Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

Phản bác luận điệu xuyên tạc công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

 Nhằm tiếp tục đẩy mạnh triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Chỉ thị 45/CT-TW tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới...


    Đoàn công tác của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài
    và đại biểu kiều bào tại thị trấn Trường Sa năm 2024. (Ảnh PHAN HẢI)

    Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1334/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” (Quyết định 1334). Có thể nói, đây là chương trình hành động quan trọng, qua đó tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện chính sách với người Việt Nam ở nước ngoài.

    Thực tiễn triển khai cho thấy, Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” đã đem lại nhiều hiệu quả và kết quả tích cực, được kiều bào ta đón nhận và ủng hộ nhiệt thành. Thế nhưng với âm mưu đen tối, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động không ngừng các thủ đoạn chống phá, thường xuyên khai thác phương tiện thông tin đại chúng, trang web, mạng xã hội ở nước ngoài... để đăng tải nhiều bài viết, video, thậm chí tổ chức Hội thảo với mục đích xuyên tạc Quyết định 1334.

    Nổi lên có thể kể đến loạt bài kêu gọi: “Vô hiệu hóa Quyết định 1334: Cần hành động có sách lược và có phối hợp”; “Đối phó Quyết định 1334, cần hành động thiết thực và hiệu quả”; “Cộng đồng người Việt ở nước ngoài hãy đề cao cảnh giác với chiêu trò của Đảng Cộng sản Việt Nam”; “Bản lên tiếng về chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm khai thác người Việt tại hải ngoại”; Hay tổ chức Hội thảo “Vô hiệu hóa Quyết định 1334 của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam”, Hội luận chính trị chống Quyết định 1334 của cộng sản Việt Nam...

    Qua “chiến dịch” chống phá nêu trên có thể thấy các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang ra sức xuyên tạc, tìm cách đánh tráo khái niệm, đổi trắng thay đen bản chất sự việc, tập trung vào hai nội dung cơ bản.

    Một là, xuyên tạc và vu cáo Quyết định 1334 lợi dụng người Việt ở nước ngoài.

    Hai là, xuyên tạc và vu cáo Quyết định 1334 là để kiểm soát người Việt hải ngoại. Các đối tượng ra sức rêu rao “việc lãnh đạo Việt Nam ra nước ngoài thường tuyên truyền sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất cho người Việt hải ngoại chỉ là lời nói sáo rỗng, không tưởng”, mà thực chất là để “hợp thức hóa âm mưu của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc kiểm soát hành động và sự ảnh hưởng của người Việt ở hải ngoại”; là để “lấn sâu vào sân sau của cộng đồng người Việt hải ngoại”;

    Hay, việc ra Quyết định này với danh nghĩa là “phát huy nguồn lực” nhưng nhằm “đánh phá các cộng đồng người Việt hải ngoại, dẹp “đám” phản động từ sớm, từ xa để giảm thiểu sự chống đối, tố cáo, phơi trần những sai trái, vi phạm các nguyên tắc dân chủ trong xã hội” và để lợi dụng, vừa tạo thêm sự mất đoàn kết trong các hội đoàn người Việt ở nước ngoài; “triệt tiêu tận gốc mọi hình thái phản kháng và bất tuân dân sự đối với những trường hợp “nằm vùng” trong các hội đoàn của người Việt Nam ở nước ngoài”,...

    Không khó nhận diện những luận điệu mà các thế lực thù địch, phản động đưa ra nhằm mục đích xuyên tạc quan điểm, chủ trương, chính sách về người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta; phủ nhận những nỗ lực trong việc phát huy vai trò, củng cố sức mạnh, tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước và những nỗ lực nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam ở cả trong nước và ngoài nước của Đảng và Nhà nước. Mục đích cuối cùng của chúng là chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chế độ, cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

    Quyết định 1334 tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết 36 ngày 26/3/2004 về người Việt Nam ở nước ngoài, Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, đồng thời thể hiện rõ chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về huy động mọi nguồn lực, tiềm năng để xây dựng và phát triển đất nước và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.

    Quyết định 1334 cùng với nhiều chủ trương, chính sách khác liên quan đến vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục tạo những điều kiện thuận lợi, mở rộng quyền cho bà con ta có cơ hội làm ăn, đầu tư... ở trong nước. Những chủ trương, chính sách này không chỉ tháo gỡ những rào cản pháp lý, rào cản thủ tục hành chính trước đây, mà có nhiều thay đổi thuận lợi về mặt pháp lý, tạo ra khuôn khổ, cơ chế bền vững cho sự bình đẳng giữa người dân trong nước và kiều bào khi tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh, khoa học-công nghệ, văn hóa thể thao, nhân đạo. Đồng thời, mở ra cơ chế khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước trên các lĩnh vực.

    Việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, khoa học-công nghệ, xuất nhập cảnh, quốc tịch, sở hữu nhà, bất động sản..., thiết thực hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, Quyết định 1334 không phải là những “lời nói suông”, sáo rỗng, “mị dân” như các thế lực thù địch xuyên tạc mà đó thật sự là cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa những mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta đã đặt ra.

    Có thể thấy, đại đa số đồng bào ta ở nước ngoài là những người có lòng yêu nước, luôn hướng về cội nguồn và mong muốn được trở về đóng góp cho quê hương, đất nước khi có cơ hội. Phần đông kiều bào luôn ý thức và quan tâm nắm bắt, tìm hiểu, ủng hộ sự chuyển mình trên mọi mặt của đất nước, những thành tựu và vị thế của đất nước trên trường quốc tế, sự ổn định chính trị, những thay đổi tích cực về cơ chế pháp lý, thủ tục hành chính,... Khi có điều kiện đều sẵn sàng quay trở về đóng góp một phần công sức cũng như của cải vật chất để phát triển đất nước.

    Kiều bào ta cũng tỉnh táo nhận diện được những thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động nên có ý thức đề cao cảnh giác, không để các thế lực phản động, thù địch có cơ hội để lôi kéo, kích động.

    Trước những sự kiện quan trọng của đất nước, người Việt Nam ở nước ngoài luôn thể hiện rõ tấm lòng hướng về quê hương, đất nước, thể hiện sự ủng hộ đối với chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Nhiều người Việt Nam ở nước ngoài đã tham gia đầu tư vào các dự án trong nước; phát huy tinh thần tương thân tương ái, tham gia quyên góp, ủng hộ, hỗ trợ người dân trong nước khi gặp thiên tai, bệnh dịch...; tham gia hợp tác khoa học, công nghệ, giáo dục; tham gia đầu tư bất động sản, nhà ở để kinh doanh hay làm nơi ở.

    Thậm chí, trước những đổi thay nhanh chóng của đất nước, tác động tích cực của công tác người Việt Nam ở nước ngoài, không ít những người vốn từng là lực lượng đối lập, chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam, quay lưng lại với Tổ quốc... cũng đã thay đổi nhận thức, quan điểm, mong muốn được trở về quê hương để định cư và làm ăn sinh sống. Nhiều kiều bào trước đây từng có mặc cảm, định kiến với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa thì nay cũng có những thay đổi về suy nghĩ, có những đánh giá tích cực về đường lối, chính sách cũng như những thành tựu của đất nước; thẳng thắn phê phán luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động lưu vong.

    Từ minh chứng sinh động trong thực tiễn cho thấy nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta trong xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách và đã được cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đón nhận và ủng hộ. Như mới đây, ngày 22/8, tại Hà Nội, Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ IV và Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài năm 2024 đã diễn ra với sự tham gia của đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 400 kiều bào từ hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hội nghị lựa chọn chủ đề “Người Việt Nam ở nước ngoài chung tay hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước” với nhiều điểm mới.

    Lần đầu tiên trong khuôn khổ hội nghị, Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Diễn đàn Trí thức và chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài. Qua ba lần tổ chức, Hội nghị đã tạo diễn đàn trao đổi chuyên sâu giữa kiều bào với trong nước về những vấn đề mang tính chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và các nội dung liên quan cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thật sự trở thành “Hội nghị Diên Hồng” của người Việt Nam ở nước ngoài. Kiều bào thật sự trở thành nguồn lực quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong vòng hơn 30 năm qua, tổng lượng kiều hối chuyển về trong nước đạt hơn 200 tỷ USD, tương đương với lượng giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cùng kỳ.

    Trước thực tế này, sự xuyên tạc, bóp méo đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta nói chung, Quyết định 1334 nói riêng của các thế lực thù địch càng trở nên lố bịch, không có giá trị. Ngay chính trong số các bài viết lên tiếng kêu gọi “vô hiệu hóa Quyết định 1334” của các thế lực thù địch, phản động lưu vong, hoàn toàn không có những luận cứ khoa học hay cơ sở thực tiễn để phản biện, mà chủ yếu chỉ đưa ra lời kêu gọi chống phá với những luận điệu cũ rích với âm mưu kêu gọi lật đổ chính quyền, làm chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,...

    Lực lượng, hội, nhóm chống phá ở hải ngoại hiện ngày càng suy giảm và chỉ là thiểu số trong cộng đồng người Việt Nam ta ở nước ngoài. Các mục tiêu, âm mưu chống phá của chúng đang tỏ ra lạc lõng so với xu thế phát triển chung là hòa bình, hợp tác trên thế giới hiện nay. Cùng với sự phát triển ngày càng vững mạnh của đất nước, những thay đổi tích cực trong chủ trương, chính sách cho người Việt Nam ở nước ngoài, mới nhất là Quyết định 1334 đã cho thấy ý nghĩa tốt đẹp và chính sách cởi mở của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong hỗ trợ, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người Việt Nam ở nước ngoài; trong thu hút nguồn vốn, nguồn lực từ bên ngoài cũng như gắn kết thêm kiều bào Việt Nam với Tổ quốc, vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc ở cả trong nước và ngoài nước.

    Tinh gọn bộ máy tạo đà thúc đẩy chuyển đổi số.

     Trong bài viết “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới. Đây là chỉ đạo mới, thiết thực, phù hợp với xu thế thời đại.

        

      Cán bộ VNPT giới thiệu các dịch vụ và nền tảng chuyển đổi số. (Ảnh: BÁO NHÂN DÂN)

      Thời gian vừa qua, chúng ta đã tích cực trong triển khai ứng dụng công nghệ số vào các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, cải cách hành chính... Trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn và điện toán đám mây đang dần trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành nghề. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, công nghiệp công nghệ số hiện là lõi của kinh tế số và đang chiếm gần 60% tổng giá trị của kinh tế số, góp phần quan trọng vào việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước.

      Trong bài viết về chuyển đổi số, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng có đánh giá: Bước sang thế kỷ 21, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 5,7-5,9%/năm, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới; quy mô nền kinh tế tăng 1,45 lần, ước đạt 500 tỷ USD vào năm 2025. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 3.400 USD đến khoảng 4.650 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025.

      Tuy nhiên, so sánh với tốc độ chuyển đổi số của nhiều nước trên thế giới thì chúng ta còn chậm. Nguyên nhân là do tổ chức bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, hoạt động kém hiệu quả. Trước hết có thể thấy rõ việc phải dành đến 70% ngân sách để trả lương nuôi bộ máy đã khiến các nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó có hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ chuyển đổi số còn yếu, chưa đồng bộ. Bộ máy cồng kềnh nhiều tầng nấc trung gian cũng gây khó khăn cho triển khai các dự án công nghệ số, tốn kém kinh phí.

      Trong khi đó, phát triển hạ tầng số quốc gia luôn phải đi trước một bước để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số…, đây là lý do vì sao Chính phủ đầu tư khá lớn vào triển khai các công trình, dự án chuyển đổi số quốc gia nhưng kết quả chưa như kỳ vọng.

      Sơ kết 6 tháng đầu năm 2024 về chuyển đổi số quốc gia, báo cáo cho thấy, về hạ tầng công nghệ còn 9/22 bộ, ngành chưa hoàn thành việc nâng cấp, hoàn thiện hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh.

      Về dữ liệu, ở địa phương mới đạt 10,23% và ở bộ, ngành đạt 1,17% số lượng hồ sơ thủ tục hành chính có tái sử dụng thông tin, dữ liệu đã được số hóa. Nguy cơ, năm 2025 sẽ không hoàn thành mục tiêu cắt giảm 50% các thủ tục hành chính, giấy tờ liên quan đến dữ liệu dân cư...

      Một điểm nghẽn quan trọng là từ tổ chức, bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian dẫn đến cơ chế xin cho, làm nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Một số cán bộ, nhất là những người nắm giữ quyền lực và vị trí then chốt trong các cơ quan, đơn vị, địa phương, vì lợi ích cá nhân, chưa thật sự muốn đẩy mạnh chuyển đổi số. Nhiều cán bộ, công chức cũng chưa mặn mà với chuyển đổi số vì sợ mất việc làm do bị công nghệ thay thế…

      Một điểm nghẽn quan trọng là từ tổ chức, bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian dẫn đến cơ chế xin cho, làm nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.

      Do vậy, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, Tổng Bí thư Tô Lâm đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ: Cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương.

      Đây là giải pháp quan trọng giúp cuộc cách mạng về chuyển đổi số của chúng ta bứt phá phát triển, đồng thời quay trở lại giúp tổ chức, bộ máy tinh gọn, giảm chi phí, hoạt động hiệu năng, hiệu quả. Để làm tốt nhiệm vụ này, Trung ương đã có những chỉ đạo, định hướng quan trọng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các cấp, ngành, địa phương cũng đang khẩn trương tiến hành công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy.

      Đây là nhiệm vụ cấp bách, được Trung ương xác định phải tiến hành khẩn trương cho nên rất cần sự thống nhất, đồng thuận của cả hệ thống chính trị. Trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, chủ động, với quyết tâm cao nhất, hành động quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao; xác định những nội dung, công việc ưu tiên và phối hợp nhịp nhàng trong triển khai thực hiện, quyết tâm hoàn thành việc tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo đúng mục tiêu, yêu cầu và tiến độ đề ra.


      Ông Bùi Đức Hinh được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình.

       Ngày 7/1, ông Bùi Đức Hinh, sinh ngày 13/9/1968, dân tộc Mường, được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình khóa XVII, nhiệm kỳ 2021-2026.

        Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Phi Long và các đại biểu chúc mừng tân Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bùi Đức Hinh. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

        Ngày 7/1, Hội đồng Nhân dân tỉnh Hòa Bình khóa XVII, nhiệm kỳ 2021-2026 tổ chức kỳ họp thứ 24 (kỳ họp chuyên đề).

        Tại kỳ họp, Hội đồng Nhân dân tỉnh Hòa Bình đã thực hiện các quy trình về công tác nhân sự, miễn nhiệm chức danh Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh khoá XVII, nhiệm kỳ 2021-2026 và cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh đối với ông Bùi Văn Khánh (do nghỉ hưu trước tuổi theo chế độ); miễn nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh và bầu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh khóa XVII, nhiệm kỳ 2021-2026 đối với ông Bùi Đức Hinh với tỷ lệ tán thành cao.

        Phát biểu nhận nhiệm vụ được giao, ông Bùi Đức Hinh trân trọng cảm ơn các đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Hòa Bình đã tin tưởng, tín nhiệm bầu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 2021-2026.

        Đồng thời, ông khẳng định đây vừa là vinh dự cũng là trách nhiệm lớn trước Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hòa Bình, trước truyền thống văn hóa-lịch sử, tinh thần cách mạng đầy tự hào và trước yêu cầu đẩy nhanh sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

        Tân Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình nhấn mạnh thời gian tới sẽ tiếp tục kế thừa, học hỏi và phát huy thành quả của các thế hệ lãnh đạo tiền nhiệm; nỗ lực học tập, nghiên cứu, rèn luyện về mọi mặt với khả năng cao nhất, nghiên cứu một cách thấu đáo, khoa học, đầy đủ và triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật, cùng với tập thể Ủy ban Nhân dân tỉnh luôn đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, quyết tâm, quyết liệt trong công tác chỉ đạo điều hành, tạo động lực mới thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển nhanh hơn, bền vững.

        Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bùi Đức Hinh phát biểu nhận nhiệm vụ. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

        Đồng thời, tập trung chỉ đạo thực hiện hoàn thành đạt và vượt các mục tiêu, chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII, nhiệm kỳ 2020-2025, triển khai hiệu quả các chủ trương của Đảng, Nhà nước và các cơ chế chính sách đặc thù của Quốc hội, Chính phủ cho tỉnh Hòa Bình, góp phần đưa Hòa Bình tiến cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; phối hợp chuẩn bị các điều kiện để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV.

        Ông Bùi Đức Hinh, sinh ngày 13/9/1968, dân tộc Mường; quê quán xã Kim Lập, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Trình độ chuyên môn Đại học Kinh tế Quốc dân; Đại học Kinh tế; Thạc sỹ Quản lý công; Cao cấp lý luận chính trị.

        Ông Bùi Đức Hinh từng giữ các chức vụ: Phó Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình (từ tháng 8/2005-9/2010); Bí thư Huyện ủy Cao Phong (từ tháng 11/2013-4/2015); Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư (từ tháng 5/2015-10/2015); Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư (từ tháng 11/2015-9/2019); Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh (từ tháng 10/2019-9/2020); Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy (từ tháng 10/2020-10/11/2020); Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Hòa Bình (từ ngày 11/11/2020 đến nay)./.

        Công bố Nghị quyết về kết thúc hoạt động của Truyền hình Quốc hội Việt Nam.

         Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị kết thúc hoạt động của Truyền hình Quốc hội Việt Nam từ ngày 15/1/2025 để chuyển chức năng, nhiệm vụ từ Truyền hình Quốc hội Việt Nam về Đài Truyền hình Việt Nam.

          Toàn cảnh Lễ công bố Nghị quyết. (Nguồn: Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam)

          Chiều 7/1, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Lễ công bố 2 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết thúc hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp và Truyền hình Quốc hội Việt Nam.

          Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh chủ trì buổi lễ.

          Tại Nghị quyết số 63/2025/UBTVQH15, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị kết thúc hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ ngày 15/1/2025; chuyển chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, quản lý khoa học, cung cấp thông tin khoa học và Tạp chí Nghiên cứu lập pháp về Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi lĩnh vực phụ trách.

          Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Văn phòng Quốc hội tiếp nhận toàn bộ hồ sơ công chức, viên chức, tiếp nhận quản lý toàn bộ tài sản, hồ sơ tài liệu, con dấu, tài khoản của Viện Nghiên cứu lập pháp, trong đó bao gồm công tác tài chính, kế toán, thanh quyết toán được thực hiện theo quy định của pháp luật. Các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, đề tài nghiên cứu được bảo lưu cho đến khi có cơ quan tiếp nhận.

          Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm tiếp tục giải quyết các nhiệm vụ mà Viện Nghiên cứu lập pháp đang được giao thực hiện là cơ quan thường trực của Hội đồng Khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan chủ trì biên tập sách và hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 80 năm Quốc hội Việt Nam, các nhiệm vụ liên quan đến việc kết thúc hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, đảm bảo các công việc không bị gián đoạn.

          Tại Nghị quyết số 64/2025/UBTVQH15, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị kết thúc hoạt động của Truyền hình Quốc hội Việt Nam từ ngày 15/1/2025 để chuyển chức năng, nhiệm vụ từ Truyền hình Quốc hội Việt Nam về Đài Truyền hình Việt Nam. Văn phòng Quốc hội tiếp tục duy trì hoạt động của Cổng Thông tin điện tử Quốc hội.

          Văn phòng Quốc hội và Đài Truyền hình Việt Nam rà soát, nghiên cứu, thống nhất và báo cáo cấp có thẩm quyền để bàn giao chức năng, nhiệm vụ, cơ sở vật chất và nhân sự từ Truyền hình Quốc hội Việt Nam về Đài Truyền hình Việt Nam.

          Văn phòng Quốc hội chủ trì, phối hợp với Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Trưởng Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục sắp xếp, giải quyết chế độ, chính sách đối với viên chức và lao động của Truyền hình Quốc hội Việt Nam (số không chuyển sang Đài Truyền hình Việt Nam) theo đúng quy định.

          Cả hai Nghị quyết trên có hiệu lực thi hành từ ngày 7/1/2025.

          Tại buổi lễ, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Nguyễn Văn Hiển và Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Việt Nam Lê Quang Minh khẳng định tuyệt đối chấp hành sự chỉ đạo, sắp xếp theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và chấp hành những nội dung được nêu trong Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; bày tỏ kỳ vọng phương án sắp xếp mới sẽ kế thừa được những thành quả đã đạt được, phát huy hơn nữa vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hai đơn vị.

          Phát biểu tại Lễ công bố, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh nêu rõ vừa qua, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 111 KL/TW về việc sáp nhập, kết thúc hoạt động, chuyển chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, trong đó có đánh giá cao Đảng đoàn Quốc hội là cơ quan gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện chủ trương Nghị quyết của Trung ương về sắp xếp, tinh gọn bộ máy.

          Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết Ủy ban Thường vụ Quốc hội ghi nhận đóng góp của tập thể lãnh đạo, công chức, viên chức, người lao động của Viện Nghiên cứu lập pháp và Truyền hình Quốc hội Việt Nam trong thời gian qua; đồng thời nhấn mạnh việc sắp xếp nhưng không được gián đoạn, không để tình trạng thực hiện nhiệm vụ không tốt, thậm chí còn phải tốt hơn và phải thống nhất quan điểm để thông suốt trong tư tưởng./.


          Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực qua gần 40 năm đổi mới.

           Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về tham nhũng, tiêu cực và công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có ý nghĩa và ảnh hưởng rất lớn đến quyết tâm chính trị, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác này. Qua gần 40 năm đổi mới, Đảng ta không chỉ nhận diện đúng hơn về bản chất, nguy cơ, tác hại của tham nhũng, tiêu cực, mà còn nhận thức đầy đủ hơn về ý nghĩa của cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực, cách thức phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân.

            Nhận diện đúng và sâu sắc hơn về tham nhũng, bản chất của tham nhũng

            Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, tham nhũng là hành vi “ăn cắp của công làm của tư”, là gian lận, tham lam, đục khoét của nhân dân, ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình(1). Người chỉ ra rằng, sở dĩ có nạn tham ô là vì chủ nghĩa cá nhân. Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, mắc bệnh quan liêu…(2). Từ nhận thức đó, Người đã ký Sắc lệnh số 223/SL, ngày 27-11-1946, quy định về việc xử phạt đối với tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ với mức hình phạt lên đến 20 năm tù khổ sai.

            Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực phát biểu_Ảnh: TTXVN

            Bước vào thời kỳ đổi mới, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có nhiều thay đổi. Nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về tham nhũng, bản chất của tham nhũng cũng dần thay đổi do các hình thức tham nhũng ngày càng trở nên tinh vi và phức tạp hơn. Năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Chống tham nhũng, trong đó xác định rõ, người có chức vụ, quyền hạn gồm những ai, 11 hành vi tham nhũng là gì và nhất là lần đầu tiên trong một văn bản pháp lý xác định rõ bản chất, nội hàm của hành vi tham nhũng(3). Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 ra đời, trong đó quy định ngắn gọn về tham nhũng nhưng có tính chính xác, khái quát cao hơn, phạm vi điều chỉnh của Luật được mở rộng, đáp ứng được yêu cầu công tác phòng, chống tham nhũng: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (khoản 2, Điều 1). Như vậy, hành vi tham nhũng được xác định với ba yếu tố cơ bản: Yếu tố chức vụ, quyền hạn; yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn và yếu tố vụ lợi; đồng thời, mở rộng thành 12 loại hành vi tham nhũng. Đến Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, bên cạnh việc giữ nguyên 12 hành vi tham nhũng, còn bổ sung thêm hành vi tham nhũng là “thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” (điểm l, khoản 1, Điều 2).

            Về vấn đề tiêu cực, tại các kỳ đại hội, Đảng ta nhận thấy có một số hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên nhưng chưa làm rõ được mối quan hệ giữa tham nhũng và tiêu cực; chưa chỉ rõ được nguyên nhân sâu xa, thực chất của tham nhũng là do tiêu cực. Đến Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”(4). Đại hội XII của Đảng nhận thức rõ hơn về tiêu cực, mối gắn kết chặt chẽ giữa phòng, chống tiêu cực với phòng, chống tham nhũng. Từ đó, Đảng ta cũng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về bản chất của tham nhũng. Theo đó, tham nhũng (tham ô, nhũng nhiễu) là hiện tượng xã hội tiêu cực mà thời nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, là “bóng tối vươn theo quyền lực”, “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực; bản chất của tham nhũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi; xảy ra cả trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, hành vi tham nhũng, tiêu cực được dự báo ngày càng tinh vi, phức tạp, khó lường hơn...

            Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ rõ: “Tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, là loại biểu hiện cụ thể của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tham nhũng và tiêu cực, nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có mối quan hệ gắn bó mật thiết, chặt chẽ với nhau; nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tiêu cực là môi trường làm nảy sinh tham nhũng; tham nhũng tác động trở lại làm trầm trọng hơn tình trạng tiêu cực”(5). Từ đó, đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Phòng, chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, tức là trị tận gốc của tham nhũng”(6). Đây cũng là tư tưởng chủ đạo của Đảng ta và đã được hiện thực hóa qua các kỳ đại hội gần đây. Việc bổ sung phòng, chống tiêu cực bên cạnh phòng, chống tham nhũng(7); khẩn trương thành lập ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực... là những bước đi quyết liệt, đúng đắn, cho thấy nhận thức ngày càng đầy đủ của Đảng ta về bản chất của tham nhũng, tiêu cực.

            Nhận thức rõ hơn, toàn diện, đầy đủ hơn về nguy cơ, tác hại và mục đích, ý nghĩa của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

            Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta sớm nhận thức được nguy cơ, tác hại của tham nhũng, tiêu cực đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ và sự nghiệp xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân. Nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính… Những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân(8).

            Khẳng định tác hại nghiêm trọng của tham nhũng, trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định, những hành vi tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời đã góp phần “làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan nhà nước”(9). Đặc biệt, đến Hội nghị Trung ương 3 khóa X, Đảng ta có những nhận thức mang tính bước ngoặt về tác hại của tham nhũng, khẳng định tham nhũng không chỉ “làm giảm sút lòng tin của nhân dân”, mà còn “là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”(10). Đảng ta cũng chỉ ra nhiều tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về “tính nghiêm trọng, sự nguy hại của tệ tham nhũng, lãng phí” nên “lãnh đạo không chặt chẽ, thiếu kiểm tra, đôn đốc, thậm chí còn nể nang, né tránh, dung túng, bao che cho tham nhũng, lãng phí”(11).

            Tại các kỳ Đại hội XI và XII, nhận thức của Đảng ta về nguy cơ, tác hại của tham nhũng ngày càng rõ rệt, cụ thể: Từ “đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(12); đến “là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ”(13). Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”(14). Đó là những nhận thức rất sáng suốt và sâu sắc về nguy cơ, tác hại của tham nhũng trong bối cảnh hiện nay.

            Việc nhìn nhận tham nhũng trước đây thường chú ý nhiều đến tác hại mà nó gây ra trên phương diện kinh tế như giá trị tài sản bị thiệt hại, bị chiếm đoạt, thất thoát, liên quan đến các vụ án, vụ việc tham nhũng lớn. Theo thời gian, việc nhìn nhận tham nhũng ngày càng trở nên chính xác và đúng bản chất hơn, không chỉ trên phương diện kinh tế, quản lý nhà nước, mà còn trên các phương diện chính trị, văn hóa, xã hội...

            Ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thấy, đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu là những việc làm cần thiết để chống thất thoát tài sản, lợi ích của Nhà nước. Sau 10 năm đổi mới, Đảng ta đã từng bước nhận thức rõ: “Đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay; góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân”(15). Nhiều chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng đã được ban hành và triển khai thực hiện(16). Qua 20 năm đổi mới, Đảng ta xác định, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Sau 30 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Sau 35 năm đổi mới, Đảng ta chỉ rõ, đấu tranh phòng, chống tham nhũng là “một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(17).

            Mục đích chủ yếu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chuyển từ thiên về xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm, thành “trị bệnh cứu người”, “kỷ luật một vài người để cứu muôn người”, “truy tố một vụ để cảnh tỉnh cả một vùng”; từ đó, để cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính. Tại Đại hội XII, Đảng ta xác định, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là “nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, và của toàn bộ hệ thống chính trị”(18); Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Thực hiện quyết liệt, nghiêm minh, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng”(19). Từ sự phát triển nhận thức về những vấn đề nêu trên, Đảng ta đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, với bước đi, lộ trình phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước…

            Nhận thức toàn diện, đồng bộ hơn về các biện pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

            Những năm đầu đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương chỉ tập trung chống 3 loại hành vi tham nhũng: tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi (Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998), tuy vậy, việc chống tham nhũng cần phải chứng minh hành vi tham nhũng “gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức”. Để bảo đảm giải quyết các hành vi tham nhũng ngày càng đầy đủ, cụ thể hơn, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định rõ 12 hành vi tham nhũng cần phải chống và Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã bổ sung thêm hành vi tham nhũng là “thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” (Điều 2).

            Qua các kỳ đại hội, Đảng ta dần nhận thấy, không chỉ có tham nhũng, mà buôn lậu, lãng phí, quan liêu cũng cần phải chống. Đại hội VIII của Đảng xác định: “Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu”(20). Trong những kỳ đại hội gần đây, nhất là tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn phải gắn với đấu tranh phòng, chống tiêu cực. Nội dung “tiêu cực” lúc này không chỉ dừng lại ở “buôn lậu”, “lãng phí”, “quan liêu” mà đã mở rộng hơn rất nhiều, trong đó trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Ngày 16-9-2021, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 32-QĐ/TW, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực” (thay thế cho Quy định số 211-QĐ/TW, ngày 25-12-2019), bổ sung chức năng phòng, chống tiêu cực cho Ban Chỉ đạo. Tiếp đó, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 6-7-2022, “Về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm”; Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ban hành Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW, ngày 1-8-2022, “Một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực”.

            Những văn bản nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý, chính trị quan trọng để công tác phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngày càng đồng bộ, thống nhất và gắn bó chặt chẽ với nhau. “Nếu như trước đây, chúng ta mới chỉ có quy định, chế tài xử lý các hành vi tham nhũng, thì nay đã có cả quy định, chế tài xử lý các hành vi tiêu cực; nếu như trước đây, cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng còn lúng túng trong nhận thức, triển khai công tác phòng, chống tiêu cực, thì hiện nay đã có quy định, hướng dẫn cụ thể giúp các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng thống nhất nhận thức trong triển khai thực hiện”(21).

            Đặc biệt, công tác phòng, chống tham nhũng không chỉ ở trong khu vực nhà nước mà còn mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước. Điều này xuất phát từ tình hình thực tế là tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước đã và gây ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động cạnh tranh lành mạnh, môi trường đầu tư, kinh doanh, cản trở hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. Khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước vốn có mối quan hệ chặt chẽ, như “bình thông nhau”, trong nhiều trường hợp, khu vực ngoài nhà nước chính là nơi trú ẩn, “sân sau” của những người có hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước. Bởi vậy, việc phòng, chống tham nhũng sẽ không thể triệt để nếu bỏ qua khu vực ngoài nhà nước. Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26-12-2017, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” nêu rõ yêu cầu: “từng bước mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước”. Thể chế hóa quan điểm này, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 lần đầu tiên quy định các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức thuộc khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm: tham ô tài sản; nhận hối lộ; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi (khoản 2, Điều 2); đồng thời, dành 5 điều (Chương VI) quy định về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức ở khu vực ngoài nhà nước. Nhờ đó, thời gian gần đây, rất nhiều đại án tham nhũng được phát hiện và xử lý, qua đó khẳng định chủ trương của Đảng ta về từng bước mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay, đồng thời là lời cảnh tỉnh cho các doanh nghiệp, tổ chức ở khu vực ngoài nhà nước.

            Nếu trước đây tập trung vào “chống” tham nhũng, thì nay tập trung cả vào các biện pháp “phòng ngừa” tham nhũng; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa, chủ động phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có hành vi tham nhũng, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong đó, phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách. Việc xử lý cũng lấy giáo dục, răn đe, phòng ngừa làm chính. Kết quả chỉ đạo xử lý nghiêm minh các vụ án, vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp thời gian qua đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn ngừa tham nhũng rất có hiệu quả.

            Các mũi nhọn trong công tác phòng ngừa tham nhũng hiện nay được Đảng và Nhà nước ta tập trung thực hiện bao gồm: 1- Thực hiện văn hóa liêm chính; 2- Kiểm soát tài sản, thu nhập; 3- Kiểm soát quyền lực; 4- Thực hiện tốt công tác cán bộ; 5- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; 6- Xây dựng, nâng cao năng lực các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đặc biệt, xây dựng văn hóa liêm chính là một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Văn hóa liêm chính là nền tảng xây dựng ý thức và thực hành liêm chính của cán bộ, đảng viên, xây dựng văn hóa liêm chính là để “không muốn” tham nhũng, tiêu cực. Muốn xóa bỏ triệt để, tận gốc tham nhũng, tiêu cực, việc xây dựng văn hóa liêm chính với tinh thần “danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất” chính là giải pháp căn cơ, lâu dài.

            Ngày 27-10-2023, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 131-QĐ/TW, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán” và Quy định số 132-QĐ/TW, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án”. Những quy định này đã tạo ra sự đột phá, là một bước tiến mới về nhận thức phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan này trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quy định thể hiện rõ quyết tâm của Đảng ta trong việc tạo cơ sở pháp lý vững chắc để kiểm soát quyền lực, “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế”, siết chặt thể chế để “không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”.

            Công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế trước đây chưa được quan tâm đúng mức nên kết quả đạt được còn thấp. Mục đích chính của các cơ quan tố tụng trong điều tra, xử lý tội phạm tham nhũng chủ yếu là để phát hiện, xử lý tội phạm. Đến Hội nghị Trung ương 3 khóa X, Đảng ta xác định phải: “Chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng. Áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng. Nghiên cứu sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng khoan hồng hơn đối với những người đưa hoặc người nhận hối lộ nhưng đã tự giác khai báo và nộp lại tài sản trước khi bị phát hiện…; chú trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng”(22). Tiếp đó, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 7-12-2015, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng”, trong đó nhấn mạnh: “Trong xử lý tham nhũng phải xác minh rõ, chính xác tài sản của người có hành vi tham nhũng; áp dụng kịp thời các biện pháp thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng mà có trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Xử lý nghiêm minh những cán bộ không tích cực thu hồi hoặc cản trở hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng”.

            Đặc biệt, ngày 2-6-2020, Ban Bí thư đã ban hành một văn bản riêng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế (Chỉ thị số 04-CT/TW). Theo đó, trên cơ sở đánh giá những kết quả, hạn chế, bất cập trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng và tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện nghiêm túc một số giải pháp, nhiệm vụ để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác này.

            Từ sự thay đổi nhận thức nêu trên, kết quả thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đã cao hơn nhiều so với trước đây. Trước năm 2013, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trung bình chỉ đạt khoảng 10% trên tổng số phải thu hồi. Giai đoạn 2013 - 2020, tỷ lệ này bình quân đạt hơn 26%.

            Có thể nói, qua gần 40 năm đổi mới đất nước, vấn đề tham nhũng, phòng, chống tham nhũng đã được Đảng ta phát triển thành một hệ thống lý luận về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trở thành tư tưởng, quan điểm chỉ đạo mang tính tổng thể, xuyên suốt, “kim chỉ nam” trong hành động của cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan chức năng. Qua đó, góp phần tạo bước đột phá trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực. Đây là cuộc chiến chính nghĩa, công kiên, đòi hỏi toàn hệ thống chính trị phải vào cuộc với quyết tâm cao, hành động quyết liệt. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên, phải được tiến hành liên tục, bền bỉ, bài bản, không có ngoại lệ. Mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân, nhất định tham nhũng, tiêu cực sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả./.

            -------------------------

             (1) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 7, tr. 355 - 356

            (2) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 546 - 547

            (3) Theo Điều 1 Pháp lệnh, “tham nhũng” là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức

            (4) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, t. 65, tr. 172

            (5) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 16

            (6) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Sđd, tr. 16

            (7) Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 32-QĐ/TW, ngày 16-9-2021, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực” (thay thế cho Quy định số 211-QĐ/TW, ngày 25-12-2019, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng”), bổ sung chức năng phòng, chống tiêu cực cho Ban Chỉ đạo; Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 6-7-2022, “Về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm”. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ban hành Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW, ngày 1-8-2022, “Một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực”

            (8) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 357 - 358

            (9) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 353

            (10) Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21-8-2006, của Hội nghị Trung ương 3 khóa X, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”

            (11) Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21-8-2006, của Hội nghị Trung ương 3 khóa X, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”

            (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 173

            (13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 196

            (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nbx. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 213

            (15) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 55, tr. 237

            (16) Điều này được thể hiện trong nhiều quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu biểu là: Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12-9-1987, của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 16-CT/TW, ngày 29-9-1987, của Ban Bí thư, về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội; Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 20-6-1988, của Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng”; Chỉ thị số 64-CT/TW, ngày 10-10-1990, của Ban Bí thư, “Về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng”; Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 20-11-1992, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng, buôn lậu”; Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 15-5-1996, của Bộ Chính trị, “Về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng”; Quyết định số 240-HĐBT, ngày 26-6-1990, của Hội đồng Bộ trưởng, về “Đấu tranh chống tham nhũng”; Chỉ thị số 416-CT, ngày 3-12-1990, của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, “Về việc tăng cường các công tác thanh tra, điều tra, xử lý các việc tham nhũng và buôn lậu”; Quyết định số 114-TTg, ngày 21-11-1992, của Thủ tướng Chính phủ, “Về những biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn và bài trừ tệ tham nhũng và buôn lậu”; Chỉ thị số 171-TTg, ngày 16-12-1992, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc chống tham nhũng, lãng phí và thất thoát trong xây dựng cơ bản”; Nghị quyết số 176/NQ-UBTVQH9, ngày 16-3-1994, “Ban hành Quy chế về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu”;...

            (17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 193

            (18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 211

            (19) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 145 - 146

            (20) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 55, tr. 410

            (21) Phát biểu kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phiên họp thứ 22 của Ban Chỉ đạo Trung  ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Trang thông tin điện tử tổng hợp Ban Nội chính Trung ương, https://noichinh.vn/cong-tac-phong-chong-tham-nhung/202208/tiep-tuc-day-manh-cuoc-dau-tranh-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-dap-ung-yeu-cau-ngay-cang-cao-cua-cach-mang-trong-giai-doan-moi-311465/

            (22) Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21-8-2006, của Hội nghị Trung ương 3 khóa X, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”

            Lai Châu triển khai chuyên đề học Bác năm 2025 và các văn bản mới của Trung ương.

             Ngày 7/1, Tỉnh ủy Lai Châu tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chuyên đề năm 2025 và các văn bản mới của Trung ương. Hội nghị được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến từ điểm cầu tỉnh đến 11 điểm cầu các Huyện ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc và 145 điểm cầu cấp cơ sở với gần 7.340 đại biểu.

              Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lai Châu Lê Đức Dục phát biểu quán triệt, triển khai khai học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chuyên đề năm 2025. Ảnh: Quý Trung/ TTXVN

              Tại hội nghị, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lai Châu Lê Đức Dục đã triển khai chuyên đề quán triệt, triển khai việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chuyên đề năm 2025 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; góp phần quan trọng tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030”. Trong đó, tập trung vào các nội dung chính như: Nhiệm vụ, giải pháp để tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh góp phần quan trọng tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030; Đoàn kết, quyết tâm sắp xếp lại tổ chức bộ máy hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng…

              Hội nghị đã nghe Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu Giàng A Tính triển khai chuyên đề Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 30/10/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới. Sau 10 năm triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, công tác này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; trong đó, tỉnh Lai Châu đã đạt được những kết quả tích cực, có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

              Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu đề nghị các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phổ biến, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội; nâng cao vai trò của các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đối với tín dụng chính sách xã hội; ưu tiên tập trung nguồn lực, đa dạng hóa các kênh huy động vốn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội…

              Các đại biểu, lãnh đạo tỉnh tham dự Hội nghị quán triệt tại điểm cầu Tỉnh ủy. Ảnh: Quý Trung/ TTXVN

              Các đại biểu dự hội nghị đã quán triệt Kết luận số 105-KL/TW, ngày 4/12/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 3/1/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản; Quy định số 189-QĐ/TW, ngày 8/10/2024 của Bộ Chính trị quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; Quyết định số 190-QĐ/TW, ngày 10/10/2024 của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng…

              Việc nắm vững các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo khi nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chuyên đề năm 2025 và các văn bản mới của Trung ương tại Hội nghị này là cơ sở để áp dụng vào thực tiễn nhiệm vụ được giao. Từ đó tạo sự thống nhất cao về ý chí, hành động, đưa việc học tập Bác là việc làm xuyên suốt, đồng thời triển khai các văn bản mới sớm đi vào cuộc sống./.

              NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN ĐÒI PHI CHÍNH TRỊ HÓA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

               Trong mọi giai đoạn của cách mạng, lực lượng vũ trang có vai trò đặc biệt quan trọng, do đó họ luôn là mục tiêu của các thế lực thù địch hướng tới chống phá. Một trong những âm mưu của kẻ địch là tăng cường cổ xúy vấn đề phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an.

               Đây chính là chiêu bài quen thuộc mà các thế lực thù địch, phản động thường áp đặt, tạo tiền đề cơ bản thực hiện ý đồ gây bạo loạn, lật đổ. Đối với Việt Nam, mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam. Chúng xác định, muốn Đảng suy yếu vai trò lãnh đạo thì cần phải tước bỏ sức mạnh của Đảng, tước bỏ công cụ chuyên chính của Đảng, đó chính là lực lượng Công an và Quân đội.

               

              Do đó, trong giai đoạn hiện nay, chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phá, trong đó tìm cách lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, xã hội, công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng… để tuyên truyền xuyên tạc, thực hiện âm mưu phi chính trị hóa lực lượng vũ trang.

               

              Thực chất hoạt động này là nhằm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Công an và Quân đội, làm cho hai lực lượng trọng yếu này không còn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng ta đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, xây dựng Công an, Quân đội ngày càng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại thì các thế lực thù địch, số chống đối chính trị càng ráo riết tìm mọi cách thúc đẩy ý đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.

               

              Cụ thể:

               

              Các đối tượng thù địch, phản động thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, làm suy giảm lòng tin, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của lực lượng vũ trang bằng cách triệt để khai thác những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ, ngụy tạo chứng cứ, bồi bút xuyên tạc, “tát bùn sang ao” nhằm bôi nhọ truyền thống, bản chất cách mạng lực lượng vũ trang. Kích thích, cổ xúy những xu hướng tư tưởng sai trái, những hành vi phi đạo đức, lối sống lệch chuẩn, xa hoa, lãng phí trong chiến sĩ trẻ lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là thủ đoạn phổ biến nhằm tập trung phá hoại bản chất, truyền thống, những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của Quân đội, Công an, làm cơ sở cho việc thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hướng tới làm biến chất lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngay từ bên trong.

               

              Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế toàn cầu hóa để tăng cường tuyên truyền, tác động tư tưởng, đạo đức, tư duy, lối sống lệch chuẩn vào đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh “cuộc xâm lăng về văn hóa” vào nhận thức của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Thông qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, phòng, chống khủng bố, buôn người… để truyền bá, thâm nhập quan điểm dân chủ tư sản kết hợp mua chuộc bằng lợi ích vật chất, đẩy mạnh tuyên truyền lối sống thực dụng, làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, biến chất về chính trị. Thủ đoạn này được các thế lực thù địch triệt để khai thác dưới nhiều hình thức, vỏ bọc khác nhau.

               

              Thời gian gần đây, để đánh lạc hướng, các thế lực thù địch thông qua “tâm thư”, “thư ngỏ”, “kiến nghị” đòi “duy trì tính trung lập về chính trị” nhưng thực chất là đòi phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an. Chúng cho rằng hai lực lượng này cần phải thực hiện “tính trung lập về chính trị”, tức là “đứng ngoài chính trị”, “không can dự” vào các cuộc đấu tranh của các lực lượng chính trị”; “là con em của nhân dân, các lực lượng vũ trang được nhân dân nuôi dưỡng thì chỉ vì nhân dân là đủ”. Chúng ngụy biện rằng, Quân đội có nhiệm vụ hiến định là quốc phòng, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào thực hiện nhiệm vụ phục vụ, bảo vệ Đảng; vu cáo việc Công an thực hiện một số nhiệm vụ như cưỡng chế giải phóng mặt bằng là “đàn áp dân”, “đối đầu với dân”…

               

              Việc nêu ra quan điểm “tính trung lập về chính trị” của Quân đội và Công an đã cho thấy mục đích, bản chất phi khoa học, phi thực tiễn khi cố tình lèo lái việc “trung lập về chính trị” là đứng ngoài các lực lượng, đảng phái, các hoạt động chính trị, không tham gia đấu tranh chính trị... Qua đó hướng lái bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân sang lập trường, bản chất chính trị khác. Như vậy, thuật ngữ có sự thay đổi nhưng âm mưu, ý đồ không thay đổi, “trung lập hóa về chính trị” chỉ là một cách diễn đạt khác của phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhằm tước bỏ công cụ chuyên chính trọng yếu, tin cậy, tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

               

              Thực tế trên cho thấy âm mưu, hoạt động phi chính trị hóa lực lượng vũ trang là vô cùng nguy hiểm, có thể dẫn tới sự vô hiệu hóa công cụ chuyên chính của Đảng, tước bỏ sức mạnh quan trọng nhất để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cũng như chế độ XHCN tại Việt Nam. Những luận điệu tuyên truyền đòi phi chính trị hóa càng trở nên nguy hiểm hơn khi núp dưới nhiều danh nghĩa, vỏ bọc khác nhau trong thế giới toàn cầu hóa và được sự “hà hơi” “thổi sức” của khoa học công nghệ, các tiện ích của mạng internet, các nền tảng mạng xã hội như facebook, youtober, tiktok…

               

              Việc nhận diện âm mưu, thủ đoạn đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang Việt Nam và triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái này là vấn đề quan trọng. Cần nhận thức rõ, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được rời bỏ nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp lực lượng vũ trang. Chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ lực lượng vũ trang trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, qua đó nâng cao ý thức cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch về mưu đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang nhận thức đầy đủ, sâu sắc về bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là vấn đề cốt lõi, trọng tâm hàng đầu trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, tạo nền tảng vững chắc đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang.

               

              Để ngăn chặn những tác động, chuyển hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế cần có biện pháp bảo vệ cán bộ, chiến sĩ, không để bị tác động, lôi kéo. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, điều lệnh Công an nhân dân; có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Coi trọng xây dựng tổ chức đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức, cán bộ và đạo đức. Đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật và thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát, nhận xét, đánh giá cán bộ; làm tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, chiến dịch.

               

              Lực lượng Công an, Quân đội tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, kiến thức, năng lực toàn diện, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc bản chất chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân. Đặc biệt, lực lượng Công an, Quân đội tiên phong, đi trước, mở đường trong việc tinh gọn bộ máy, hiện đại hóa, giúp cho lực lượng không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững chủ quyền lãnh thổ mà còn góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong sự nghiệp chung của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên “vươn mình của dân tộc” như tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm./.

              St