo lập điều kiện, môi trường kinh tế - xã hội khách quan cho việc nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ.

Hai là, chăm lo bảo đảm điều kiện về đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ cấp cơ sở chủ động, tích cực nâng cao ý thức pháp luật.

Thực tiễn miền núi phía Bắc cho thấy, điều kiện, môi trường công tác của đội ngũ cán bộ cơ sở còn nhiều khó khăn, phức tạp và thách thức, trách nhiệm công tác nặng nề. Tuy vậy, hiện nay, các khoản phụ cấp và tiền lương của cán bộ chưa tương xứng với công việc mà họ đảm nhiệm, thậm chí còn thấp hơn so với những đối tượng khác. Do đó, cán bộ cấp cơ sở khó có thể bảo đảm được đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình; khiến cho giảm động lực công tác.

Để khắc phục vấn đề này, cần tiếp tục cải cách chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi, thi đua khen thưởng,... đối với đội ngũ cán bộ cơ sở. Bổ sung phụ cấp đặc thù cho tất cả cán bộ cấp cơ sở miền núi. Thực hiện khách quan, công tâm, đúng quy trình, đúng đối tượng được thụ hưởng chế độ phúc lợi và công tác thi đua khen thưởng nhằm bảo đảm tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.

Ba là, tạo điều kiện cho cán bộ cấp cơ sở chủ động, tích cực nâng cao ý thức pháp luật

Cần hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị văn phòng. Đây là yêu cầu thiết yếu của quá trình hiện đại hóa công tác văn phòng, nhằm nâng cao hiệu quả công tác, tiết kiệm chi phí. Trong đó, coi trọng trang bị ti vi, máy tính có kết nối internet, rađiô... giúp cán bộ cấp cơ sở tiếp cận các kênh thông tin nhằm nâng cao tri thức pháp luật và vận dụng tri thức pháp luật một cách hiệu quả trong công tác.

Xây dựng chủ đề phấn đấu hằng năm đáp ứng các mục tiêu phát triển của địa phương, cơ sở, thí dụ cải cách hành chính; hoàn thành những chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm,... Đối với cán bộ lãnh đạo, cần đề cao ý thức gương mẫu, đi đầu, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để xây dựng tinh thần trách nhiệm, quyết tâm và tự tin trong tìm kiếm cái mới phục vụ sự phát triển của đơn vị, địa phương, cơ sở. Thông qua chủ đề phấn đấu hằng năm, cần có kế hoạch phát hiện, phổ biến, tập hợp những sáng kiến của cán bộ cơ sở, động viên, khen thưởng những sáng kiến có giá trị thực tế, có tính đột phá nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở nói chung.

Đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện; hạn chế, ngăn ngừa sự sa sút, suy thoái đạo đức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có đầy đủ phẩm chất đạo đức và chuyên môn, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế sâu rộng ngay tại mỗi địa phương, cơ sở. Tôn vinh những cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức công vụ; đồng thời kỷ luật nghiêm những cán bộ vi phạm pháp luật, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Tăng cường cung cấp thông tin, kết hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm cho cán bộ cấp cơ sở. Thực tế cho thấy “luật pháp muốn có hiệu lực, hiệu quả thì ngoài sức mạnh của công quyền, bằng cưỡng chế thì còn cần huy động cả sức mạnh của tư tưởng và tinh thần, pháp luật phải được con người nhận thức như là cái cần thiết và có cơ sở, phải tạo niềm tin và sự kính trọng đối với pháp luật”(4).

Hoạt động của cán bộ cấp cơ sở liên quan trực tiếp đến những quyền, lợi ích cơ bản của Nhà nước, của chính quyền cơ sở và của công dân nên mỗi hành vi của họ, trước hết đều phải nắm vững, vận dụng đúng pháp luật, đồng thời gương mẫu chấp hành. Vì vậy, cần tích cực tuyên truyền, giáo dục ý thức trách nhiệm, ý thức pháp luật cho cán bộ cấp cơ sở; đi kèm với biểu dương những điển hình tích cực, phê phán kịp thời những hiện tượng tiêu cực. Trong đó, quan trọng hơn cả là gắn với việc đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng và tu dưỡng đạo đức công vụ (cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư).

Tập trung phổ biến các Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Cán bộ công chức,...; và giáo dục lòng tự hào về trọng trách phục vụ nhân dân, xây dựng nền công vụ minh bạch, trong sạch và hiện đại ngay tại cấp cơ sở.

Do khả năng khai thác thông tin pháp luật còn hạn chế, nên cần cung cấp các loại tài liệu về pháp luật, các văn bản pháp quy (sách pháp luật phổ thông, sách hướng dẫn pháp luật,...) để cán bộ cấp cơ sở tìm hiểu, tra cứu, cập nhật thông tin pháp luật. Đa dạng hóa các hình thức tiếp cận thông tin của cán bộ cấp cơ sở thông qua mạng internet, cẩm nang, bản tin, tạp chí. Ðồng thời, có kế hoạch đào tạo lại, đào tạo nâng cao, đào tạo chuyên môn và trang bị những kiến thức liên quan cho cán bộ tư pháp phù hợp những yêu cầu mới của quá trình cải cách tư pháp và theo chuẩn chức danh.

Đồng thời, cải tiến, đa dạng hóa các hình thức cung cấp thông tin pháp luật dưới dạng sách, tờ gấp,... về hướng dẫn nghiệp vụ công tác hộ tịch, chứng thực cho công chức cấp xã; sách Tìm hiểu một số nội dung của Luật Xử lý vi phạm hành chính; sổ tay pháp luật của cán bộ cấp cơ sở; sách hỏi - đáp pháp luật về phòng - chống tham nhũng, tiết kiệm, chống lãng phí; sách hỏi - đáp một số quy định của pháp luật về miền núi phía Bắc; sách về Luật Giám định tư pháp; sổ tay pháp luật cho tuyên truyền viên cơ sở; tìm hiểu một số quy định của pháp luật về phòng chống tội phạm; tìm hiểu một số quy định về Luật Đất đai; sách hỏi đáp về Luật Công chứng; tìm hiểu một số nội dung quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy, phòng chống bạo lực gia đình; tìm hiểu một số quy định của Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí...

Trong đó, chú trọng phổ biến các tờ gấp với những đầu tên như: Tìm hiểu một số quy định của pháp luật về phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; tìm hiểu một số quy định về xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; tìm hiểu một số quy định của Bộ luật Hình sự và Dân sự năm 2015; tìm hiểu một số quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; tìm hiểu một số quy định về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; tìm hiểu một số quy định của Luật Tiếp công dân,...

Bốn là, tạo môi trường cho cán bộ cấp cơ sở chủ động, tích cực nâng cao ý thức pháp luật

Xây dựng quy chế làm việc của cơ quan, đơn vị và xây dựng quy trình giải quyết thủ tục hành chính rõ ràng, công khai, trong đó quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ cấp cơ sở, để mỗi cán bộ xác định rõ vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình trong thực thi nhiệm vụ. Khuyến khích cán bộ tham gia vào quá trình quản lý, mở rộng việc giao phụ trách, giao quyền cho cán bộ cơ sở để chủ động trong giải quyết công việc và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Qua đó khuyến khích và đòi hỏi cán bộ tự rèn luyện, tự học để tiếp thu, trau dồi những kiến thức khoa học, pháp luật hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh góp phần thực hiện Nghị quyết của Đảng.

 Để có đủ năng lực thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cần không ngừng được đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt. Bài viết phân tích sự cần thiết và đề xuất các giải pháp tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Học viện đủ năng lực thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh góp phần thực hiện Nghị quyết của Đảng

Cán bộ Học viện tham dự Hội nghị quán triệt, tuyên truyền nội dung cuốn sách "Cả nước đồng lòng, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Ảnh: HCMA

1. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ thường xuyên của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, góp phần thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng

Theo Quyết định số 145-QĐ/TW ngày 08-8-2018 của Bộ Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh “là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư”; “là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội; là trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý phục vụ giảng dạy, học tập, góp phần cung cấp luận cứ khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước”.

Phần lớn học viên được đào tạo, bồi dưỡng tại Học viện là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đương chức hoặc trong diện quy hoạch, có bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ chuyên môn và có kinh nghiệm thực tiễn phong phú. Điều này, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện phải được đào tạo cơ bản lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; am hiểu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; thực sự có trình độ, bản lĩnh, tư duy, tầm nhìn và khát vọng cống hiến. Cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị, nâng cao khả năng nhận thức, thẩm thấu và thực hiện đúng đắn nhất các nội dung nghị quyết của Trung ương và của Đảng ủy Học viện, đồng thời phải nêu gương về đạo đức cách mạng, tiêu biểu về ứng xử văn hóa trường Đảng.

Có như vậy, đội ngũ cán bộ, giảng viên mới thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; là lực lượng xung kích trong hoạt động giáo dục, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Trong nội bộ Học viện, đội ngũ này là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, của Đảng ủy và chủ trương công tác của Giám đốc Học viện, thể hiện ở các nội dung sau:

Một là, phổ biến, quán triệt đến cán bộ, công chức, viên chức hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng; tạo sự chuyển biến về nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong đơn vị; đồng thời hướng dẫn quần chúng trong đơn vị ý thức được đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, giúp cho việc triển khai nghị quyết của Đảng bảo đảm sâu rộng, thông suốt.

Hai là, trực tiếp cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng tại Học viện. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của từng đơn vị, cán bộ lãnh đạo, quản lý xây dựng, đề ra các phương án và cách thức tổ chức phù hợp để phát huy vai trò của các chủ thể; sử dụng hợp lý các nguồn lực cơ sở vật chất, các phương tiện kỹ thuật và các điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện nghị quyết có hiệu quả cao nhất.

Ba là, tạo lập sự phối hợp giữa lãnh đạo đơn vị với cấp ủy, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng nhằm hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được Đảng ủy và Giám đốc Học viện giao. Lãnh đạo đơn vị thực hiện nhiệm vụ theo chế độ thủ trưởng tổ chức thực hiện các nghị quyết của cấp ủy, chi bộ trên các lĩnh vực công tác. Chi bộ thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm và tạo điều kiện để lãnh đạo đơn vị thực hiện chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.

2. Thực trạng năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học các đơn vị thuộc Học viện trong cụ thể hóa, thực hiện các nghị quyết của Đảng

Những năm qua, bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương; với tinh thần tích cực, chủ động, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, xác định rõ nhiệm vụ thường xuyên, cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn của cơ quan, đơn vị; chú trọng triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa XIII, các nghị quyết của Bộ Chính trị, Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương và của Đảng bộ Học viện. Các tổ chức đảng trực thuộc tăng cường xây dựng các nghị quyết chuyên đề, cụ thể hóa nội dung nghị quyết của Trung ương, của Học viện gắn với đặc điểm, yêu cầu của Học viện theo phương châm: “Chủ động - Đồng bộ - Đột phá - Kỷ cương - Chất lượng - Hiệu quả”.

Ngay sau Đại hội XIII của Đảng, Học viện đã tích cực triển khai Chỉ thị số 01-CT/TW ngày 09-3-2021 của Bộ Chính trị “về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”; Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kịp thời sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương và Đảng ủy Học viện.

Các điển hình tiên tiến, cách làm hay, sáng tạo được tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ, đảng viên, viên chức, người lao động. Bên cạnh đó, thông qua các buổi giao ban hằng tháng, hằng quý, sơ kết, tổng kết hằng năm; các buổi sinh hoạt chính trị, các văn bản hướng dẫn qua hệ thống văn bản điện tử V-office…, Đảng ủy Học viện đã chỉ đạo các cấp ủy tiếp tục tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật; chủ động ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện được đẩy mạnh theo các chương trình, kế hoạch phù hợp. Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Học viện đã góp phần xây dựng và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học đủ năng lực để tổ chức quán triệt sâu rộng các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đến các đối tượng học viên. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn trách nhiệm, nghĩa vụ học tập lý luận chính trị, từ đó chủ động, tích cực học tập, nâng cao trình độ, nghiệp vụ và năng lực công tác.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, khả năng vận dụng, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học còn có những hạn chế nhất định. Tính chủ động trong nghiên cứu và thực hiện nghị quyết; hệ thống văn bản hướng dẫn chưa sát với nhiệm vụ chuyên môn, thiếu tính đồng bộ, toàn diện, có lúc chưa kịp thời. Việc lãnh đạo, chỉ đạo các đảng bộ, chi bộ trực thuộc trong công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, kết luận của Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Học viện chưa thường xuyên, kịp thời. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học chưa thực sự chủ động, tích cực trong việc tự đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn bản thân. Học viện chưa xây dựng được các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên biệt dành cho đội ngũ này.

3. Giải pháp tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh để thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ những hạn chế: “chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là một khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp”(1). Để Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện tốt vai trò là trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện bằng nhiều giải pháp.

Một là, tăng cường, phát huy vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của cấp ủy, tổ chức đảng và lãnh đạo chuyên môn các cấp trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tâm huyết, tầm nhìn và khát vọng cống hiến để cụ thể hóa và thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng

Ngày 26-5-2014, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó đã đề ra quan điểm chỉ đạo: “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, gắn học tập với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tư cách người cách mạng”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”(2). Đây là những chủ trương, định hướng cơ bản của Đảng cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc để phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, năng lực và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học Học viện trong việc học tập, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn.

Các cấp ủy, tổ chức đảng và lãnh đạo chuyên môn các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chiến lược, kế hoạch, nguồn lực cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học theo đúng tinh thần chiến lược phát triển của Học viện đến năm 2030: tập trung lãnh đạo xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Cấp ủy, tổ chức đảng và lãnh đạo chuyên môn các cấp cần tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức tu dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và ý thức tự học tập, tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của đơn vị; chuyển hóa nhận thức đó thành những chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học có đủ năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.

Hai là, tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa phương thức, chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học

Để nâng cao chất lượng thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng, Nhà nước, Đảng ủy, Giám đốc Học viện xác định công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Tuy nhiên, cần đổi mới nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuyển mạnh từ việc trang bị kiến thức lý luận sang phát triển năng lực tư duy, tầm nhìn và gắn với thực tiễn. Theo đó, cùng với việc thường xuyên cập nhật, bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị, cần xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tăng cường khả năng xử lý tình huống; tăng thời gian trao đổi, thảo luận, thực hành, nghiên cứu thực tế… để tăng thêm vốn hiểu biết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ.

Đổi mới quy trình xây dựng nghị quyết của Đảng ủy Học viện và các cấp ủy trực thuộc bảo đảm tính khoa học, thực tiễn, khả thi. Các nghị quyết quan trọng của Đảng ủy Học viện cần được xây dựng trên cơ sở các nghiên cứu khoa học dưới dạng đề án tổng kết thực tiễn, huy động các cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học có trình độ cao, năng lực chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý tham gia.

Ba là, tăng cường nguồn lực giảng viên chất lượng cao; đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo theo hướng thông minh, hiện đại

Chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên có đủ phẩm chất, trình độ chuyên môn, am hiểu thực tiễn; đội ngũ báo cáo viên, giảng viên thỉnh giảng là cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trong đó tập trung triển khai dự án “Xây dựng mô hình quản trị thông minh tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”; “Trung tâm chia sẻ tri thức toàn cầu” - cơ chế tổ chức mềm thuộc Học viện, nhằm trao đổi, chia sẻ tri thức, chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện nói riêng.

Bốn là, phát huy tốt vai trò của các đơn vị tham mưu; tăng cường công tác quản lý, coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát

Tiếp tục phát huy vai trò của các cơ quan tham mưu thanh tra về quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức - cán bộ… trong việc xây dựng các chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện. Đồng thời, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng cường quản lý, thanh tra, kiểm tra; tổ chức đánh giá sau đào tạo, bồi dưỡng để điều chỉnh nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học của Học viện có bản lĩnh, trình độ, năng lực chuyên môn cao để đảm nhận việc cụ thể hóa và thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng.

Vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh.

 Hiện nay các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã trở thành hệ thống thống nhất trên toàn quốc. Đội ngũ giảng viên trường chính trị trực tiếp đảm đương nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học của nhà trường và tham gia tư vấn chính sách, tham gia công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị. Thực hiện nhiệm vụ của minh, đội ngũ giảng viên trường chính trị có vai trò quan trọng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm, sai trái thù địch.

Vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

Các giảng viên đạt danh hiệu "Giảng viên dạy xuất sắc" tại Hội thi Giảng viên dạy giỏi toàn quốc các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lần thứ VIII - năm 2023 - Ảnh: baocaovien.vn

1. Mở đầu

Xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của trường chính trị cấp tỉnh hiện nay, đội ngũ giảng viên các trường chính trị đảm đương các nhiệm vụ khá nặng nề, từ giảng dạy, nghiên cứu khoa học tổng kết thực tiễn và tham mưu, tư vấn chính sách, là tấm gương của người thày đối với các thế hệ học viên.

Xác định rõ, vai trò, nhiệm vụ là cơ sở để xây dựng hệ thống các tiêu chí cụ thể về tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá đội ngũ giảng viên, từ đó định hướng xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, cơ cấu phù hợp. Đây là điều kiện nền tảng để các trường chính trị đáp ứng hiệu quả các nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần xây dựng hệ thống chính trị các địa phương trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Để lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công tác cán bộ có vai trò rất lớn, là công việc gốc, trong đó công việc đào tạo, bồi dưỡng là công việc gốc của gốc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhiệm vụ của giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục (...) Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa”(1).

Trong sự nghiệp cách mạng, thông qua các hoạt động trực tiếp vào quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Các trường chính trị tỉnh, thành phố là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các địa phương, hằng năm thực hiện nhiệm vụ về tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên với chục hàng vạn học viên trên cả nước, đối tượng dự các khóa học là cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị, đảng viên trên cả nước.

2. Nội dung

Đội ngũ giảng viên ở các trường chính trị càng đặc biệt quan trọng, giữ vai trò nòng cốt, hạt nhân quyết định trực tiếp đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở.

Trường chính trị tỉnh, thành phố có chức năng là cơ sở giáo dục, đào tạo nên giảng viên trường chính trị cùng mang những đặc điểm chung của nhà giáo hệ thống giáo dục Việt Nam là: đối tượng giảng dạy trực tiếp là con người, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội; phẩm cách là nhân tố quan trọng hàng đầu nên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức; có yêu cầu cao trong nghiên cứu, giảng dạy, nên phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cao, nghiệp vụ tinh thông, khả năng lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch dạy - học và các kỹ năng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn nghề nghiệp, là tấm gương học tập suốt đời. Vai trò của đội ngũ giảng viên được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:

Một là, đội ngũ giảng viên trường chính trị là lực lượng trực tiếp đảm nhiệm vai trò chủ chốt, quyết định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các trường chính trị góp phần thực hiện mục tiêu, yêu cầu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở địa phương.

Khẳng định tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Hồ Chủ tịch chỉ rõ “Cán bộ là gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Cán bộ là khâu trọng yếu của công tác xây dựng nhân lực lãnh đạo, quản lý, muốn có cán bộ tốt, thông thạo công việc thì nhất nhiết phải huấn luyện và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách thường xuyên, có hiệu quả.

Vai trò quan trọng của đội ngũ giảng viên các trường chính trị là lực lượng trực tiếp tham gia đảm nhiệm vai trò chính, vai trò chủ chốt ở tất cả các khâu trong quy trình thực hiện đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường, từ việc xác lập các chương trình đào tạo, bồi dưỡng; quá trình xây dựng, phát triển chương trình; trực tiếp giảng dạy tất cả các bài, chuyên đề, nội dung trong các chương trình đó; hướng dẫn viết, tổ chức chấm đồ án, khóa luận tốt nghiệp... đến trực tiếp đánh giá chất lượng học tập của học viên.

Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, được áp dụng nhiều vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo làm tăng khả năng nhận thức của học viên. Nhưng suy cho cùng, tất cả các ứng dụng trên chỉ có thể là công cụ hỗ trợ, giúp quá trình nhận thức được thuận lợi hơn chứ không thể thay thế được vai trò chủ đạo của người giảng dạy trực tiếp. Vì vậy, giảng viên vẫn luôn đóng vai trò “trung tâm” của quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Chất lượng công tác của giảng viên luôn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Hai là, đội ngũ giảng viên trường chính trị là lực lượng nòng cốt, trực tiếp giáo dục, tuyên truyền sâu rộng về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 13-11-2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quy định số 09-Qđi/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Để thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, đội ngũ giảng các trường là lực lượng nòng cốt, lực lượng quan trọng nhất thực hiện phần lớn nhiệm vụ chính trị.

Thông qua công tác giảng dạy các chuyên đề, bài giảng, giảng viên trực tiếp truyền thụ đến người học hiểu sâu, hiểu đúng về những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra ở trong nước và trên thế giới.

Đội ngũ giảng viên trực tiếp trang bị cho người học thế giới quan, phương pháp luận khoa học, niềm tin vững chắc vào Đảng Cộng sản Việt Nam; trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu và thực hiện nghiêm, thực hiện đúng chủ trương, đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Ngăn ngừa, đẩy lùi những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, bóp méo sự thật để trục lợi cá nhân.

Ba là, đội ngũ giảng viên trường chính trị là lực lượng trực tiếp tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Nghị quyết 37/NQ-TW đã xác định rõ tầm quan trọng ngày càng cao của công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn.

Đây được xác định là một trong những nhóm nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của các trường chính trị. Đây là động lực thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ cán bộ, giảng viên, đòi hỏi họ phải nỗ lực phấn đấu, nâng cao trình độ, chuyên môn đáp ứng hiệu quả nhiệm vụ trên.

Đội ngũ giảng viên luôn là lực lượng xung kích hàng đầu trực tiếp tham gia thực hiện toàn bộ quá trình nghiên cứu: từ xác định định hướng, vấn đề cần nghiên cứu, các loại hình nghiên cứu đến xây dựng tổng quan, đề cương nghiên cứu và trực tiếp tham gia viết chuên đề khoa học, tổng kết, hoàn thiện đề tài khoa học, công bố kết quả nghiên cứu và thực hiện các giải pháp ứng dụng vào thực tiễn.

Qua các hoạt động khoa học, đội ngũ giảng viên đóng góp trực tiếp vào công tác tuyên truyền, phổ biến đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân về thực hiện nghiêm, hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bốn là, đội ngũ giảng viên trường chính trị đóng vai trò là chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị.

Qua việc trực tiếp giáo dục, bồi dưỡng, tuyên truyền về các nội dung liên quan đến khoa học lý luận chính trị, giảng viên các trường chính trị góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; trực tiếp trang bị cho người học thế giới quan, phương pháp luận khoa học, lý tưởng, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế chính trị - xã hội ở địa phương.

Giảng viên các trường chính trị là đội ngũ tiên phong trong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, trực tiếp tham gia đấu tranh, phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện truyền thông qua những bài phát biểu trên các diễn đàn khoa học, bài viết trên sách, báo, tạp chí và các sản phẩm khoa học của mình.

Năm là, đội ngũ giảng viên trường chính trị có vai trò quan trọng trong việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị góp phần xây dựng trường chính trị phát triển vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao trong giai đoạn mới.

Là lực lượng trực tiếp quán triệt và thực hiện thắng lợi chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy các trường, trước hết là nghị quyết của các cấp đảng bộ ở đơn vị. Đây là lực lượng chủ yếu đóng góp vào việc xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, trực tiếp giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên thuộc khoa, phòng, ban chuyên môn về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong cách công tác... đóng góp vào thành công và sự vững mạnh chung của các trường chính trị.

Sáu là, đội ngũ giảng viên trường chính trị có vai trò quan trọng trong bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện, là tấm gương mẫu mực về nhân cách cho học viên noi theo.

Dựa trên nguyên tắc của hành động “kỷ cương - đồng bộ - sáng tạo - hiệu quả”, để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trong giáo dục, rèn luyện học viên, các trường chính trị luôn xác định muốn có chất lượng tốt thì đội ngũ giảng viên phải tốt, học viên phải tốt và quy trình đào tạo, bồi dưỡng phải tốt.

Trong tiêu chuẩn giảng viên tốt, trước hết đội ngũ này phải có nhân cách người thày, nhân cách của giảng viên bao gồm: phẩm chất (trình độ chuyên môn, lý tưởng nghề nghiệp, lòng yêu thương học viên...) và năng lực (năng lực sư phạm, khả năng hiểu, hòa nhập với học viên, khả năng về biên soạn tài liệu học - tập, giáo án...). Giảng viên có tình yêu trong công việc là điều kiện quan trọng trở thành giảng viên tốt, đội ngũ giảng viên trường chính trị luôn ý thức rõ được vị trí cao quý của “người thầy” trong giáo dục, rèn luyện học viên, luôn phấn đấu là tấm gương sáng để học viên nhìn vào, noi gương.

Ngay từ khi được tuyển dụng vào là giảng viên, đến quá trình phát triển bản thân luôn phấn đấu hoàn thiện bản thân cả về đức và tài, coi đó là nguyên tắc, mục tiêu hàng đầu trong thực hiện nhiệm vụ.

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu và yêu cầu có tính đặc thù cao về vai trò, vị trí trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, cho nên cùng với phát huy tốt vai trò đội ngũ giảng viên trường chính trị, trong các giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên trường chính trị hiện nay, cần phải chú ý đến những đặc điểm riêng của đội ngũ này trên các phương diện cụ thể như sau:

Thứ nhất, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, trình độ khoa học lý luận chính trị và năng lực công tác phù hợp, đồng thời phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Từ yêu cầu công việc có tính đặc thù về đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng hằng năm, là đội ngũ cán bộ có trình độ cao (đa số đã tốt nghiệp đại học trở lên); nghiệp vụ vững vàng; có rất nhiều kinh nghiệm trong thực hiện công vụ do đã có thời gian dài công tác trong ngành, lĩnh vực phụ trách trước khi được cử đi học tập; đặc biệt có kiến thức thực tiễn phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực xã hội.

Nội dung học tập, bồi dưỡng chủ yếu tập trung về chuyên ngành khoa học lý luận, với trách nhiệm làm rõ hơn, sáng tỏ hơn về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn về xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật. Ngay từ các khâu xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu...đã đòi hỏi đội ngũ giảng viên trường chính trị phải có trình độ chuyên môn cao, sâu, rộng, có nghiệp vụ giỏi, đặc biệt là đội ngũ giảng dạy ở khoa lý luận cơ sở và khoa xây dựng Đảng phải là đảng viên. Đây cũng là một trong những tiêu chí bắt buộc về điều kiện tiêu chuẩn với chức danh nghề giảng viên trường chính trị đã được quy định.

Thứ hai, được đào tạo cơ bản, có chuyên ngành phù hợp với nội dung của nhà trường; có trình độ về lý luận chính trị cao. Theo số liệu khảo sát, tính đến năm 2023, số cán bộ ở các trường chính trị có trình độ từ thạc sĩ trở lên là 1.900 người, chiếm gần 62% tổng số cán bộ, viên chức hiện có của các trường, tập chung chính ở đội ngũ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy; số lượng cán bộ, viên chức có trình độ lý luận chính trị cao cấp chiếm đa số (trên 50%), còn lại cơ bản có trình độ trung cấp lý luận chính trị - hành chính, số ít chưa có tập trung chủ yếu ở đội ngũ cán bộ, viên chức trẻ, mới được tuyển dụng hoặc đối tượng làm công tác hành chính, phục vụ; hơn 80% được học tập, bồi dưỡng phương pháp giảng dạy hiện đại; bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bồi dưỡng giảng dạy chuyên ngành khoa học lý luận. Đại đa số được đào tạo bài bản ở những cơ sở đại học có uy tín trong và ngoài nước; có chuyên ngành phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị, chủ yếu tốt nghiệp các chuyên ngành về khoa học lý luận chính trị (triết học, xây dựng Đảng chính quyền nhà nước, lịch sử Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh...) kinh tế, luật - hành chính. Đây là cơ sở quan trọng giúp các trường hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị được giao hằng năm.

Thứ ba, là người chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định, nhạy cảm chính trị, thường xuyên tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Là những người có khả năng, kỹ năng áp dụng những phương pháp giảng dạy tích cực và hiện đại vào bài giảng, đội ngũ giảng viên thông qua bài giảng khẳng định lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đội ngũ cán bộ ở địa phương.

Thứ tư, thường xuyên được trau dồi kiến thức thực tiễn thông qua nhiều hình thức. Với vị trí, vai trò có tính riêng biệt, đặc thù từ nội dung thực hiện nhiệm vụ đến đối tượng tham gia và các chương trình học tập, đặc biệt có yêu cầu cao về kiến thức thực tiễn gắn liền với thực hiện nhiệm vụ. Do vậy ngay từ khi xây dựng chiến lược phát triển trường chính trị; xây dựng hệ thống các quy chế, quy định thực hiện ở đơn vị đã xác định rõ một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của đội ngũ giảng viên là phải thường xuyên được trải nghiệm những kiến thức từ thực tiễn thông qua các hình thức thực hiện như: đi biệt phái ở cơ sở; tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào tổng kết thực tiễn ở địa phương; tham dự hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học; tham gia viết bài trên sách, báo, tạp chí; tham gia các nhóm nghiên cứu theo từng nội dung, chuyên ngành cụ thể.

3. Kết luận

Đội ngũ giảng viên trường chính trị có vị trí, vai trò trụ cột, hạt nhân trong mọi hoạt động của nhà trường. Đội ngũ giảng viên trường chính trị không chỉ đơn thuần là trực tiếp đảm đương công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà còn là tấm gương mẫu mực để thế học viên noi theo.

Đánh giá đúng vai trò, đặc điểm của đội ngũ giảng viên trường chính trị là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết để trên cơ sở xác định rõ tiêu chí, tiêu chuẩn giảng viên, góp phần thực hiện nhiệm vụ của các trường chính trị cấp tỉnh hiện nay, đi tới xây dựng được hệ thống các tiêu chí đánh giá cụ thể về chất lượng đội ngũ giảng viên, từ đó xây dựng thành công đội ngũ giảng viên có trình độ cao, chuyên môn giỏi, có cơ cấu phù hợp, có phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp tốt, để các trường chính trị đáp ứng hiệu quả các nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, địa phương trong sạch, vững mạnh toàn diện.