Thứ Năm, 28 tháng 7, 2022

Một số giải pháp cơ bản phòng, chống “Diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Để đấu tranh có hiệu quả với những quan điểm sai trái phản động của chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên tuyền giáo dục nâng cao nhận thức của các cán bộ, đảng viên, nhân dân trong và ngoài nước về bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh; về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng và âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm chống phá nước ta, để từ đó thúc đẩy mọi người tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người. Công tác phát triển, phòng chống những quan điểm sai trái, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh luôn phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị nhằm tạo ra sức thuyết phục cao, sức lan tỏa sâu rộng. Đặc biệt, cần huy động được rộng rãi trí tuệ, tâm huyết của các nhân sỹ, trí thức và nhân dân tiến bộ trên thế giới tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, khẳng định vị thế, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối xây dựng và phát triển đất nước; làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt trong đời sống, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội. Qua đó nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho cuộc đấu tranh, phê phán quan điểm, tư tưởng xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. Gắn kết chặt chẽ cuộc đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh; nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. 

  Ba là, tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước về báo chí, truyền thông, internet. Phát huy thế mạnh của các kênh thông tin, đặc biệt là tăng cường xây dựng các trang web, các blog, diễn đàn trên mạng xã hội để đăng tải các tin, bài viết phong phú, đa dạng nhằm tuyên truyền về vị trí, tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay. Mặt khác, làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra nhằm chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc của số phóng viên, nhà báo thoái hóa, biến chất; phát hiện các tài liệu, bài viết xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các trang mạng độc hại, các blog “đen” thường đăng tải các tin, bài, phim có nội dung xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. 

 Bốn là, thúc đẩy hơn nữa học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn xã hội làm cho việc học tập và làm theo tấm gương của Bác là niềm vinh dự và tự hào, trở thành nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên đối với mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam trong quá trình rèn luyện, tu dưỡng để trở thành những công dân tốt, người lao động tốt;coi việc học tập và theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; là biện pháp quan trọng nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" và đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta hiện nay.


 


Trao hương, gửi lửa cho muôn đời sau

Sau khi thành lập tại xã Nam Anh năm 1968, những người lính mười tám, đôi mươi của Trung đoàn 27 - Triệu Hải hành quân vào Nam chiến đấu và trở thành Trung đoàn chủ lực của Mặt trận B5, đường 9, Bắc Quảng Trị. Trong những trận chiến khốc liệt bảo vệ Tổ quốc, quê hương, Trung đoàn đã có đến hơn 2.500 liệt sĩ và một nửa trong số đó, xương máu các anh đã hóa vào đất, vào nước quê hương.

Cùng lời thề và tâm nguyện của người lính, sau ngày Giải phóng, những người còn sống quay trở lại tìm kiếm đưa di cốt đồng đội về quê nhưng vẫn còn đó những đồng đội chưa thể về được với quê mẹ… Những người lính Trung đoàn 27 - Triệu Hải đã tự kết nối, chung lòng hợp sức nắm tay nhau tổ chức cuộc hành hương “Đưa quê hương vào cho đồng đội” .

CCB Lê Bá Dương kể, sau ngày đất nước thống nhất, ông đã cắt cái phép đầu tiên rồi trở lại Quảng Trị. Từ Bến Tắt (xã Linh Thượng, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị), ông đi đến những vùng mà Trung đoàn hoạt động trong những năm tháng chiến tranh - nơi đồng đội ông biết bao người ngã xuống. Mỗi nơi, ông lại hái hoa sim, hoa mua, chạc chìu kết bè bằng những cây sậy rồi thả xuôi theo các dòng sông, từ Bến Hải, ngược vào dòng Ô Lâu rồi ra Thạch Hãn.

Trên đồi cao, thắp điếu thuốc Tam Đảo, Trường Sơn thay cho nén hương rồi nhờ gió tỏa ra cho các anh em, đồng đội. “Mình cứ lủi lủi đi một mình như vậy và năm nào 27/7 cũng vậy. Lúc thì bè hoa kết bằng cây sậy, hoa thì hái ven rừng, lúc điếu thuốc thay nén hương lòng hay là lúc mình mua hoa, thuê thuyền ra giữa dòng Thạch Hãn rồi thả bè hoa, nén hương… nhờ nguồn nước mạch làng, của quê hương tải chút lòng của người còn sống với người đã khuất về phía vô cùng” - CCB Lê Bá Dương tâm sự.

Rồi khi cuộc sống đỡ vất vả hơn, trong vòng tay đồng đội, những người lính Trung đoàn 27 - Triệu Hải lại nắm tay nhau về với Quảng Trị - vùng đất đã có biết bao đồng đội đã vĩnh viễn hóa thân vào từng ngọn núi, dòng sông. Họ mang về đây tấm lòng cùng những đất, nước quê hương sưởi ấm, tri ân cho những người đã ngã xuống cho độc lập, hạnh phúc của đất nước, nhân dân.

Có lẽ chuyến hành hương “Đưa quê hương vào cho đồng đội” nhân dịp 27/7 năm nay là lần đầy tâm trạng nhất. “Cuộc hành hương năm này như lần cuối cùng ở hình thức này khi nhiều CCB sức khỏe ngày càng yếu và lớn tuổi, trong đó nhiều thương binh nặng” - CCB Lê Bá Dương xúc động.

Ông tâm sự, dù rằng, những người lính Trung đoàn 27 biết bà con, chính quyền Quảng Trị luôn luôn lo chu đáo cho anh em mình nhưng anh em mình cũng muốn có lời gửi gắm qua lễ “Trao hương, gửi lửa” với vật phẩm lưu niệm và quà hỗ trợ cho đại diện quản trang của 72 nghĩa trang trong tỉnh Quảng Trị.

Những hành động đó như một lời cảm ơn, gửi gắm mà các CCB muốn gửi đến đồng bào, Nhân dân Quảng Trị, là tâm niệm của các CCB mong muốn phần mộ của các chiến sĩ, đồng đội của mình luôn được chăm sóc, hương khói.

“Điều đó khiến cho chính những người mở lời, gửi gắm, chúng tôi được yên lòng hơn” - CCB Lê Bá Dương nói.

Bên bến sông, hòa vào tiếng hát ấm tình đồng đội của các CCB Trung đoàn, từng cơn gió từ dòng Thạch Hãn cũng ùa vào cùng chung nhịp đập của một thời hoa lửa, hòa vào hồn thiêng sông núi, đất trời Quảng Trị!

Ấm tình đồng đội

Vào tháng 7, dòng sông Thạch Hãn luôn lung linh, đẹp đẽ và thiêng liêng. Với những đèn hoa bồng bềnh trôi tỏa hàng nghìn ánh lửa của sự tri ân sưởi ấm dòng sông này. Và bên bờ sông Thạch Hãn yên bình, những cựu binh của Trung đoàn 27 - Triệu Hải giờ đã hơn 70 tuổi bịn rịn ngồi bên dòng sông lịch sử này. Những ký ức hào hùng của một thời hoa lửa hiện về, những câu chuyện với những cái ôm chặt khi về với đồng đội đang còn nằm lại trên mảnh đất Quảng Trị thân thương.

Trong gần 10 năm qua, cứ vào dịp 27/7, những cựu chiến binh (CCB) cùng thân nhân các gia đình liệt sĩ Trung đoàn 27 lại hành hương vào thăm lại chiến trường xưa - nơi ghi dấu những năm tháng hào hùng và cả những đồng đội nằm lại nơi đây. Có người đã để lại một phần máu thịt, có người nằm lại mà anh linh đã hóa thành bất tử nơi đây.

Trong mỗi chuyến đi, những cựu binh Trung đoàn đang ở khắp mọi miền Tổ quốc lại chuẩn bị những nắm đất, những bình nước mang từ quê hương để hòa vào dòng Thạch Hãn, gửi cho đồng đội bao năm qua vẫn chưa tìm thấy để đưa về đất mẹ.

CCB Lê Bá Dương chia sẻ: "Chúng tôi gọi đó là chương trình đưa quê hương vào cho đồng đội, là đưa hơi ấm với những đất, nước từ 3 miền Bắc - Trung - Nam của Tổ quốc về đây rồi hòa vào lòng Thạch Hãn.

Đồng thời, đưa hơi ấm của những người đồng đội vào cho anh em đã nằm xuống, rồi những tiếng nói, ngữ thanh các vùng miền, như: Hà Nội, Ninh Bình, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh… vào đây”.

Ôm hũ đất, nước trong tay, ông rưng rưng với những đồng đội đã hóa thân vào đất, vào dòng Thạch Hãn: “Chúng mày không về được quê nên hôm nay chúng tao ở Hà Nội vào đây mang theo nước Hồ Gươm, nước sông Hồng, cả đất bãi sông Hồng nơi chúng mày từng chơi đùa lúc bé và cả đất ở Hoàng thành Thăng Long nữa. Chúng tao sẽ gửi đất, nước hòa vào dòng Thạch Hãn cho những đứa còn nằm lại ở đây một chút hơi ấm của quê hương, chúng mày vui lên nhé!”.

Trong giây phúc trang nghiêm, lời văn tế của CCB Trung đoàn 27 Ngô Minh Hớn vang lên trong tiếng chuông bên bờ Thạch Hãn: “Cây núi Mai tươi tốt nghìn năm. Nước Thạch Hãn trong xanh vạn đại. Trên sông khói sóng, gợi nhớ về một thuở đao binh. Dưới bến thuyền neo, như nhắc lại những lần chèo lái. Thể phách hòa tan, tinh anh còn mãi”.

Trên dòng Thạch Hãn những bè hoa, hoa đăng lung linh ánh lửa sưởi ấm của bến sông, những CCB chuyền tay nhau đất, hũ nước, gạo và muối quê hương rồi hòa vào dòng Thạch Hãn. Những giọt nước được mang từ sông Kỳ Cùng, Hồ Gươm, sông Nhật Lệ, sông Lam, bến Nhà rồng, nơi Trung đoàn thành lập, gạo Thái Bình, muối Diêm Điền… “Lễ bạc lòng thành: Nhờ dòng nước biếc mang đi, dương cầu âm ứng: Cậy đám mây xanh chắp lại”.

Không chỉ là tiếp dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về phong cách làm việc gần dân, trọng dân, luôn lắng nghe và giải quyết kịp thời mọi ý kiến của nhân dân. Trong vòng 10 năm (1955-1965), tuy tuổi cao, công việc bề bộn, Người vẫn thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, xí nghiệp, công trường, hợp tác xã, đơn vị bộ đội... Người đi khắp mọi nơi để thăm hỏi đồng bào và chiến sĩ, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính trung bình mỗi tháng, Người đi thăm, kiểm tra cơ sở 5 lần.

Gần dân thì có nhiều cách, mà một trong những cách để gần dân chính là làm tốt công tác tiếp dân. Cũng là tiếp dân, nắm tình hình người dân, lắng nghe dân, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú và Thanh Hóa Lê Huy Ngọ lại chọn cách: “Bà con cứ ở đó, tôi xuống với bà con, lắng nghe bà con”. Đến tận nơi lắng nghe người dân cũng là cách mà nhiều bí thư cấp ủy đang áp dụng.

Năm 2017, chúng tôi cùng đoàn công tác của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Dương Văn Trang (nay là Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Kon Tum) thăm làng Pyầu (một làng đặc biệt khó khăn của tỉnh Gia Lai) trong hai ngày. Tại đây, đồng chí Dương Văn Trang quyết định ngủ lại nhà trưởng bản để hôm sau tiếp tục tiếp dân. Đồng chí đề nghị người dân trong làng nói hết mọi tâm tư, nguyện vọng để cùng bàn hướng giải quyết. Hiện trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Kon Tum, đồng chí Dương Văn Trang vẫn giữ thói quen tổ chức nhiều buổi đến tận nơi gặp gỡ, lắng nghe ý kiến của người dân. Ở làng, bản nào bà con nhiều ý kiến, đồng chí ngủ lại tại đó, sẵn sàng lắng nghe người dân phản ánh cả buổi tối và ngày hôm sau. Mới đây, chuyến làm việc tại thôn Làng Mới (xã Mường Hoong, huyện Đăk Glei) ngày 20-6-2022 là một lần như vậy. 

Một ngày giữa tháng 7-2022, chúng tôi đến xã Nghĩa Hòa (Lạng Giang, Bắc Giang). Tuy không phải ngày tiếp công dân định kỳ nhưng đồng chí Nguyễn Văn Tuấn, Bí thư Đảng ủy xã vừa tiếp một trường hợp phản ánh liên quan đến việc hiến đất làm đường nông thôn mới diễn ra từ năm 2017. Là người địa phương, đồng chí Nguyễn Văn Tuấn cũng hiểu rõ câu chuyện vốn không phức tạp hay sai phạm gì nên sau khi cùng uống một ấm trà, vừa chuyện trò tình làng nghĩa xóm, vừa giải thích, phân tích được-mất... công dân vui vẻ ra về, không gửi đơn thư nữa, tình làng nghĩa xóm cũng được giữ êm đẹp.

Đồng chí Nguyễn Văn Tuấn quan niệm, cấp xã là cấp gần dân nhất nên nếu đồng chí Bí thư Đảng ủy sâu sát, gần dân sẽ thuận lợi giải quyết những vấn đề từ khi mới phát sinh, tránh dẫn đến vụ việc phức tạp, vượt cấp. Theo Quy định 11 thì người đứng đầu cấp ủy cấp xã tiếp dân định kỳ 2 lần mỗi tháng, nhưng ở xã Nghĩa Hòa, Bí thư Đảng ủy xã tiếp dân định kỳ vào ngày thứ năm hằng tuần. Chúng tôi còn tình cờ biết chuyện tháng 6 vừa qua, ngày tiếp công dân trùng với ngày giỗ bố đẻ đồng chí Nguyễn Văn Tuấn. Thế là, theo đề xuất của anh, gia đình dời ngày cúng giỗ vào chủ nhật để không ảnh hưởng tới việc tiếp công dân tại trụ sở.

Những câu chuyện kể trên chỉ là số ít ví dụ cho thấy quyết tâm, hiệu quả từ công tác tiếp công dân của người đứng đầu cấp ủy. Hơn thế, đó còn là sự chủ động của người đứng đầu cấp ủy để gần dân, hiểu dân hơn.

Tiếp dân không nghỉ trưa

"Tiếp dân không nghỉ trưa" là phương châm mà Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Lê Đức Thọ thực hiện trong công tác tiếp dân. Định kỳ vào tuần thứ 3 hằng tháng, trụ sở tiếp công dân tỉnh Bến Tre (số 600-B9 Nguyễn Thị Định, khu phố 7, phường Phú Khương, TP Bến Tre) lại đón công dân dự buổi tiếp dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Lê Đức Thọ và các cơ quan chức năng của tỉnh đã quen với việc tiếp dân cả trưa, hoặc tiếp một người, cùng một vụ việc nhiều lần, tiếp cho đến khi hết công dân đăng ký gặp. Gần đây nhất, ngày 20-7-2022, đồng chí Lê Đức Thọ đã tiếp xúc, lắng nghe ý kiến của 48 công dân.

Gặp gỡ, lắng nghe, chỉ đạo phương hướng giải quyết nguyện vọng của 48 công dân trong một ngày là số lượng lớn. Để có thể làm được điều đó, Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ và các cơ quan chức năng phải làm việc liên tục từ 7 giờ 30 phút và kết thúc lúc 17 giờ 15 phút cùng ngày. Các công đoạn chuẩn bị cho buổi tiếp công dân phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Trong suốt thời gian tiếp dân, tất cả chỉ có 30 phút buổi trưa để ăn uống, xử lý các công việc cá nhân rồi lại tiếp tục làm việc.

Theo đồng chí Võ Thanh Tùng, Phó trưởng ban Tiếp công dân tỉnh Bến Tre: Tiếp dân là việc làm thường xuyên của Bí thư Tỉnh ủy. Lãnh đạo, cán bộ, nhân viên các cơ quan chức năng tham gia buổi tiếp cũng theo đó mà “ai có gì thì dùng nấy”, người thì ăn bánh mì, người thì ăn đồ ăn từ nhà mang đi. Tất cả làm việc với tinh thần theo đồng chí Bí thư Tỉnh ủy chỉ đạo: Phải lắng nghe, tiếp thu toàn bộ ý kiến của người dân. Không để xảy ra tình trạng người dân đã tìm đến gặp Bí thư Tỉnh ủy nhưng lại phải ra về vì không đủ thời gian.

Với tinh thần trên, kể cả những công dân tới nhiều lần, cùng một sự việc, dù có kết luận của các cơ quan chức năng là đã xử lý đúng quy định của pháp luật, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre vẫn gặp, kiên trì lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ. Đơn cử như trường hợp ông Trần Hồng Lạc (121/3, lộ số 4, phường 4, TP Bến Tre) có ý kiến khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai. Ông Trần Hồng Lạc cho biết đã được Bí thư Tỉnh ủy tiếp xúc nhiều lần.

Trước đó, ngày 6-5-2021, Tỉnh ủy Bến Tre có Công văn số 36-CV/TU trả lời ông Trần Hồng Lạc rất cụ thể: “Nội dung khiếu nại của ông, cơ quan chức năng của tỉnh đã giải quyết đúng thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật và không có cơ sở để xem xét lại”. Tuy nhiên, ông Lạc vẫn không đồng tình, tiếp tục nhiều lần tìm gặp đồng chí Bí thư Tỉnh ủy để bày tỏ nguyện vọng. Từ đầu năm 2022 đến hết tháng 7-2022, tại các buổi tiếp công dân của Bí thư Tỉnh ủy, ông Lạc đã gặp, trình bày nguyện vọng với đồng chí Lê Đức Thọ tổng cộng 6/7 buổi (chỉ trừ buổi tiếp tháng 2 là ông vắng mặt). Tuy đã nắm rõ tình hình, kết quả xử lý vụ việc, nhưng đồng chí Lê Đức Thọ vẫn gặp, lắng nghe, ghi nhận ý kiến của ông Lạc, xem có tình tiết mới sẽ chỉ đạo xử lý. Được biết, từ đầu năm 2021 đến hết tháng 6-2022, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Lê Đức Thọ đã tiếp dân 18 cuộc, với 48 lượt/141 công dân, giải quyết dứt điểm 77 vụ việc, 16 vụ việc đang tiếp tục giải quyết.

Chủ động lắng nghe nguyện vọng của công dân, không ủy quyền trong công tác tiếp dân cũng là quyết tâm của Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam Lê Thị Thủy để thực hiện nghiêm Quy định 11. Đồng chí Ngô Văn Khiển, Phó trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy Hà Nam cho biết: "Trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều vụ việc công dân dù đã được Bí thư Tỉnh ủy tiếp, các kiến nghị đã được chỉ đạo giải quyết theo đúng quy định nhưng công dân vẫn nhiều lần đến tìm gặp để tiếp tục bày tỏ nguyện vọng. Những trường hợp ấy, đồng chí Lê Thị Thủy đều trực tiếp gặp gỡ, lắng nghe, thậm chí đến tận địa bàn để nắm tình hình thực tế".

ĐỪNG XEM NHẸ GIÁO DỤC LỊCH SỬ DÂN TỘC


Thời gian gần đây, dư luận xã hội xôn xao về thông tin môn Lịch sử sẽ đưa vào môn tự chọn, không bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông mới, vấn đề này đã gây ra nhiều tranh cải nhất định trong và ngoài ngành giáo dục.
Trong bài viết này, chúng ta không bàn về phương pháp giáo dục mà nói về hai từ “Lịch sử” thiêng liêng, được đúc kết tinh túy hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Lịch sử đã ghi chép, lưu lại văn hóa, đất nước, con người; răn dạy thế hệ con cháu sau này về truyền thống vẻ vang, hào hùng của dân tộc; lịch sử là thiêng liêng, không phải là bánh vẻ mà lồng ghép, chia sẻ vào những môn học khác theo cách một số người có trách nhiệm giáo dục đã đề xuất cải cách thời gian qua. Ở một khía cạnh nào đó, cho thấy, họ không vì nền giáo dục của đất nước ngày càng tiến bộ, khoa học hơn mà vì lợi ích nhất thời, ý chí chủ quan, có biểu hiện sa ngã bản thân mà đưa ra những đề xuất đi ngược với lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam ta. Trong giai đoạn đất nước đang đẩy mạnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhiều thế lực thù địch đang lợi dụng, chống phá, muốn phá hoại tư tưởng, truyền thống dân tộc. Chúng ta phải hết sức cảnh giác vấn đề này, phải khắc ghi lời dạy của Bác Hồ “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” để ngăn chặn những hành vi, biểu hiện lệch lạc, xa rời lý tưởng cách mạng; không học tập, hiểu biết về lịch sử hào hùng của dân tộc.
Giáo dục lịch sử tạo dựng nên nhân cách con ngời Việt Nam; giáo dục lịch sử cho ta thấy bao lớp thế hệ cha anh đã ngã xuống vì độc lập, tự do hôm nay. Ai còn nhớ, người cựu chiến binh già từng ngày lặng lẽ đến nghĩa trang nói chuyện với đồng đội đã yên nghỉ “Tao sợ một ngày bọn tao chết đi, người ta sẽ quên tao, quên mày và quay lại biết ơn những kẻ xâm lượt giẫm đạp lên mồ mả của tổ tiên chúng ta, rồi thờ phụng và tôn vinh chúng. Khi đó chúng ta mới thực sự chết”. Cái “Chết” này là đích đến của các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá đường lối phát triển đất nước Việt Nam trên mọi lĩnh vực; bọn chúng không từ mọi thủ đoạn; không xâm lược, phá hoại được bằng chiến tranh bom đạn, chúng chuyển sang phá hoại bằng kinh tế, văn hóa. Đến bây giờ, bọn chúng tìm cách phá hoại hệ thống giáo dục mà trực tiếp là muốn loại bỏ môn học Lịch sử. Nhà lãnh tụ vĩ đại của đất nước Nam Phi – Nelson Madela từng nói “Để phá hủy bất kỳ quốc gia nào, không cần phải sử dụng đến bom nguyên tử hoặc tên lửa tầm xa. Chỉ cần hạ thấp chất lượng giáo dục và cho phép gian lận trong các kỳ thi của sinh viên. Bệnh nhân sẽ chết dưới bàn tay của các bác sĩ của nền giáo dục đấy. Các tòa nhà sụp đổ dưới bàn tay của các kỹ sư của nền giáo dục đấy. Tiền bị mất trong tay của các nhà kinh tế và kế toán của nền giáo dục đấy. Công lý bị mất trong tay các thẩm phán của nền giáo dục đấy. Sự sụp đổ giáo dục là sự sụp đổ của một quốc gia”.
Vì những vấn đề này, chúng ta hiểu được sự quan trọng của giáo dục, sự quan trọng của “Lịch sử” của một dân tộc; không vì lợi ích nhất thời mà xem nhẹ. Thế hệ trẻ chúng ta hôm nay cần hun đúc tâm hồn mình bằng văn hóa, truyền thống hào hùng của dân tộc; cần lựa chọn phương pháp giáo dục khoa học, phù hợp với con người Việt Nam, am hiểu lịch sử nhân loại và dân tộc; có như thế mới cùng nhau tiếp nối con đường cách mạng dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Không để thế lực thù địch trong và ngoài nước can thiệp, phá hoại./.
ST
Có thể là hình ảnh về 5 người, mọi người đang đứng và trong nhà
4
1 lượt chia sẻ

Phòng, chống “căn bệnh nguy hiểm”

Việc ban hành Quy định 11 tiếp tục khẳng định quyết tâm của Đảng về quan điểm “dân là gốc”, coi công tác tiếp dân, giải quyết tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII chỉ ra thực trạng “nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”.

Nghị quyết cũng chỉ ra một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”.

Như vậy, quan liêu vẫn là một căn bệnh của không ít cán bộ lãnh đạo hiện nay mà Đảng ta đã chỉ ra. Quan liêu là không nắm được tình hình cơ sở, không nghe được tiếng nói thực lòng của người dân. Đồng chí Lê Doãn Hợp, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, chia sẻ: "Lãnh đạo mà quan cách thì mất nhiều nhất, ấy là mất thực tiễn, mất cơ hội cống hiến, làm mất uy tín của Đảng, tín nhiệm của dân, mất thông tin và lời khuyên, mất cả bạn bè".

Trong rất nhiều các đồng chí bí thư cấp ủy các cấp mà chúng tôi được tiếp xúc, hết thảy đều cho rằng nếu người đứng đầu cấp ủy lơ là, thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân theo Quy định 11 thì tất sẽ mắc bệnh quan liêu. Nhìn nhận từ địa phương mình, đồng chí Tạ Huy Cần, Bí thư Huyện ủy Lạng Giang (Bắc Giang) khẳng định: “Quy định 11 rất quan trọng, cần thiết với huyện Lạng Giang trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ, toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay; nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công tác thu hồi, bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án, phát triển hệ thống giao thông, cụm công nghiệp, khu dân cư, khu đô thị mới... phải sử dụng diện tích đất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người dân.

Do đó, người đứng đầu cấp ủy, nhất là ở cơ sở nếu không tập trung cao, lơ là, thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân, giải quyết phản ánh, kiến nghị của công dân sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ, mà quan trọng nhất là làm giảm niềm tin của người dân vào Đảng và chính quyền”.

Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Ngô Chí Cường, Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh nhận định: “Người đứng đầu cấp ủy thực hiện không nghiêm công tác tiếp dân, giải quyết phản ánh, kiến nghị của nhân dân sẽ dẫn đến các cấp, các ngành không quan tâm giải quyết kịp thời quyền lợi chính đáng cho người dân; đồng thời người đứng đầu cấp ủy sẽ không nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu bức xúc, chính đáng của người dân, sẽ không kịp thời chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc nóng mới phát sinh ngay từ ban đầu, ngay từ cơ sở. Việc này trở thành điểm nóng, khiếu kiện đông người, sẽ bị một số đối tượng xấu lợi dụng gây rối làm mất an ninh, trật tự ở địa phương”.

Hiện nay, trình độ dân trí khá cao, hầu hết các vụ việc mà người dân phải tìm đến gặp bí thư cấp ủy thì đã kéo dài. Vì vậy, nếu người đứng đầu cấp ủy không tiếp dân thì người dân chỉ còn cách duy nhất là khiếu nại, tố cáo vượt cấp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Mặt khác, người đứng đầu cấp ủy sẽ mất đi nguồn thông tin để nắm bắt cán bộ, đảng viên, nhất là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Khi đó người dân sẽ giảm hoặc mất niềm tin vào vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng ở địa phương.

Theo đồng chí Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ Cơ sở đảng (nay là Vụ Cơ sở đảng, đảng viên, Ban Tổ chức Trung ương), nếu người cán bộ lãnh đạo địa phương quan liêu, xa dân, sẽ không nắm được tình hình, dẫn đến không đề ra được giải pháp, chủ trương để giải quyết những vấn đề thực tiễn.

Ông cũng nhận định, người đứng đầu cấp ủy không có gì bằng nghe trực tiếp tiếng nói, những kiến nghị, đề xuất của nhân dân. Việc trực tiếp lắng nghe sẽ giúp người đứng đầu cấp ủy phân biệt ý kiến nào là đúng, ý kiến nào là sai, cảm nhận thái độ người dân để “đo” lòng dân thế nào. Qua việc gần nhân dân để thấy chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khi áp vào thực tiễn có vướng mắc gì, cái gì phù hợp, những gì chưa phù hợp để điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh.

Cũng qua nghe tiếng nói từ người dân để người lãnh đạo biết cấp ủy, chính quyền cấp dưới chỗ nào thực hiện tốt, chỗ nào không tốt. Như vậy, gần dân không những nắm được tâm tư, nguyện vọng của người dân mà còn biết đội ngũ cán bộ làm việc thế nào.

Nếu không tiếp dân làm sao biết!

Việc ban hành Quy định 11 tiếp tục khẳng định quyết tâm của Đảng về quan điểm “dân là gốc”, coi việc gần dân, công tác tiếp dân, giải quyết tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Quy định 11 trở thành thiết chế bắt buộc bí thư cấp ủy phải dành thời gian tiếp dân. Đây được coi như "liều thuốc" đặc hiệu vừa phòng, vừa chống bệnh xa dân.

Một ngày đầu tháng 6-2022, chúng tôi gặp bà Hoàng Thị Phương (tổ 2, phường Trưng Vương, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên) ngay trên đoạn đường mới được đổ bê tông rộng rãi, sạch đẹp trước nhà. Giọng bà Phương không giấu nổi sự xúc động khi kể về “sự tích” của đoạn đường này. Gia đình bà và một số hộ khác nguyên là cán bộ Bệnh viện Điều dưỡng Thái Nguyên (nay là Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh Thái Nguyên), được UBND tỉnh Thái Nguyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại tổ 17 (nay là tổ 8), phường Trưng Vương từ năm 1998.

Thế nhưng, 23 năm kể từ khi được cấp đất, các hộ dân vẫn chưa có đường vào để xây dựng, sử dụng mảnh đất thuộc sở hữu của mình dù đã nhiều lần phản ánh ý kiến đến cơ quan chức năng từ phường tới tỉnh.

Vụ việc diễn ra ngay giữa trung tâm TP Thái Nguyên, cách trụ sở Tỉnh ủy và UBND tỉnh Thái Nguyên chỉ vài trăm mét. Ấy vậy mà phải mất tới 23 năm những ý kiến của bà Phương và các hộ dân nơi đây mới được giải quyết, qua buổi tiếp công dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên Nguyễn Thanh Hải. Vài tháng sau buổi tiếp công dân, đường vào khu đất đã được hoàn thành. Hôm đồng chí Nguyễn Thanh Hải đến thăm các hộ dân và kiểm tra tình hình thi công đoạn đường, bà Phương chỉ biết nắm chặt tay nữ Bí thư Tỉnh ủy, xúc động nói lời cảm ơn.

Cũng là vụ việc kéo dài nhiều năm, qua buổi tiếp công dân định kỳ của Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang Dương Văn Thái mới đây, vụ việc tranh chấp quyền thờ cúng liệt sĩ kéo dài 10 năm giữa gia đình ông Nguyễn Văn Nắm (em trai liệt sĩ Nguyễn Văn Được) và anh Nguyễn Văn Bao (cháu ruột liệt sĩ Nguyễn Văn Được) cũng mới được giải quyết dứt điểm, hợp tình, hợp lý và nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân, cán bộ địa phương.

Đồng chí Dương Văn Trang, Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, từ câu chuyện thực tế ở địa phương đã cho biết: “Thực tế qua các buổi đối thoại với người dân, nhiều vấn đề được giải quyết dứt điểm, như vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự tại xã Ia Chim, TP Kon Tum; giải quyết những khó khăn, vướng mắc liên quan đến chế độ, chính sách và công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ phụ nữ, trẻ em của tỉnh; kịp thời tháo gỡ những khó khăn liên quan đến việc phát triển kinh tế-xã hội, công tác quản lý, bảo vệ rừng ở huyện Đăk Glei; giải quyết chế độ, chính sách cho người dân và chỉ đạo thanh tra về phản ánh của người dân liên quan đến công tác quy hoạch, xây dựng trên địa bàn thị trấn Đăk Hà...”.

Qua việc thực hiện nghiêm Quy định 11, năm 2021, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Phan Văn Mãi (nay là Phó bí thư Thường trực Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh) đã nắm bắt những hạn chế của cấp ủy, chính quyền qua tiếp xúc, phản ánh của người dân. Xã Tường Đa (huyện Châu Thành) trước đây là một trong những điểm nóng, nổi lên nhiều vấn đề, như công tác tổ chức cán bộ, quản lý nhà nước, tài chính...

Nhờ việc tiếp xúc, tiếp nhận phản ánh của người dân, với sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Phan Văn Mãi, các cơ quan chức năng đã làm rõ những dấu hiệu vi phạm đối với tập thể Đảng ủy xã Tường Đa nhiệm kỳ 2015-2020 và 5 cá nhân. Kết quả, các cơ quan chức năng đã xử lý 3 cá nhân có vi phạm; chấn chỉnh kịp thời công tác quản lý, tạo niềm tin tưởng của nhân dân.

Cũng nhờ Quy định 11, người dân có thể thuận lợi tiếp cận người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để bày tỏ tâm tư, kiến nghị, phản ánh tình hình địa phương. Đồng chí Phạm Văn Huỳnh, Bí thư Đảng ủy xã Tiến Lộc (Hậu Lộc, Thanh Hóa) tâm sự: “Tôi là người ở địa phương khác về đây công tác, cũng nhờ thực hiện Quy định 11 mà có được sự phản ánh nhiều chiều, nắm được tình hình thực tế tại xã để có những chỉ đạo kịp thời. Cấp xã là cấp gần dân nhất, nhiều sự việc tưởng gần nhưng nếu người dân không phản ánh thì chúng tôi cũng không nắm, xử lý kịp thời được”.

Cần loại bỏ tư duy “cuốc vào” trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ có tính rường cột trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Muốn xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng, vừa phù hợp với thực tiễn, vừa theo kịp xu hướng phát triển của thực tiễn đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ soạn thảo, dự thảo văn bản đó phải có trách nhiệm cao, có kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực mình được giao soạn thảo.

Đặc biệt là các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào quy trình soạn thảo phải luôn công tâm, minh bạch, tuyệt đối không được đan cài lợi ích của ngành mình, tổ chức mình vào trong văn bản quy phạm pháp luật thì mới làm cho văn bản quy phạm pháp luật đạt được tính cách mạng và khoa học.

Thực tiễn cho thấy, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia. Quốc gia nào có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, chính xác, khoa học, toàn diện thì quốc gia đó sẽ có nhiều thuận lợi trong quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của con người, tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển.

Đối với nước ta, là nước đang trong quá trình phát triển, còn nhiều lĩnh vực mới, vấn đề, hiện tượng mới nảy sinh cần phải được điều chỉnh bằng luật pháp, do đó công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật càng phải được tiến hành khẩn trương, nhưng phải chặt chẽ, khoa học. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm đúng với thẩm quyền, hình thức, quy trình, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Trong những năm gần đây, công tác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo sát sao tới mức quyết liệt để nhằm tháo gỡ những vướng mắc, làm giảm, tiến tới chấm dứt việc nợ đọng văn bản quy phạm pháp luật.

Các bộ, ban, ngành Trung ương, các UBND, sở, ban, ngành các địa phương được giao nhiệm vụ soạn thảo dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các văn bản luật, dưới luật cũng đã có những cố gắng, bảo đảm cho các văn bản pháp luật sau khi dự thảo có nội dung, hình thức sát với yêu cầu thực tiễn, đúng với quy định của luật, sát với sự chỉ đạo của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ.

Tuy nhiên trong quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật cũng còn một số cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa thấm nhuần tư tưởng công minh, chính trực, tính phổ thông, do đó đã xuất hiện các dự thảo văn bản luật, dưới luật mang hơi hướng lợi ích cục bộ theo kiểu “cuốc giật vào lòng” đối với một số tổ chức, cá nhân, nhất là đối với các cơ quan, bộ, ngành được giao trực tiếp đảm nhiệm dự thảo văn bản luật; hoặc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật với các điều khoản nội dung không rõ ràng, gây ra sự lúng túng trong áp dụng, vận dụng.

Thực tế này đã diễn ra, bằng chứng là có khá nhiều văn bản luật khi trình ra Quốc hội đã bị các đại biểu bỏ phiếu không tán thành, buộc cơ quan chủ quản và các cơ quan liên quan phải chuẩn bị lại. Những văn bản quy phạm pháp luật này thường có nội dung trùng lặp, chồng chéo giữa chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này với cơ quan khác, giữa ngành, lực lượng này với ngành, lực lượng khác đã được luật hóa; hoặc là chồng chéo về mặt nội dung giữa các văn bản luật.

Hệ lụy thứ nhất của việc soạn thảo và ban hành những văn bản pháp luật “có sạn” là sẽ tạo ra một hệ thống văn bản pháp luật không phù hợp với thực tiễn, hoặc là có luật cũng như không, dẫn đến hiện tượng mất công bằng trong xã hội. Xuất phát từ sự “có thể co giãn” của văn bản luật mà cơ quan nắm quyền thực thi pháp luật có thể vận dụng tùy tiện, có lợi cho người này, tổ chức này, hoặc ngược lại, lâu dần dẫn đến mất niềm tin của nhân dân vào luật pháp và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai là văn bản luật nếu có những "lỗ hổng" sẽ đẻ ra sự nhũng nhiễu, cửa quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực thi pháp luật và cũng là chỗ để một số đối tượng lợi dụng “lách luật” hòng trục lợi hoặc làm những điều phi pháp.

Thứ ba là việc chuẩn bị các văn bản quy phạm pháp luật thiếu chuẩn mực, lợi ích cục bộ sẽ làm mất đi tính khoa học của văn bản luật, thể hiện tư duy lạc hậu, trình độ, nhận thức hạn chế của cơ quan, tổ chức, cá nhân đảm nhiệm soạn thảo, xa hơn là các văn bản này sẽ làm chậm tiến độ ban hành văn bản pháp luật, làm cho một số hành vi, lĩnh vực nảy sinh trong thực tiễn chậm được luật hóa, dẫn đến kéo lùi sự phát triển của xã hội.

Khắc phục các văn bản quy phạm pháp luật có “lỗ hổng”; khắc phục tư duy “cuốc giật vào lòng”, mưu mô lợi ích cục bộ trong việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là việc cấp thiết phải thực hiện rốt ráo và triệt để. Trước hết, các cơ quan chức năng phải thường xuyên rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm cho các văn bản này có sự thống nhất về nội dung, không chồng chéo về lĩnh vực, vấn đề cần điều chỉnh trong văn bản luật. Khi phát hiện các “lỗ hổng”, các dấu hiệu trục lợi của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong văn bản luật thì kiên quyết kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, kể cả văn bản luật mới có hiệu lực thi hành.

Về vấn đề này, trong hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2022, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho rằng: “Cần phải đẩy mạnh kiểm tra, rà soát văn bản vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm. Các cơ quan chức năng phải đôn đốc, bảo đảm kết luận kiểm tra được thực hiện kịp thời, đúng pháp luật; chú trọng xử lý kết quả rà soát các quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn...”.

Việc đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên gia cao cấp về soạn thảo dự thảo văn bản luật là việc cấp thiết nên cần phải được tiến hành chặt chẽ. Đội ngũ chuyên gia này có thể là các luật sư, hoặc các cán bộ tư pháp có kinh nghiệm, có trình độ cao về các chuyên ngành, lĩnh vực và am hiểu sâu sắc về luật pháp.

Về mặt vĩ mô thì cần phải nâng tỷ lệ đại biểu chuyên trách của Quốc hội, bảo đảm cho mỗi đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực sự là một chuyên gia của đất nước về một lĩnh vực nào đó và họ chính là những người thẩm định, giúp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua các văn bản quy phạm pháp luật một cách chính xác, khoa học.

Đối với các loại văn bản dưới luật, thì trước khi soạn thảo cần phải rà soát, xây dựng đội ngũ soạn thảo dự thảo sao cho minh bạch và phải thực sự vì công việc, “dĩ công vi thượng”. Tuyệt đối không vì có tình cảm với người này, người kia mà đưa họ vào ban soạn thảo, như vậy dễ dẫn đến những lệch lạc trong khâu soạn thảo.

Việc thông qua các văn bản này phải được thẩm định kỹ càng thông qua các hội đồng được lập ra bởi những người có trách nhiệm, bảo đảm thực hiện đúng quy trình, không làm ngang, làm tắt. Hiện nay có khá nhiều cơ quan, đơn vị không tổ chức các cuộc họp hội đồng thông qua các văn bản quy phạm pháp luật nên đã “xin ý kiến” bằng văn bản đối với từng cá nhân. Vì thế việc góp ý đôi khi cũng không chặt chẽ, dẫn đến việc góp ý chất lượng không cao làm ảnh hưởng đến chất lượng văn bản.  

Văn bản quy phạm pháp luật chuẩn mực, khoa học, cách mạng sẽ là cơ sở để xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ. Ở đó, các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật đều có quyền lợi, nghĩa vụ như nhau.

Văn bản quy phạm pháp luật càng toàn diện, chặt chẽ, minh bạch thì càng hạn chế được sự nhũng nhiễu, ngăn chặn hiện tượng tiêu cực của những người thực thi công vụ, đồng thời thể hiện được tính ưu việt của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, mỗi người khi được giao nhiệm vụ cần phải nêu cao tinh thần “dĩ công vi thượng”, loại bỏ hoàn toàn tư duy, lợi ích cục bộ, thực hiện nhiệm vụ soạn thảo dự thảo văn bản quy phạm pháp luật một cách công minh, chính trực, vì nhân dân, vì sự phát triển của đất nước. Tất cả thành viên trong bộ phận tham gia soạn thảo đều nêu cao tinh thần ấy thì chắc chắn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta sẽ đạt được tính khoa học, phát triển và thực sự có lợi cho quốc gia, dân tộc. 

Chiêu trò đòi "tự trị dân tộc" - sự mơ mộng hão huyền

Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta, hoạt động kích động người dân tộc thiểu số (DTTS) đòi ly khai tự trị dân tộc luôn là một trong những nội dung chủ đạo được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định an ninh chính trị ở các vùng DTTS...

Qua theo dõi có thể thấy, thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn, phương thức để tiến hành hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc chống phá nước ta. Trong đó, chúng tập trung vào một số phương thức, thủ đoạn sau:

Một là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề về nguồn gốc lịch sử tộc người, đất đai, lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo phức tạp, giải quyết các “điểm nóng” tại địa phương; những tác động của mặt trái kinh tế thị trường... để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tìm cách bôi đen cán bộ lãnh đạo để kích động tư tưởng ly khai, dân tộc hẹp hòi, tâm lý mặc cảm, kỳ thị dân tộc và cho rằng, chỉ có thành lập “nhà nước mới, quốc gia mới riêng thì mới giàu có, văn minh, phát triển” để lôi kéo, vận động đồng bào DTTS chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia biểu tình, bạo loạn, phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.  

Hai là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc”, thông qua tôn giáo thâm nhập, gây ảnh hưởng, tập hợp lực lượng là người DTTS, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn. Chúng lợi dụng các tôn giáo ở vùng DTTS hoặc lập ra một số hình thức "tôn giáo riêng" cho người DTTS như: "Tin lành Đề ga" ở Tây Nguyên để hình thành “Nhà nước Đề ga độc lập”; lợi dụng "Tin lành của người Mông" để thành lập “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc; lợi dụng "Phật giáo Nam Tông Khmer" để thành lập “Vương quốc Chăm Pa” ở vùng DTTS Nam Trung Bộ, “Nhà nước Khmer Kampuchea Krom” ở Tây Nam Bộ... Chúng tập trung móc nối, lôi kéo người có uy tín trong đồng bào DTTS, học sinh, sinh viên, thanh niên DTTS, đối tượng cầm đầu, cốt cán các “tà đạo, đạo lạ”, “hiện tượng tôn giáo mới” trong vùng DTTS...

Ba là, núp dưới chiêu bài hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện” của các tổ chức phi chính phủ để lôi kéo, kích động người DTTS, người dân ở vùng sâu, vùng xa chống phá Nhà nước ta. Đây là một thủ đoạn mới hết sức tinh vi mà các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng để tác động, mua chuộc đồng bào DTTS; dùng thần quyền, giáo lý để nắm và khống chế người DTTS, chi phối các địa bàn; qua đó hòng kích động, lôi kéo người DTTS tham gia hoạt động đòi ly khai, tự trị, thành lập “nhà nước riêng”; gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Đặc biệt, thông qua hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện”, kẻ địch còn tìm cách thâm nhập vào các địa bàn chiến lược, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa để thu thập tình hình, cung cấp cho các tổ chức phản động lưu vong bên ngoài báo cáo xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. 

Bốn là, chúng tìm cách đánh tráo và đồng nhất khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các DTTS để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm làm cho một số đồng bào các dân tộc ngộ nhận rằng, “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của riêng các DTTS, từ đó, chúng tìm cách kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc đòi thành lập nhà nước riêng, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc như: “Nhà nước Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chăm Pa” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... Lợi dụng “quyền dân tộc tự quyết” làm điều kiện trong quan hệ ngoại giao với nước ta; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các DTTS ở trong nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.

Năm là, tìm mọi cách để tác động quốc hội các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo... hoặc tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở các vùng DTTS trong nước. Thông qua đó, họ tìm cách vận động các nước, các chính khách, người Việt ở nước ngoài tài trợ vật chất, tiền, phương tiện để tiến hành các hoạt động đòi ly khai, tự trị dân tộc đối với nước ta. Họ còn tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối Nhà nước ta từ bên trong. Bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong như: "Hội người Mông thế giới", "Hội những người miền núi", "Nhà nước Đề ga độc lập"... tăng cường tổ chức biểu tình ủng hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực, quyết liệt hơn. 

Thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những khó khăn trong cuộc sống của đồng bào DTTS để tổ chức truyền đạo trái pháp luật, đội lốt tôn giáo hoạt động chính trị, móc nối xây dựng cơ sở. Đi liền với việc truyền bá các tà đạo, phát triển cái gọi là “hiện tượng tôn giáo mới”; chúng khuyến khích đồng bào các DTTS duy trì tập tục lạc hậu, thiếu khoa học, cổ vũ cho lối sống thực dụng trong thanh niên, thiếu niên, từng bước làm băng hoại đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc. Họ cũng tận dụng thế mạnh các phương tiện thông tin đại chúng trong đó tập trung sử dụng internet, đài phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc; in ấn tài liệu, văn hóa phẩm, đặc biệt là sử dụng phương pháp tuyên truyền miệng, rỉ tai để kích động hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc đối với đồng bào các DTTS ở trong nước.  

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS ở nước ta không ngừng được cải thiện, nâng lên, các quyền cơ bản của đồng bào DTTS ngày càng được bảo đảm. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề dân tộc trong thời gian qua còn có những hạn chế nhất định. Đó là đời sống văn hóa-xã hội của đồng bào DTTS tuy đã có những tiến bộ đáng kể, song mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của người dân còn thấp, vẫn còn một bộ phận đồng bào DTTS có cuộc sống khó khăn. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số vùng DTTS còn yếu; công tác quản lý xã hội còn có sơ hở, chưa sát dân, chưa nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của đồng bào, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới. Công tác nắm tình hình có lúc, có nơi còn yếu, chưa phát hiện kịp thời các vụ việc phức tạp xảy ra, dẫn đến việc giải quyết còn lúng túng, thụ động; chính quyền ở một số địa phương còn sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhất là các chính sách về dân tộc, tôn giáo để các đối tượng và các thế lực bên ngoài lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá ta.

Từ thực tế trên, trong thời gian tới, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc hòng “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Do vậy, công tác phòng ngừa, đấu tranh cần có sự tham gia của cả hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp trên nhiều lĩnh vực xã hội, trong đó, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau đây: 

Một là, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc của các thế lực thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước ta; nâng cao ý thức tự giác của nhân dân trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; tích cực tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động này. Tiếp tục phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng trong công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để chống phá nước ta.  

Hai là, tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo nhằm góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở pháp luật. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân thực sự vững chắc, trong đó, tập trung xây dựng các khu vực phòng thủ “cơ bản, toàn diện, liên hoàn, vững chắc”; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững an ninh trật tự tại địa phương.   

Ba là, không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân; là “cầu nối” giữa Đảng với nhân dân, làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với đồng bào các DTTS ngày càng gắn bó khăng khít. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi ích chung của đất nước; kiên quyết chống tư tưởng kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo.

Bốn là, chủ động nắm chắc tình hình từ sớm, từ xa; ngay từ trung tâm của các tổ chức phản động lưu vong; tập trung đánh giá, dự báo sát tình hình biến động của cục diện thế giới, khu vực; sự điều chỉnh chiến lược, chính sách các nước lớn... để kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động đòi ly khai, tự trị dân tộc của các thế lực thù địch chống phá nước ta. Giải quyết triệt để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu thuẫn, khiếu kiện trong đồng bào DTTS ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn gắn với chế độ đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác dân tộc, tôn giáo ở địa phương.  

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, trong đó có các quyền của đồng bào DTTS. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo đảm quyền của đồng bào DTTS ở nước ta. Qua đó, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia, các chính khách quốc tế và cộng đồng người Việt ở nước ngoài đối với nước ta.