Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết thúc được gần một tháng, nhưng đâu đó trên mạng xã hội vẫn có/còn những người bị ảm ảnh bởi câu chuyện “vùng miền” trong công tác nhân sự. Cũng giống như một số người khác, trong bài viết “Đại hội 13 đảng CSVN và trọng tội kỳ thị Nam-Bắc” của mình đăng trên Danlambao ngày 23/2/2021, luật sư Đào Tăng Dực (ĐTD) lại xuyên tạc công tác nhân sự của Đảng và bôi nhọ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khi cho rằng: “Trình độ lý luận của Ông Nguyễn Phú Trọng là một vấn đề rất có thể tranh cãi”, “Tâm tư của TBT Nguyễn Phú Trọng đã phản ảnh một tâm trạng vô cùng nguy hiểm và mang tính hủy diệt cho dân tộc. Đó là tâm trạng kỳ thị Nam Bắc, tiềm tàng không phải riêng trong cá thể của TBT Nguyễn Phú Trọng mà trong toàn đảng CSVN”…
Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2021
Khuyên Việt Nam cần "nêu cao chủ nghĩa thực dụng", Ngô Ngọc Trai chỉ là tên ngáo đá chính trị
Trên trang BBC, Ngô Ngọc Trai (NNT) vừa đăng tải bài viết: “Để phát triển nhanh Việt Nam cần nêu cao Chủ nghĩa Thực dụng?”. Không biết vì trình độ ngôn ngữ hay về tư tưởng, NNT đã dùng dấu hỏi chấm (?), sau tiêu đề bài báo…Điều này có thể hiểu là NNT nghi ngờ đối với chính suy nghĩ của mình .
Các thê lực thù địch không thể bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”
Với những hoạt động xuyên tạc, hòng bôi nhọ hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ, thời gian gần đây các thế lực thù địch, chống phá cố tình lấy cớ một số sự vụ, sự việc vi phạm đơn lẻ để thổi phồng và quy chụp rằng: Quân đội nhân dân Việt Nam đang dần bị biến chất, không còn kiên định mục tiêu tối thượng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Thực chất, các chiêu trò
nêu trên không nằm ngoài mưu đồ cố tình bóp méo, hạ bệ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ và
bản chất tốt đẹp của QĐND Việt Nam. Đây cũng chính là một chiêu trò “tung hỏa
mù”, hướng vào chống phá Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Thế
nhưng, sự vụng về khi ngụy biện, cộng với chiêu thức chống phá cũ kỹ sẽ không
khó để chúng ta nhận diện, lật tẩy thông qua việc nêu lên một vài ví dụ về đời
sống thường nhật và hoạt động quân sự của bộ đội, để “ánh sáng sự thật” sẽ tự
thân đẩy lùi “bóng tối bịa đặt xấu xa” theo đúng quy luật khách quan.
Trong thời gian vừa qua,
các đợt dịch Covid-19 bùng phát, thực hiện mệnh lệnh “chống dịch như chống
giặc” để bảo vệ nhân dân với lực lượng y tế làm nòng cốt, Quân đội ta đã chỉ
đạo các đơn vị quân y tích cực tham gia phòng, chống dịch và đặc biệt là chỉ
đạo Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng tăng cường tuần tra, chốt chặn, kiểm soát chặt
chẽ xuất nhập cảnh, nhằm ngăn chặn dịch xâm nhập vào nội địa qua đường biên
giới... Theo chủ trương đó, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đã tình
nguyện lên đường nhận nhiệm vụ; tham gia ứng trực 24/24 giờ tại các khu vực cửa
khẩu, đường mòn, lối mở, bờ sông suối... nơi con người có thể qua lại trên khắp
dải biên cương, kết thành “bức tường ngăn dịch” vững chắc, suốt từ đầu năm 2020
đến nay.
Cũng bắt đầu từ khi xuất
hiện dịch Covid-19 ở Việt Nam, hàng loạt đơn vị quân đội đã cơ động lực lượng,
dồn dịch nơi ăn ở, nhường hệ thống doanh trại phục vụ công tác cách ly công dân
có nguy cơ nhiễm dịch Covid-19. Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ ở những đơn vị này
lại trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Sau
khi hoàn thành thời gian cách ly y tế ở các đơn vị quân đội, rất nhiều công dân
đã bày tỏ lòng biết ơn, xúc động và thán phục về sự chịu đựng gian khó, mẫn
cán, hết lòng phục vụ nhân dân của bộ đội. Người dân cảm kích, khâm phục, bởi
công dân bị cách ly vốn mang nhiều nguy cơ dịch bệnh, nhưng cán bộ, chiến sĩ
quân đội vẫn trực tiếp, tận tình phục vụ và hướng dẫn từng người thực hiện các
biện pháp y tế theo đúng quy định; trực tiếp an ủi, động viên họ yên tâm cách
ly, lạc quan vươn lên trong thời điểm khó khăn nhất. Đặc biệt, khi dịch
Covid-19 xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bộ đội hóa học và các lực lượng chức năng
đều có mặt sớm nhất, tiến hành phun khử trùng phục vụ dập dịch, bảo vệ người dân...
Quốc hội Việt Nam luôn được Nhân dân tin tưởng
Trong thời gian chuẩn bị cho bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp, các thế lực thù địch và những kẻ thiếu thiện chí tập trung chống phá, xuyên tạc về hoạt động của Quốc hội ta. Nhưng thực tế lại không phải như vậy, kể từ khi ra đời tới nay, Quốc hội ta đã hoàn thành xuất sắc vai trò, sứ mệnh của mình đối với đất nước, với dân tộc. Trong những năm gần đây, hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới, ngày càng thể hiện rõ tính dân chủ và hiệu quả ngày càng được nâng cao. Tất cả các vấn đề lớn thuộc mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế-xã hội, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... của đất nước đều được Quốc hội thảo luận và quyết nghị. Với tính chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, vì vậy, tất cả chủ trương, đường lối của Đảng muốn đi vào đời sống, để toàn dân nghiêm túc thực hiện thì đều phải được thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật.
Trong thời gian vừa qua,
các hoạt động của Quốc hội cho thấy, không khí dân chủ, cởi mở, vai trò của các
đại biểu Quốc hội càng được thể hiện rõ trong các phiên chất vấn và trả lời
chất vấn. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án
Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tổng Kiểm
toán Nhà nước. Các nội dung bàn về kinh tế-xã hội, và đặc biệt là các phiên
chất vấn trong những kỳ họp của Quốc hội ngày càng sôi nổi, được phát
thanh-truyền hình trực tiếp, thu hút sự quan tâm theo dõi, đánh giá, góp ý của
cử tri và nhân dân cả nước. Việc tranh luận được khuyến khích khiến vấn đề chất
vấn được làm rõ ràng hơn, nhất là các mặt hạn chế, trách nhiệm cán bộ và nêu rõ
giải pháp
Các chương trình giám sát
của Quốc hội cũng thể hiện rõ hiệu quả. Cùng với những nội dung giám sát thường
xuyên như về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách
nhà nước... thời gian qua, Quốc hội đã chọn những vấn đề “nóng” nhất, được cử
tri và nhân dân quan tâm nhất để tiến hành giám sát tối cao. Ví dụ, tại Kỳ họp
thứ chín vừa qua, Quốc hội đã thực hiện giám sát chuyên đề: “Việc thực hiện
chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em” khi trong xã hội xuất
hiện những vụ xâm hại trẻ em gây bức xúc dư luận.
Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2021
Việt Nam thăng hạng quyền lực mềm toàn cầu
Theo Báo cáo chỉ số quyền lực mềm toàn cầu (Brand Finance Global Soft Power Index Report) năm 2021, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khối ASEAN được nâng hạng trong bảng xếp hạng quyền lực mềm toàn cầu.
66 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam - hành trình vẻ vang và tự hào
Cách đây 66 năm, ngày 27/2/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Hội
nghị cán bộ y tế và ngày 27/2 trở thành Ngày Thầy thuốc Việt Nam. 66 năm qua,
Ngành Y tế Việt Nam không chỉ nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe của
Nhân dân mà còn có đóng góp ngày càng tích cực vào sự phát triển của y học thế
giới.
Suốt chặng đường phấn đấu trưởng thành cùng đất nước, Ngành Y tế đã có bước phát triển toàn diện, mạnh mẽ. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Mạng lưới y tế dự phòng, cơ sở khám chữa bệnh, sản xuất và cung ứng dược phẩm, bảo hiểm y tế, năng lực chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ đều có bước phát triển.
Năm 1945, Bộ Y tế của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
được thành lập. Thành lập chưa được bao lâu, Ngành Y tế cách mạng đã cùng cả nước
theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ
9 năm chống thực dân Pháp. Mặc dù nhiệm vụ chủ yếu trong thời kỳ này là phục vụ
chiến đấu, phải tập trung toàn bộ nguồn nhân tài, vật lực phục vụ cho tiền tuyến,
nhưng trong muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, Ngành Y tế đã vẫn duy trì và không
ngừng phát triển, đảm bảo phục vụ tốt chăm sóc thương bệnh binh và phòng, chống
dịch bệnh. Thành tựu quan trọng của Ngành Y tế trong thời kỳ này là sản xuất được
các loại vắc xin phòng bệnh tả, bệnh đậu mùa, thương hàn để tiêm chủng cho Nhân
dân; bào chế và sản xuất được các thuốc thông thường bằng nguyên liệu tại chỗ.
Năm 1950, lần đầu tiên Việt Nam sản xuất được kháng sinh peniciline.
Trong những năm sau ngày giải phóng miền Bắc, Ngành Y tế đã tập trung xây
dựng và phát triển y tế ở khu vực nông thôn, làm cho bộ mặt nông thôn miền Bắc
thay đổi rõ rệt: các công trình vệ sinh được xây dựng, sức khoẻ của Nhân dân
không ngừng được nâng lên. Năm 1961, lần đầu tiên Việt Nam sản xuất được vắc
xin sabin phòng bệnh bại liệt và vắc xin BCG phòng bệnh đậu mùa.
Khi đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh ác liệt phá hoại miền Bắc, Ngành Y tế một lần nữa lại hoạt động trong tình trạng thời chiến. Song song với việc tăng cường cán bộ cho cơ sở, bảo đảm việc chăm sóc sức khoẻ cho Nhân dân miền Bắc, Ngành không ngừng chi viện cho miền Nam. Nhiều sinh viên y khoa mới ra trường đã xung phong vượt Trường Sơn vào phục vụ ở các chiến trường Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Khu VI, Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ và Sài Gòn-Gia Định. Hàng trăm nghìn tấn thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế đã được vận chuyển vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh, góp phần giải phòng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày đất nước thống nhất, Ngành Y tế đã có những bước phát triển vượt bậc và đạt được những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe Nhân dân.
Đến nay, Việt Nam đã thanh toán được bệnh bại liệt, khống chế được bệnh uốn ván sơ sinh, ho gà, bạch hầu… Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân đã giảm từ 30,1% năm 2000 xuống còn 14,1% năm 2015 và năm 2016 tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân ở trẻ dưới 5 tuổi là 13,8%. Tỷ suất chết mẹ giảm xuống còn 58,3 trên 100.000 trẻ đẻ sống năm 2015; Tỷ suất chết trẻ em dưới một tuổi giảm khá nhanh, xuống còn 14,73 phần nghìn; Tỷ suất chết trẻ em dưới năm tuổi giảm xuống 22,12 phần nghìn, đưa Việt Nam thành một trong năm nước đang phát triển có mức tử vong bà mẹ, trẻ em giảm nhanh nhất trên thế giới. Tuổi thọ bình quân của người dân tăng lên, đạt 73,4 tuổi.
Trong hơn 30 năm thực hiện công tác phòng, chống dịch, Việt Nam hiện đã
xây dựng được năng lực giám sát, phát hiện, chẩn đoán xác định dịch bệnh và ứng
phó giải quyết dịch bệnh một cách nhanh chóng, hiệu quả. Năng lực phòng, chống
dịch bệnh nguy hiểm và mới nổi được nâng cao. Công tác tổ chức thu dung, điều
trị cho người bệnh đạt hiệu quả rõ rệt. Công tác chuẩn bị, sẵn sàng ứng phó với
các dịch bệnh nguy hiểm cũng được tích cực chủ động.
Kết quả là nhiều dịch bệnh nguy hiểm đã được khống chế, đẩy lùi và thanh
toán, cụ thể như thanh toán bệnh đậu mùa vào năm 1978, thanh toán bệnh bại liệt
vào năm 2000, loại trừ uốn ván sơ sinh vào năm 2005, từ năm 2002 không có bệnh
dịch hạch; một số bệnh dịch đã giúp giảm số người nhiễm hàng trăm đến hàng
nghìn lần so với những năm trước khi có Chương trình tiêm chủng mở rộng như bạch
hầu, ho gà, sởi... Nhiều bệnh dịch lưu hành khác có nguy cơ bùng phát thành dịch
lớn, như: sốt xuất huyết, viêm não virus, lao, thương hàn, tả đã được khống chế;
không gây thành các dịch lớn, hạn chế tỷ lệ mắc và tử vong.
Không chỉ khống chế các dịch bệnh trong nước, Việt Nam là một trong những
quốc gia đầu tiên khống chế thành công dịch SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1; ngăn
chặn thành công không để một số dịch bệnh nguy hiểm mới nổi xâm nhập như cúm
A/H7N9, Ebola, MERS-CoV...
Việt Nam cũng triển khai được năng lực giám sát xét nghiệm rất tốt. Tất cả bệnh truyền nhiễm mới nổi đến nay, Việt Nam đều có khả năng xét nghiệm và phát hiện, từ MERS-CoV, Ebola, hay cúm A/H7N9 và cả COVID-19… Hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm hoạt động hiệu quả từ giám sát cộng đồng, giám sát tại cửa khẩu, tại phòng xét nghiệm; giám sát tại vùng bất thường liên quan đến yếu tố dịch tễ đều được báo cáo, sàng lọc.
Trong những năm qua, mạng lưới y tế cơ sở ở Việt Nam đã được củng cố,
phát triển. Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong số ít quốc gia có mạng
lưới y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản và đang là mô hình mà
nhiều nước trên thế giới quan tâm, học hỏi, làm theo.
Hiện nay, cả nước có hơn 700 trung tâm y tế huyện, quận, thị xã; hơn
11.100 trạm y tế xã, phường, thị trấn, trong đó có hơn 60% số trạm y tế đã đạt
Tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2010- 2020; 100% số xã có trạm y tế hoặc
có phòng khám đa khoa khu vực liên xã; 87,5% số trạm y tế xã có bác sĩ làm việc
(bao gồm cả bác sĩ làm việc lâu dài và bác sĩ tuyến trên luân phiên về làm việc
hai, ba ngày trong tuần); 96% số trạm y tế xã có nữ hộ sinh/y sĩ sản nhi và hơn
95% số thôn bản có nhân viên y tế thôn, bản hoặc cô đỡ thôn, bản…
Mạng lưới khám, chữa bệnh từ Trung ương đến các xã với hơn 1.400 bệnh viện, 180.000 giường bệnh, hằng năm khám và điều trị ngoại trú cho 120.000 lượt người bệnh, điều trị cho hơn 10 triệu lượt người, thực hiện hàng triệu thủ thuật, khoảng 2 triệu ca phẫu thuật phức tạp hàng năm.
Việt Nam được công nhận là một trong số ít quốc gia làm chủ được công nghệ
sản xuất vắc xin, tự nghiên cứu sản xuất vắc xin, như vắc xin cúm mùa 3 type được
sản xuất và đủ điều kiện thương mại hóa; ứng dụng công nghệ sinh học vào sàng lọc
và chẩn đoán phát hiện nhanh, chính xác các tác nhân gây dịch, như: sởi, sốt xuất
huyết, tay chân miệng, là cơ sở để không xảy ra dịch trên quy mô lớn như các
năm trước đây.
Việt Nam cũng tiếp tục làm chủ, hoàn thiện đưa nhiều kỹ thuật y học đạt tầm
thế giới, thực hiện chuyển giao nhiều kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán và điều
trị như phẫu thuật nội soi, can thiệp tim mạch, chẩn đoán hình ảnh, hỗ trợ sinh
sản, điều trị ung thư máu, nhồi máu cơ tim, bệnh lý xương-khớp, bỏng, phẫu thuật
tạo hình; ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh về máu. Cho đến nay, hệ thống
y tế nước ta đã có 15 cơ sở ghép được tim, thận, gan, ghép giác mạc, ghép tế
bào gốc tạo máu.
Tháng 10/2019, hai ca ghép phổi thành công đã đánh dấu kỳ tích mới trong
ngành ghép tạng Việt Nam, kể từ sau khi Việt Nam chinh phục được kỹ thuật ghép
khó nhất thế giới này trong năm 2018. Cùng với đó, ngoài các kỹ thuật thường
quy về ghép tim, ghép gan, ghép thận, ghép tủy, giác mạc, Việt Nam cũng tiếp tục
khẳng định làm chủ công nghệ ghép đa tạng - một kỹ thuật khó của y học thế giới,
như thực hiện ghép hai phổi đồng thì với mổ tim hở sửa chữa bệnh tim bẩm sinh
(sửa tim-ghép phối), và ghép đa tạng gan, thận đồng thì cho người bệnh bị suy cả
gan và thận, tránh các nguy cơ của hai cuộc mổ liên tiếp.
Trong lĩnh vực sản khoa, kỹ thuật can thiệp bào thai là kỹ thuật cao nhất,
hiện đại nhất trong y học bào thai hiện nay. Năm 2019, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
là bệnh viện công lập đầu tiên đã triển khai thành công kỹ thuật này, can thiệp
thành công cho gần 20 sản phụ có thai đôi và mắc bệnh lý truyền máu song thai.
Em bé đầu tiên được can thiệp bào thai do mắc hội chứng truyền máu song thai đã
được sinh khỏe mạnh vào ngày 14/12. Kỹ thuật can thiệp bào thai có thể can thiệp
được ở hầu hết các cơ quan của bào thai, thậm chí cả não, tim, màng phổi… được
đánh giá là nhân văn, tăng cơ hội cứu sống cho các bào thai bệnh lý.
Trong xu thế của cuộc cách mạng 4.0 và công nghệ y khoa thế giới, Ngành Y
tế Việt Nam đã chuẩn bị và triển khai một số hoạt động ứng dụng và phát triển y
tế thông minh, góp phần hiện đại hóa các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân. Các nhà quản lý cũng kỳ vọng đưa Việt Nam trở thành nền
"công nghiệp y tế" theo đề án "thu hút người nước ngoài, người Việt
Nam sống ở nước ngoài và người Việt Nam thu nhập cao khám, chữa bệnh chất lượng
cao ở Việt Nam giai đoạn 2020-2030"./.
VƯỢT MỌI THỬ THÁCH ĐỂ BẢO VỆ SỨC KHỎE NGƯỜI DÂN
Năm 2021, ngành y tế lại tiếp tục không tổ chức kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam do dịch bệnh diễn biến phức tạp tại 13 tỉnh, thành phố trên cả nước.Thế nhưng, trong lòng mỗi người dân Việt Nam, hơn một năm qua, hình ảnh những cán bộ, nhân viên y tế ở tuyến đầu chống dịch hay ở từng vị trí công tác luôn được kính trọng, tôn vinh. Họ không chỉ nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe nhân dân mà còn tích cực đóng góp cho sự phát triển của y học nước nhà.
Năm 2020 có nhiều khó khăn, thách
thức, nhất là sự ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhưng cán bộ, nhân viên ngành y tế
đã luôn nỗ lực vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần
thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch Covid-19, vừa phát
triển kinh tế-xã hội. Nhiều tấm gương là bác sĩ, y tá, điều dưỡng viên, nhân
viên y tế đã làm việc tận tụy, trách nhiệm, không ngại hiểm nguy, vất vả, xung
phong đến tuyến đầu chống dịch. Đây là những hành động đẹp, đầy tính nhân văn
lan tỏa trong xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước.
Mặc dù đầy khó khăn, vất vả đối với những cán bộ, nhân viên y tế, nhưng
tác động của đại dịch như một phép thử để ngành y tìm mọi cách thích ứng, nỗ lực
bứt phá. Trong công tác khám, chữa bệnh, ngành y tế đã có những bước chuyển biến
rất căn bản; chất lượng khám, chữa bệnh ngày một nâng lên. Hệ thống khám, chữa
bệnh từ xa ra đời đã giúp người dân ở tuyến cơ sở được tiếp cận dịch vụ y tế có
chất lượng cao. Thực tế chứng minh, tại thời điểm dịch Covid-19 đang hoành hành
thì nền tảng khám, chữa bệnh từ xa đã thực sự phát huy hiệu quả. Người dân vẫn
được khám, chữa bệnh kịp thời mà vẫn bảo đảm yêu cầu giãn cách xã hội, đặc biệt
đối với bệnh nhân cao tuổi, khó khăn trong việc di chuyển, bệnh nhân ở vùng
sâu, vùng xa trên khắp cả nước. Theo ước tính, khi triển khai hệ thống khám, chữa
bệnh từ xa, xã hội và ngành y tế có thể tiết kiệm được hàng chục nghìn tỷ đồng
mỗi năm về chi phí đi lại, khám, chữa bệnh. Ngành y tế đã hết sức nỗ lực cho một
tiến trình đổi mới toàn diện để phục vụ người dân được tốt hơn. Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, trong đó công nghệ thông tin sẽ giúp tiến trình thay đổi của
ngành được hiện thực hóa. Trong công tác y tế dự phòng cũng đã có những đổi mới
mạnh mẽ với sự ra đời của Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) các
tỉnh, thành phố. Năm 2020 và những tháng đầu năm 2021, một lần nữa ngành y tế
đã thể hiện được bản lĩnh, trí tuệ cũng như tinh thần quyết tâm cùng với toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân trong cuộc chiến với đại dịch Covid-19.
Hơn một năm qua, mỗi người dân Việt Nam đều đã quá quen thuộc với hình ảnh các bác sĩ, y tá mặc đồ bảo hộ luôn thay phiên túc trực và làm việc. Dù đối mặt với nguy hiểm rình rập, họ vẫn âm thầm phục vụ vì trách nhiệm và cao hơn hết là y đức hướng tới bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Dịch bệnh luôn có những biến đổi bất ngờ, ai cũng có thể vô tình trở thành nạn nhân, nhưng đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế Việt Nam vẫn không chùn bước mà còn cố gắng nhiều hơn nữa, động viên nhau làm việc và phụng sự, đem tới sự an tâm cho người dân. Những nỗ lực của họ phần nào đạt được thành công bước đầu trong kiểm soát dịch bệnh và điều trị các ca nhiễm Covid-19 của Việt Nam thời gian qua. Chính vì vậy, ngành y tế Việt Nam đã được Tổ chức Y tế thế giới ghi nhận năng lực và khen ngợi. Bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam nhấn mạnh: “Việt Nam ứng phó thành công đại dịch Covid-19 là một câu chuyện truyền cảm hứng”, trong đó, tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và gắn kết xã hội là chìa khóa thành công.
Trong ngày truyền thống thiêng liêng và cao quý của ngành y tế, rất nhiều
cán bộ, y sĩ, bác sĩ vẫn đang lặng lẽ, âm thầm miệt mài không ngại gian khổ,
quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ để bảo vệ sức khỏe và sự bình an của người dân...
Những giọt mồ hôi, nước mắt của cán bộ, nhân viên y tế, những đêm thức trắng ở
các điểm dịch, bên giường bệnh luôn được nhân dân ghi nhận. “Sự hy sinh của các
đồng chí là sự tiếp nối truyền thống quý báu của bao thế hệ đã dày công vun đắp
và cũng là tấm gương sáng để các thế hệ nối tiếp học hỏi, noi theo, đúng như lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã nhắn nhủ: “Lương y phải như từ mẫu-Thầy thuốc
như mẹ hiền”./.
Tự hào và biết ơn những chiến sỹ áo trắng nơi tuyến đầu
Trong cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, người chiến sỹ áo trắng xông pha vào trận chiến cứu các chiến sỹ trên chiến trường, họ đã chịu bao gian khổ hiểm nguy. Trong cuộc chiến phòng, chống dịch COVID-19 cũng vậy họ đi đầu xông pha, họ ra trận để chống dịch, giành lấy sự sống cho bệnh nhân .
Mỗi bệnh nhân được chữa khỏi đó là niềm hạnh phúc của
người thầy thuốc. Không quản
ngại hiểm nguy, nhiều người chấp nhận hy sinh những nhu cầu cá
nhân suốt nhiều tháng để tập
chung tinh thần sức lực cùng
đồng nghiệp cứu chữa bệnh nhân nhiễm bệnh, họ còn phải trả
giá khi nhiễm bệnh do lây chéo từ bệnh nhân, nhưng họ luôn lạc
quan để truyền hơi ấm và lòng
tin cho bệnh nhân, cho nhân dân cả
nước với một niềm tin mãnh liệt.
Những câu thơ của một nữ điều dưỡng gửi cho con chia sẻ
cho hay "dẫu cho cuộc chiến có kéo dài đến đâu, dẫu cho có
thể phải hy sinh mạng sống, thì các y, bác sỹ vẫn chiến đấu
đến cùng, không bao giờ gục ngã" khiến cho mỗi chúng ta đều
cảm thấy xúc động tự hào .
Tự hào và biết ơn những
chiến sỹ áo trắng nơi tuyến đầu. Để đáp lại những hy sinh
thầm lặng đó, mỗi người dân chúng ta hãy nâng cao ý thức, mọi
người vì mỗi người, mỗi người vì mọi người để an toàn cho
toàn xã hội. Chúng ta hãy xiết chặt tay nhau để ngăn chặn và
đẩy lùi dịch bệnh, tôi tin rằng Việt Nam sẽ Chiến thắng./.
Bàn luận về khẩu hiệu "lấy lại đất tổ, không làm khổ dân" của bọn phản đông
Trải qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã giành được những thành tựu vô cùng to lớn, mang ý nghĩa lịch sử; uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế đang tăng cao hơn bao giờ hết; tuyệt đại đa số nhân dân đều tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được giữ vững và tăng cường. Thế nhưng các thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên tạc, tìm đủ mọi chiêu trò, thủ đoạn chống phá quyết liệt hòng làm thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam.
Phải nhận diện đúng bản chất, ý đồ của các thế lực thù địch
Đảng đã phải nhiều lần chống lại sự xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch nhằm vào Cương lĩnh, đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng trong các thời kỳ từ những năm 1930 đến nay.
Không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin
Gần đây, âm mưu, thủ đoạn chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch ngày càng xảo quyệt và nguy hiểm. Những quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch đã tung ra đều có chung bản chất và mục đích, nhưng hình thức thể hiện ngày càng thay đổi đa dạng.
NẤP BÓNG NHỮNG KẺ TRUYỀN BÁ TRI THỨC
Sử dụng mạng xã hội để chia sẻ kiến thức với cộng đồng hoặc biểu đạt quan điểm, phản biện những hiện tượng xã hội, con người mà cá nhân thấy cần có ý kiến, đang là một trong những cách thức thể hiện được nhiều người ở Việt Nam và trên thế giới chọn lựa, nhất là đối với giới trẻ.
Thứ Năm, 25 tháng 2, 2021
ĐẢNG VỮNG MẠNH DÂN TỘC TRƯỜNG TỒN
Nhìn lại suốt chặng đường
lịch sử hơn 90 năm qua của Đảng, chúng ta thấy rõ một điều dân tin hay mất niềm
tin vào Đảng đều bắt đầu từ những việc làm cụ thể.
Sinh thời, Chủ tich Hồ
Chí Minh đã nói giản dị rằng: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ Cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người
có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người
ta bắt chước". Trong Đại hội thi đua yêu nước cuối năm 2020,
có rất nhiều những tấm gương đi đầu nơi gian khó, thậm chí sẵn sàng hy sinh cả
tính mạng. Câu chuyện cảm động về những cán bộ, chiến sĩ đi cứu hộ, cứu nạn,
câu nói của Thiếu tướng Nguyễn Văn Man trước khi gặp nạn, khiến mọi người không
cầm được nước mắt: "Nhân dân đang trông đợi, đang cần chúng ta, thì bất
luận có hy sinh cũng phải đến". Mùa xuân đang vẫy gọi chúng ta, những bước
chân tiên phong với tâm thế của người nắm chắc thời cơ và vận hội. Vận hội mới
đến từ khát vọng cháy bỏng và niềm tin son sắt, xây dựng đất nước phồn vinh,
hạnh phúc.
Sự nghiệp đổi mới đất nước ví như một công trình tập thể, được thiết kế,
xây dựng từ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự sáng tạo của nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đảng vững mạnh, dân tộc trường tồn, lịch sử đã khắc ghi,
đã ngời sáng chân lý ấy./.
PHÁT HUY TINH THẦN TỰ PHÊ BÌNH TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG
Trong suốt quá trình lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đạo đức.
Bác đòi hỏi mỗi cấp ủy,
tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn đề cao ý thức tự phê bình, phải
chủ động, tự giác kiểm thảo, tự nhận trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong
quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, gắn trách nhiệm cá nhân với trách
nhiệm tập thể. Người nói: "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên hằng ngày phải tự
kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì
trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng". Hồ Chí Minh là
tấm gương sáng ngời về thực hành tự phê bình và phê bình. Mọi suy nghĩ và hành
động của Người, trong đó có việc tự phê bình và phê bình đều xuất phát từ mục
tiêu giản dị: Tất cả vì con người và vì hạnh phúc của mọi người. Trong cải cách
ruộng đất, Đảng, Chính phủ đã mắc những sai lầm, Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương
vị là người đứng đầu Đảng, Chính phủ tự giác nhận khuyết điểm, sai lầm và đã
được quốc dân, đồng bào tha thứ.
Trong quá trình công tác,
có những cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng mắc phải sai lầm, khuyết điểm. Điều
quan trọng là khi mắc phải sai lầm, khuyết điểm, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên phải nêu cao ý thức tự giác, tự kiểm điểm nhận rõ sai lầm, chủ động sửa
chữa, khắc phục. Công khai, xin lỗi, sửa chữa, khắc phục khuyết điểm trước quốc
dân, đồng bào, qua đó để quần chúng nhân dân thêm tin, thêm yêu Đảng, nâng cao
uy tín, vị thế của Đảng./.
CHIẾN LƯỢC XUYÊN TẠC, “LẬT SỬ” CỦA NHỮNG THẾ
LỰC THÙ ĐỊCH
Trên
cộng đồng mạng xã hội, gần đây xuất hiện nhiều bài viết tẩy não
người Việt Nam về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước rất tinh vi,
xảo trá. Họ cố tình bôi nhọ tính chính nghĩa trong cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại này, đồng thời chúng cố tình xuyên tạc bản chất chế
độ tay sai bán nước của ngụy quyền Sài Gòn, rằng "Việt Nam đã đuổi
đi 2 nền văn minh Pháp - Mỹ" hay "Việt Nam Cộng hòa (ngụy -
VNCH) là một chính thể, quốc gia đã tồn tại ở niềm Nam", hay
"gọi ngụy quyền Sài Gòn là miệt thị"... thực tế đây là một
chiến dịch xuyên tạc lịch sử nhằm rửa mặt cho ngụy, rửa nhục cho Mỹ
trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng một dự án quy mô lớn
của CIA với tên gọi "Dự án tưởng niệm chiến tranh Việt Nam"
Dự
án đang trong giai đoạn 3 như vậy và sẽ kết thúc vào năm 2025. Đó là lý do
tại sao nhiều kẻ điên cuồng xuyên tạc lịch sử, thậm chí xuyên tạc cả
Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ cơ bản của Cách
mạng miền Nam (1959) và hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc
chiến tranh chống Mỹ cứu nước... Thế mới hiểu chúng nham hiểm mức
nào!
Thực
ra, chế độ ngụy quyền Sài Gòn là chế độ bán nước, do Mỹ lập ra để
cai trị miền Nam (Việt Nam) giai đoạn 1954 - 1975. Đó là một chế độ
tàn ác nhất tại miền Nam lúc bấy giờ. Chỉ cần tra trên Google cụm từ
"tội ác của Mỹ - ngụy trong chiến tranh xâm lược Việt Nam" sẽ cho rất
nhiều kết quả. Tuy nhiên gần đây 1 số bài viết trên Google cũng không
thấy xuất hiện nữa, thay vào đó là chúng tăng tần suất xuyên tạc
lịch sử cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước trên Youtube, facebook...
Chúng
ta đừng bao giờ quên những lời người Mỹ nói: "Hai mươi năm sau chúng ta
sẽ trở lại Việt Nam. Không phải với xe tăng, đại bác, chiến hạm hay pháo đài
bay mà bằng xấp đô la. Khi đó, cờ Mỹ sẽ bay không chỉ ở Sài Gòn mà còn hiên
ngang giữa lòng Hà Nội. Những gì bom đạn không thể làm được thì sức mạnh của
đồng đô la sẽ giải quyết. Người Việt Nam sẽ đón chúng ta như những vị ân
nhân"...
Và
đó là mục tiêu không bao giờ từ bỏ với việc đầu tiên là phải tẩy
xóa sự thật cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng những đồng USD
giơ bẩn từ việc xuyên tạc sự thật lịch sử cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc ta.
Hơn
lúc nào hết, mỗi người dân Việt Nam cần nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên
quyết, kiên trì làm thất bại chiến lược xuyên tạc, lật sử của những thế lực thù
địch./.
Dịch bệnh và những luận điệu nguy hại
Dịch Covid-19
đang làm đảo lộn cuộc sống, sinh hoạt, lao động và đe dọa đến tính mạng, sức
khỏe của hàng vạn người dân nhiều nước trên thế giới. Trong khi Việt Nam đã,
đang thể hiện sự nỗ lực vượt bậc để cùng cộng đồng quốc tế kiên quyết ngăn
chặn, kiểm soát, đẩy lùi và giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại do dịch
Covid-19 gây ra, thì vẫn có những tiếng nói lạc lõng, những luận điệu xảo trá
nhằm xuyên tạc về Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng của Việt Nam.
Hầu hết những người có lương tri không chỉ
riêng ở Việt Nam mà các nước khác trên thế giới đều không mong muốn thiên tai,
dịch bệnh xảy ra, vì đây là những thảm họa kéo theo những hệ lụy, hậu quả khôn
lường. Nhưng khi không may xảy ra những hiện tượng bất lợi này, bất cứ quốc gia
dân tộc nào cũng phải củng cố, tăng cường sức mạnh liên kết cả ở trong và ngoài
nước nhằm phòng, chống, đẩy lùi để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro,
thiệt hại. Là quốc gia láng giềng với Trung Quốc, nơi
đầu tiên trên thế giới phát sinh dịch Covid-19, Việt Nam sớm nhận rõ những nguy
cơ, hiểm họa của dịch bệnh này nên ngay từ đầu đã thực hiện nhiều biện pháp
quyết liệt, kịp thời, chủ động khoanh vùng, cách ly, dập dịch một cách khẩn
trương với tinh thần “chống dịch như chống giặc”. Đến nay, Việt Nam đã chữa
khỏi được rất nhiều bệnh nhân nhiễm Covid-19 và đạt
được nhiều thành tích trong nghiên cứu, thử nghiệm vắc-xin, ... Khi
những nỗ lực, kết quả bước đầu trong cuộc chiến với dịch Covid-19 của Việt Nam
được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và cộng đồng quốc tế ghi nhận, thì một số cơ
quan truyền thông nước ngoài vốn thiếu thiện chí với Việt Nam lại có những cái
nhìn phiến diện, lệch lạc về công tác phòng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam.
Những trang tin này “tiền hô hậu ủng” cho một số đối tượng bất đồng chính kiến,
cơ hội chính trị, bất mãn với chế độ đăng tải nhiều bài viết xuyên tạc tình
hình chống dịch ở Việt Nam, thực chất là lồng ghép những lời lẽ, luận điệu nhằm
xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Vẫn là những chiêu trò “đục nước béo cò”,
các đối tượng núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền”, lợi dụng tình hình đất nước có
thiên tai, dịch bệnh, sự cố để đưa ra những thông tin sai trái, độc hại, như:
Việt Nam bị dịch Covid-19 tấn công là do bị lệ thuộc vào Trung Quốc, không dám
cắt bỏ ngoại giao hoàn toàn với nước này nên để dịch bệnh từ đó tràn lan vào
trong nước; trong khi Việt Nam còn nghèo, người dân còn khó khăn mà Nhà nước
vẫn đi viện trợ khẩu trang, thiết bị y tế chống dịch cho nhân dân Trung Quốc là
thiếu tính toán, không lo cho người dân nước mình. Chưa dừng lại ở đó, nhiều
đối tượng còn tung tin Chính phủ Việt Nam thiếu minh bạch thông tin, che giấu
sự thật số người bị nghi nhiễm, mắc bệnh Covid-19 ít hơn thực tế nhằm che mắt
cộng đồng quốc tế. Lợi dụng việc các cơ quan chức năng một số địa phương xử
phạt hành chính những người tung tin thất thiệt về dịch Covid-19 trên mạng xã
hội gây hoang mang dư luận, có đối tượng lại rêu rao “chính quyền cộng sản Việt
Nam bóp nghẹt tự do ngôn luận”, “đi ngược lại quyền tự do bày tỏ chính kiến”
của công dân. Và để quy kết những vấn đề trên, các đối
tượng đã suy luận một cách quái đản rằng: “Nguyên nhân sâu xa là do chế độ độc
tài, đảng trị, nhà nước chuyên quyền nên người dân vẫn chưa thoát khỏi cảnh lầm
than, mất quyền tự do, không được chăm lo sức khỏe, tính mạng chu đáo như người
dân các nước khác”!
Đất nước Việt Nam đã trải qua mấy chục năm
kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh. Dân tộc và nhân dân Việt Nam thấu hiểu, thấm
thía hơn ai hết về giá trị của từng phút giây hòa bình, yên ổn và luôn mong
muốn có một cuộc sống an lành, mưa thuận gió hòa, không bị tai ương từ thảm
cảnh binh đao, dịch họa. Nhưng lịch sử mấy ngàn năm qua đã tôi luyện nhân dân
Việt Nam trải qua các “lò lửa” kháng chiến giải phóng dân tộc và chống chọi với
nhiều thảm họa thiên tai, dịch bệnh. Vì thế, dân tộc Việt Nam đã vượt qua mọi
thử thách khắc nghiệt để tồn tại, phát triển như hôm nay. Nói
như thế không có nghĩa là duy ý chí chủ quan, mà chúng ta hoàn toàn có niềm tin
vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành nhanh nhạy, linh hoạt của
Chính phủ và sự đồng tâm nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành
và toàn xã hội trong cuộc chiến với dịch bệnh không kém phần cam go, phức tạp
này. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị nhằm huy
động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia phòng, chống
dịch bệnh Covid-19. Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch Covid-19 đã tổ chức
họp, đánh giá, theo dõi, kiểm soát dịch bệnh
một cách sát sao để có biện pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả. Bộ Y tế, Bộ
Quốc phòng, ... đã phối hợp tốt trong chuyên môn, kịp thời ứng phó với
diễn biến của dịch bệnh. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo 4 bệnh viện quân
đội tuyến Trung ương sẵn sàng hỗ trợ, tham gia phòng, chống dịch bệnh. Tất
cả những động thái, việc làm này chứng tỏ Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành
của Việt Nam đã, đang làm hết sức mình để phòng ngừa, kiểm soát bằng được tình
hình dịch Covid-19. Nhờ thực hiện đúng phương châm “ngăn chặn triệt để, phát
hiện sớm, cách ly ngay lập tức, khoanh vùng gọn và dập dịch triệt để”, đến thời
điểm này, Việt Nam đã bước đầu khống chế thành công dịch bệnh, không để lây lan
trên diện rộng. Cũng trong thời điểm này, Việt Nam càng
nêu cao và thể hiện rõ trách nhiệm cộng đồng quốc tế trong tham gia phòng,
chống dịch Covid-19. Ngoài việc tương trợ, chia sẻ với những khó khăn của nước
bạn Trung Quốc, việc chúng ta kiểm soát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, không để
virus Covid-19 lây lan trong phạm vi nước mình, là góp phần cùng cộng đồng quốc
tế nỗ lực ngăn chặn triệt để dịch bệnh nguy hiểm này trong khu vực châu Á. Tình
cảm của người Việt với bạn bè quốc tế trong bối cảnh dịch bệnh đã phần nào thể
hiện sâu sắc trong lá thư cảm động của hai cha con bệnh nhân Li Ding và Li
Zichao bị nhiễm virus corona chủng mới từ Vũ Hán (Hồ Bắc, Trung Quốc) gửi cho
tập thể thầy thuốc Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM) sau khi họ được chữa khỏi tại
Việt Nam. Lá thư có đoạn viết: “Chúng tôi đã rời bệnh viện được 3 ngày rồi
nhưng tâm trí dường như vẫn còn ở lại bệnh viện, nơi cha con tôi không thể quên
được những ấn tượng tươi đẹp và sâu sắc mà Bệnh viện Chợ Rẫy đã để lại… Chúng
tôi cảm nhận được chính lòng tử tế của các bạn đã cứu chúng tôi và chúng tôi sẽ
ghi nhớ mãi mãi. Chúng tôi muốn nói lên từ tận đáy lòng mình rằng: Cảm ơn Việt
Nam!... Dù đã rời về nước trong tiếc nuối, sự tử tế của các bạn sẽ luôn ở lại
trong tim chúng tôi”.
Người Việt có câu: “Trong khó khăn, hoạn
nạn mới hiểu lòng nhau”. Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng đã thấu hiểu
lòng dân, lo lắng cho dân vượt qua những khó khăn trong thời điểm dịch bệnh.
Nhân dân tin tưởng vào Đảng bộ, chính quyền các cấp, cùng chia sẻ, gánh vác với
đội ngũ cán bộ, đảng viên để từng bước đẩy lùi và kiểm soát tốt tình hình dịch
Covid-19. Kết quả này là minh chứng sinh động về ý
Đảng, lòng dân, tình quân, nghĩa nước đã hòa quyện vào nhau tạo thành sức mạnh
để vươn lên giành thắng lợi trong cuộc chiến chống dịch Covid-19. Đó cũng là
bằng chứng thiết thực để bác bỏ, phủ nhận hoàn toàn những luận điệu sai trái,
phản động của các thế lực thù địch lợi dụng thời điểm dịch bệnh để xuyên tạc,
chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Chiến
tranh bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 trong SGK Lịch sử: Để sự thật không bị bóp
méo, lãng quên
Vì nhiều lý do khác nhau liên quan đến quan hệ ngoại giao, mà sự kiện chiến tranh bảo vệ biên giới
phía Bắc (1979 - 1989) chỉ được trình bày quá sơ sài trong sách giáo khoa Lịch
sử hiện hành cả bậc THPT lẫn THCS.
Trong phần lớn thời gian và lưu lượng kiến thức về lịch sử
dân tộc trong các cuốn sách giáo khoa, giáo trình lịch sử từ phổ thông đến đại
học từ xưa đến nay, nội dung kiến thức về các cuộc kháng chiến giành độc lập và
bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của dân tộc luôn chiếm một thời lượng lớn. Trong giai đọan lịch sử Việt Nam sau năm
1975, bên cạnh nhiệm vụ chiến lược là xây dựng đất nước sau 30 năm chiến tranh
giải phóng dân tộc 1945 - 1975, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc
(1979 - 1989) là một nội dung lớn, là một sự kiện lịch sử dù không muốn nhưng
nó đã xảy ra, đã xảy ra, dù nguyên nhân, diễn biến và kết quả như thế nào thì
chúng ta luôn cần phải tôn trọng và sòng phẳng với sự thật lịch sử. “Nguyên tắc vàng” của khoa học lịch sử là
tái hiện lại quá khứ với bộ mặt của nó. Sự kiện lịch sử là cái không thay đổi, nhưng nhận thức lịch sử là
một quá trình và tròn 40 năm qua cũng là thời gian quá đủ để chúng ta có đủ
thời gian và bình tĩnh nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, trung thực sự
kiện này.
Ôn lại kiến thức cũ không để kích động hận thù cực
đoan với nước láng giềng mà từ sự thật lịch sử đó để chúng ta có thể rút ra
những bài học quý giá trong cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo vô cùng
gian nan và phức tạp trong hiện tại và cả tương lai.
Khi sách giáo khoa lịch sử phổ thông hiện hành trình bày
quá sơ sài, mờ nhạt sự kiện này, khi những kiến thức của sự kiện đó đã bị “giảm
tải”, giáo viên không phải dạy, học sinh không phải học, không có kiến thức này
trong các đề thi THPT quốc gia, thi tuyển sinh vào đại học, thi chọn học sinh
các cấp thì trách nhiệm dạy như thế nào lại thuộc về cái tâm với nghề, khả năng
và sự linh hoạt của các giáo viên Sử. Điều quan trọng đối với các giáo viên dạy Sử khi truyền đạt những
kiến thức như thế này để nhắc nhớ thế hệ trẻ không nên hiểu phiến diện, không
đầy đủ về những câu khẩu hiệu, những ngôn từ ngoại giao, những lời tuyên bố của
các chính khách.
Bài học mất nước thời Thục Phán An Dương Vương luôn tươi
nguyên giá trị trong cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, dân tộc hiện nay.
Nhắc lại để thế hệ trẻ cần phải biết tôn vinh, tưởng nhớ và
tri ơn các bậc tiền nhân, những người đã chiến đấu, cống hiến và hy sinh vì
công cuộc bảo vệ Tổ quốc, để sống có trách nhiệm hơn và yêu Tổ quốc hơn. Ôn lại kiến thức cũ không để kích động hận
thù cực đoan với nước láng giềng mà từ sự thật lịch sử đó để chúng ta có thể
rút ra những bài học quý giá trong cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo
vô cùng gian nan và phức tạp trong hiện tại và cả tương lai. Ghi nhớ nỗi đau để chúng ta trân trọng hòa
bình, để những ký ức về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (1979 -
1989) không bao giờ bị xóa nhòa trong lòng mỗi người dân đất Việt. Lịch sử đã đi qua nhưng giá trị lớn nhất
của các sự kiện, kiến thức lịch sử là để lại cho hậu thế những bài học lịch sử,
kinh nghiệm lịch sử vẫn luôn tươi nguyên giá trị thực cho hiện tại và tương
lai. Điều đó luôn nhắc nhở những người viết sử,
dạy sử và học sử không để các sự kiện về các cuộc đấu tranh bảo về lãnh thổ,
chủ quyền biên giới, hải đảo bị rơi vào quên lãng, bị chìm vào dĩ vãng vì bất
cứ lý do gì. Đó không chỉ là sai lầm
của chúng ta mà chính chúng ta còn có tội với lịch sử, có lỗi với vong linh
những người đã ngã xuống vì sự toàn vẹn lãnh thổ và cả sự thiếu trách với hậu
thế. Cái đích cuối cùng của nghiên cứu và giảng
dạy lịch sử không phải chỉ để biết, hiểu quá khứ mà phải trên cơ sở đó để tìm
ra những giá trị hữu ích cho cuộc sống hiện tại và tương lai.
Việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử cuộc chiến tranh bảo
vệ biên giới phía Bắc (1979 - 1989) cũng vậy, trên cơ sở khôi phục những hiểu
biết cơ bản, đầy đủ, đúng đắn về cuộc chiến tranh này thì trách nhiệm của các
giáo viên Sử phổ thông là biến các kiến thức lịch sử tạo nên sự chuyển biến về
những nhận thức lịch sử hướng đến giáo dục các giá trị lịch sử để thế hệ trẻ
biết trân quý các giá trị cuộc sống hiện đang đang có, ghi ơn các thế hệ tiền
bối đã ngã xuống vì Tổ quốc và học hỏi từ quá khứ để tránh sai lầm trong hiện
tại và tương lai.
Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc đã bùng nổ cách đây
tròn 40 năm, là một trong những cuộc chiến tranh lớn của dân tộc trong lịch sử
chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc và trong thế kỷ XX. Nhưng trên thực tế, sự kiện đó chưa được
nhận thức chính xác và đầy đủ ở cả trong và ngoài nước, chưa được ghi chép toàn
diện và đầy đủ trong sử sách và được trình bày thuyết phục trong sách giáo khoa
Lịch sử hiện hành. Hy vọng, nhân dịp kỷ
niệm 40 năm sự kiện này, những “khoảng trống” về kiến thức và nhận thức lịch sử
của lịch sử sẽ được khỏa lấp và đánh giá, nhìn nhận đầy đủ hơn, khách quan hơn,
trung thực hơn.
Nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa
Pháp tuyên bố đã điều tàu ngầm hạt nhân tấn công tuần tra Biển Đông Thứ Ba, ngày 09/02/2021
NGƯỜI ĐẶT NỀN MÓNG CHO TÌNH BÁO VIỆT NAM
Hoàng Minh Đạo (1923-1969) tên thật là Đào Phúc Lộc, bí danh khác Năm Thu, Năm Đời, Năm Sài Gòn. Cậu bé Lộc sinh ra trong một dòng họ nổi tiếng về truyền thống yêu nước, dòng họ vinh dự được nhà chí sĩ Phan Bội Châu tặng câu đối, đại ý: Lòng yêu nước thương dân của họ Đào như viên ngọc quý giữa đời thường. Cha ông là "đại gia" Đào Ngọc Khanh - một thầu khoán nổi tiếng ở đất Quảng Ninh - Hải Phòng đầu thế kỷ XX với lời lưu truyền của giới tư sản thời bấy giờ: "Vàng lấy thúng mà đong. Tiền lấy bao tải mà đựng".Thế nhưng, trái với "đam mê" của người cha, Đào Phúc Lộc lại mang trong mình dòng máu yêu nước, một lòng hướng đến cách mạng và lựa chọn cho mình một con đường riêng.
Sau bao biến cố của gia đình, Đào Phúc Lộc đã cùng chị gái thuê một căn nhà nhỏ ở ngõ "cô Ba Chìa" (Hải Phòng) để trọ học. Cũng kể từ đây, cuộc sống của cậu bé 7 tuổi bước sang một trang khác.
Những ngày đầu tham gia cách mạng cùng chị gái là Đào Hải trong việc giữ đường dây liên lạc bí mật của Khu ủy với phong trào vùng mỏ, Đào Phúc Lộc đã sớm bộc lộ những tố chất của một "đồng chí Cộng sản" (tên gọi sau này đồng chí Tô Hiệu đã dùng để gọi Đào Phúc Lộc hay Đào Lộc) nhỏ tuổi.
Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Tô Hiệu, Đào Phúc Lộc đã bước những bước đi tiếp theo trên con đường cách mạng và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam khi vừa tròn 16 tuổi. Căn nhà trọ của hai chị em Lộc trở thành điểm liên lạc tạm thời của cơ quan bí mật Khu ủy những năm 1936 - 1939 tại Hải Phòng.
Cách mạng tháng Tám thành công, Hoàng Minh Đạo nhận lệnh về Hà Nội. Sau khi Phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu được thành lập (25/10/1945) dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Hoàng Minh Đạo được phân công giữ chức Trưởng phòng Quân ủy Hội, nhiệm vụ nắm bắt tình hình quân Pháp, Nhật, Tưởng và bọn Việt Quốc, Việt Cách thân Tưởng.
Với một nhóm cán bộ ít ỏi cùng những phương tiện liên lạc thô sơ, Hoàng Minh Đạo đã tổ chức mạng lưới tình báo rộng khắp từ nhà hàng, khách sạn, rạp hát, bưu điện đến cả "cài cắm người" trong hàng ngũ các cơ quan của người Pháp, người Hoa.
Cách độc đáo trong việc dùng người của Hoàng Minh Đạo, đó là, không cứ người Hà Nội mới làm tình báo mà ông chọn cả những người đồng hương của mình hoặc người tỉnh khác để làm công việc này, mục đích dễ lừa, dễ đánh lạc hướng, mà kẻ thù lại không biết mặt, ít nghi ngờ.
Mặt khác, những người này lại biết tiếng Tàu, tiếng Pháp nên có khả năng thâm nhập, trà trộn vào các tổ chức hàng ngũ của địch khá thuận lợi, dễ dàng để nắm bắt thông tin. Ông sử dụng phương châm lấy dân làm tai mắt và cho rằng những cậu bé ngồi đánh giày tại quán ăn, nhà hàng hay công viên sẽ là nguồn cung cấp thông tin nhanh, để tổ chức biết và kịp thời tác chiến.
Dưới sự chỉ huy đầy sáng tạo của ông, những chú bé, người dân, cô thiếu nữ "lá ngọc cành vàng", nữ sinh "gót sen đỏ chót" ấy đã hoàn thành nhiệm vụ, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của phong trào cách mạng và cái tên "Thủ trưởng đầu tiên của ngành Tình báo Quân sự Việt Nam" cũng ra đời từ đây...
Đầu năm 1948, Hoàng Minh Đạo (lúc này lấy bí danh là Năm Thu) nhận được lệnh điều động của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào Nam với nhiệm vụ - Đặc phái viên của Bộ Tổng Tham mưu đi kiểm tra tình hình công tác phản gián, tình báo, quân báo từ khu IV vào đến Nam Bộ. Trên đường đi, Hoàng Minh Đạo đã tổ chức được 6 lớp tập huấn ngắn hạn từ khu IV đến khu IX, mỗi lớp trên 30 người để bổ sung lực lượng cho ngành Tình báo còn non trẻ ở miền Nam lúc bấy giờ.
Chiến trường ngày càng ác liệt khi mà Mỹ - Ngụy dùng chính sách thà giết nhầm còn hơn bỏ sót. Chiếc máy chém của chế độ Mỹ - Diệm lê đi khắp các làng mạc, trường học, chợ, kèm theo lời đe dọa: "Ai liên quan đến Cộng sản sẽ mất đầu". Từ những năm 1959 - 1967, các tổ chức kháng chiến miền Nam bị dồn vào thế eo hẹp, lương thực khan hiếm, thực phẩm, thuốc men cho đến quần áo không đủ. Việc liên lạc với đảng viên cơ sở cũng khó, việc vận động quần chúng trong ấp chiến lược đòi dân sinh dân chủ càng khó khăn hơn. Nhiều đồng chí Cộng sản bị bắt, bỏ tù và thậm chí bị giết.
Những năm đó, ở Củ Chi và vùng "Tam giác sắt" gồm Trảng Bàng, Đôn Thuận, Bời Lời (Tây Ninh), Dầu Tiếng, Bến Cát, Bắc Củ Chi còn chút ít rừng nhưng cũng bị trụi lá vì chất độc hóa học do Mỹ rải thảm. Ở vùng Thủ Đức, Dĩ An chỉ còn lác đác mấy chòm cây lúp xúp.
Cuộc bám trụ sống chiến đấu của anh em ở chiến trường Phân khu V đầy cam go và ác liệt. Lực lượng cách mạng ở miền Nam gặp rất nhiều khó khăn. Có những lúc đưa thương binh về hậu phương cứu chữa, trên đường tải thương nhiều anh em đã phải nằm lại.
Để kịp thời cứu bệnh binh, hạn chế tối đa hy sinh, Hoàng Minh Đạo đã tính tới việc tận dụng các ấp chiến lược phục vụ cho cuộc chiến đấu đầy khắc nghiệt tại chính mảnh đất này. Mặc cho, công việc không gặp nhiều thuận lợi khi mà tại các ấp chiến lược, địch vẫn thi hành chính sách "Trưởng ngũ gia liên báo" (trong 5 nhà có ai lạ mặt phải báo cáo) và tổ chức Dân vệ kiểm soát gắt gao.
Thế nhưng, bằng kinh nghiệm và tầm nhìn của một nhà tình báo, Hoàng Minh Đạo đã xây dựng được một Trạm Y tế cấp cứu thương binh trong ruột ấp chiến lược tại xã Tân Đông Hiệp, huyện Dĩ An, tỉnh Đồng Nai. Cho nên, dù kẻ thù có tìm mọi cách để giam giữ dân thì lòng dân hướng theo cách mạng không có vòng vây nào giam hãm, kìm kẹp được.
Trong thời gian 3 năm (1961-1963) bệnh xá hoạt động rất sôi nổi với hình thức: Bệnh viện của Mỹ, bác sĩ của Mỹ, thuốc men cũng của Mỹ nhưng người bệnh lại là của ta. Nhiều lần chúng nghi ngờ: Tại sao bệnh nhân không đông mà thuốc lại hết nhanh vậy?, nhưng cuối cùng, kẻ thù cũng không thể tìm ra câu trả lời.
Hoàng Minh Đạo đã gây dựng và tổ chức được trạm y tế trong lòng địch bởi ông thông tỏ tình hình, nắm sâu quần chúng, hiểu các Trưởng ngũ gia và Dân vệ tại các ấp chiến lược. Mỗi lần cán bộ, chiến sĩ chiến đấu bị thương đều theo đường dây bí mật được chuyển vào cơ sở của ta ở ấp chiến lược để y tá sơ cứu, băng bó vết thương.
Điều đặc biệt ở tổ chức này là đều khai báo với giặc: thương bệnh binh là những bà con, dòng họ của họ. Nếu thương binh bị nặng thì chọn thời cơ thuận lợi đưa về an toàn khu. Bệnh xá hoạt động trong thời gian dài ngay trong lòng kẻ thù với một số lượng lớn thương binh được cứu chữa mà bọn chúng không thể phát hiện ra.
Thời điểm đó trên chiến trường miền Nam, duy nhất chỉ có một trạm y tế hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hoàng Minh Đạo trong ấp chiến lược của Mỹ - ngụy, cơ sở bí mật chỉ có ba đồng chí Hoàng Minh Đạo, Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) và Lê Thanh Hải (Mười Hải) được biết.
Chính sự đặt trọn niềm tin ở nhân dân cùng với sự sáng tạo, bản lĩnh của một nhà tình báo đã góp phần làm nên những chiến thắng của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam. Đây là một kỳ tích tuyệt vời của anh Năm Thu - "tác phẩm" mang đầy tính chiến đấu, kiên cường và sự mạo hiểm của nhà tình báo Hoàng Minh Đạo.
Vào một lạnh giá 24/12/1969, người con đất mỏ Hoàng Minh Đạo cùng 17 người đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng đất bên dòng sông Vàm Cỏ Đông vì bất ngờ hứng chịu trận mưa đạn của ba chiếc tàu Mỹ. Đồng đội của ông đã tổ chức tìm kiếm nhưng đều rơi vào vô vọng và tin Năm Thu hy sinh được giấu kín trong một thời gian dài.Nhưng đau đớn hơn, khi trong mắt của một số người, ông còn là một "gián điệp", "kẻ phản bội Tổ quốc".
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã viết về ông: "Có nhiều thời gian công tác với đồng chí Đạo tại chiến khu miền Nam, Campuchia, khu ủy Sài Gòn - Gia Định, tôi thấy: đồng chí Hoàng Minh Đạo còn có nhiều bí danh khác như Năm Thu, Năm Đời, Năm Sài Gòn - là một đồng chí trung kiên, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng phân công, tận tụy với Đảng cho tới ngày hi sinh".
Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt nói chuyện với bà Đào Thị Minh Vân, con gái Hoàng Minh Đạo: "Chú vẫn giữ những ấn tượng sâu sắc về ba cháu, một cán bộ gương mẫu và luôn hoàn thành nhiệm vụ được trao, một người đồng chí chân thành, cởi mở, lạc quan, trong gần mười năm cùng công tác ở Khu ủy Sài Gòn - Gia Định. Chú mong cháu luôn cố gắng, xứng đáng với ba cháu".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: "Tôi rất cảm động hôm nay gặp mặt cháu Đào Thị Minh Vân, con gái đồng chí Hoàng Minh Đạo, đã được Quân ủy Trung ương cử đi làm Trưởng ban quân báo Nam Bộ từ năm 1948. Anh đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Nhớ tới anh Đạo, tôi mong rằng con và cháu của anh noi gương của ông, của cha, học tập tốt, lao động tốt, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, xứng đáng là con cháu của Bác Hồ, đáp ứng lòng mong mỏi của anh Đạo".
Theo Dòng Sử Việt#