Thứ Tư, 1 tháng 3, 2023

“Không liên minh quân sự” quan điểm, chính sách hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta

 

“Không liên minh quân sự” là quan điểm và chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Song, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn dùng mọi thủ đoạn, chiêu trò để hướng lái dư luận, hòng chống phá quan điểm đó, nhất là trong tình hình hiện nay.

Họ cho rằng “Chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”. Theo họ: Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” là nguy cấp, vì sức mạnh quân sự Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”; vì vậy, Việt Nam cần liên minh quân sự với một nước lớn có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh thì sẽ được hỗ trợ tối đa về mọi mặt để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia. Rồi họ kết luận, chính sách “không liên minh quân sự” chẳng những không giữ được đất nước trước xâm lược, mà cũng không giữ nổi chế độ, nó còn làm Đảng ta “mất cả chì lẫn chài” (ám chỉ Đảng ta sẽ mất cả quyền lãnh đạo). Thậm chí, họ không ngại chỉ ra rằng: “Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ sớm ngày nào thì nguy cơ tiếp tục mất đảo, mất quyền chủ quyền trên Biển Đông cũng như nguy cơ hứng chịu một cuộc chiến tranh trên biển lẫn đất liền bị đẩy lùi sớm ngày ấy” (!?).

Những lý lẽ trên là hoàn toàn không phù hợp với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như thực tiễn cách mạng Việt Nam. Bởi thực tế đã chứng minh: Chủ quyền quốc gia - dân tộc là thiêng liêng và tối cao không thể phó thác cho bên ngoài, dù đó là ai. Trong quan hệ quốc tế hiện nay, các quốc gia đều đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc, nhất là những lợi ích cốt lõi như: độc lập, chủ quyền, chế độ xã hội,… trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi, thì việc các nước giúp nhau bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc không hề đơn giản. Những liên minh “thần thánh” đều là giả tưởng trong đầu óc của những nhà huyễn tưởng, không có chỗ đứng trong thực tiễn chính trị - quân sự sống động, phức tạp và thực dụng hiện nay. Việc một nước nhỏ muốn liên minh quân sự với một cường quốc (nước lớn) nhằm mục đích bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc của mình, vậy lợi ích của cường quốc sẽ là gì trong sự liên minh này? Xưa nay không ai cho không ai bao giờ; cái gì cũng có giá của nó. Cái giá ở đây là nước nhỏ có thể tránh được nguy cơ mất chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc mình trước một mối đe dọa nào đó từ bên ngoài, nhưng trước khi có thể tránh được những nguy cơ đó, thì cái giá phải trả hiện hữu và có thật, đó là: nước nhỏ phải chấp nhận nhượng bộ ít nhiều về chủ quyền hoặc lợi ích quốc gia - dân tộc mình với cường quốc liên minh. Đó là vốn liếng, tài sản “thế chấp” để nhận được những “cam kết” bảo vệ an ninh từ đồng minh. Đó cũng là “luật chơi” không thể khác trong quan hệ quốc tế hiện nay. Ở đây nước nhỏ đã đem lợi ích thực tế để đánh đổi lấy khả năng bảo vệ an ninh. Một khả năng mà khi muốn hiện thực hóa nó bao giờ cũng gắn với những điều kiện “đính kèm” cần và đủ từ phía các đồng minh nước lớn. Đối với mọi quốc gia, lãnh thổ đất nước luôn đóng vai trò là cơ sở vật chất cho sự tồn tại của quốc gia, có giá trị thiêng liêng và bất biến. Đối với Việt Nam, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa,… là lợi ích cốt lõi, tối cao và thiêng liêng, đã biết bao thế hệ hy sinh xương máu để giành được. Vì vậy, vấn đề độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc không thể phó thác cho bất cứ ai, mà phải do người Việt Nam tự quyết định. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán từ trước đến nay theo nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Như vậy, chủ trương không tham gia liên minh quân sự là đúng đắn và phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay khi hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chủ đạo và chủ trương đối ngoại của Việt Nam là đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thực hiện chủ trương này là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

Nhận diện quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân của Đảng

 

Từ khi có Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) của nhân dân ta luôn thu được những thành tựu rực rỡ, tô thắm lịch sử hào hùng của dân tộc, chẳng những được cả thế giới ca ngợi, mà kẻ thù đều phải nể phục. Nhân dân ta không chỉ giành được độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ do cha ông để lại, mà còn xây dựng đất nước giàu mạnh, “chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Nguyên nhân của mọi thắng lợi đó là do có một Đảng Cộng sản Việt Nam chân chính và cách mạng lãnh đạo, với đường lối xây dựng và BVTQ đúng đắn, nhất là đường lối QPTD, chiến tranh nhân dân BVTQ; được hết thảy mọi tầng lớp nhân dân tin tưởng và đi theo, bạn bè quốc tế hết lòng ủng hộ.

Thấy được nguồn gốc tạo nên sức mạnh và thành tựu vĩ đại đó, cay cú với thành quả của đất nước và nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng, các TLTĐ đã tung ra những luận điệu như: Đường lối quốc phòng và chiến tranh nhân dân là “sự khai thác, hoang phí, tận dụng” sức dân cho “lợi ích của Đảng”, nguyên nhân của mâu thuẫn, bất hòa giai cấp, tầng lớp nhân dân, nguồn gốc của chia rẽ dân tộc, chia cắt lãnh thổ, xung đột, chiến tranh hai miền Nam - Bắc trước đây...; đó là đường lối quốc phòng “không phù hợp với Việt Nam”; làm “suy yếu” khả năng quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền, biển đảo; quốc phòng, an ninh là việc riêng của nhà nước, LLVT,  phải “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” quân đội, xây dựng quân đội “chuyên nghiệp”, “nhà nghề”, liên minh quân sự…

Thực chất đó là những lời man trá, tráo trở, “đổi trắng thay đen” lịch sử cách mạng quốc phòng Việt Nam, sự xuyên tạc lịch sử, lật sử, phủ nhận thành tựu QPTD, BVTQ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mục đích của nó: Về tư tưởng, nhằm tạo nên sự nhận thức mơ hồ, sai lệch, thay đổi niềm tin của nhân dân đối với đường lối QPTD của Đảng và sự nghiệp xây dựng nền QPTD của nhân dân ta. Về chính trị, nhằm lợi dụng ý chí, chiếm đoạt sức mạnh chính trị, tinh thần của nhân dân, thiết chế của Nhà nước để phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, thay đổi đường lối QPTD, thiết lập đường lối quốc phòng “chuyên nghiệp”, “hiện đại” - vì lợi ích của giai cấp tư sản, tư nhân, thế lực dân tộc cực đoan, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Về quân sự, sẽ dùng chính sức mạnh quân sự, vũ trang nhân dân để thủ tiêu Đảng Cộng sản và chế độ XHCN, thành quả cách mạng của nhân dân.

Đối tượng tác động chủ yếu của nó là bộ phận người thiếu hiểu biết về nền QPTD, nghĩa vụ, trách nhiệm BVTQ; con cháu người chế độ cũ; thành phần tiêu cực, bất mãn, cơ hội, vi phạm luật pháp…, nhất là bộ phận công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước, người có khả năng đưa ra khuyến nghị, sáng kiến pháp luật về quốc phòng, an ninh… Con đường chủ yếu của nó là tận dụng phương tiện truyền thông, cả truyền thống và hiện đại, nhất là internet, mạng xã hội… để thẩm thấu thông tin sai lạc, nuôi dưỡng tư tưởng, ý chí quốc phòng đối lập; lợi dụng các sự kiện lập pháp, pháp lý, sự cố về quốc phòng, an ninh để kích động tư tưởng, hành động chống đối nghĩa vụ quân sự, trách nhiệm quốc phòng, BVTQ của thanh niên, người dân, doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan nhà nước… Bản chất của các luận điệu đó là âm mưu, thủ đoạn thâm độc của chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực quốc phòng, nhằm hướng lái nền quốc phòng Việt Nam theo tư tưởng, đường lối quốc phòng tư sản; phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, xây dựng LLVT, nhất là với Quân đội nhân dân; triệt tiêu nguồn lực sức mạnh toàn dân BVTQ.

Để làm thất bại những mưu đồ phủ nhận đường lối QPTD của Đảng, mỗi người dân, mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục đẩy mạnh “Phong trào toàn dân BVTQ”, tham gia xây dựng nền QPTD. Cụ thể là nâng cao nhận thức về đường lối QPTD; về nội dung quan trọng là xây dựng nền QPTD vững mạnh toàn diện; Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh tư tưởng, lý luận với đấu tranh hành chính -  pháp lý chống “diễn biến hòa bình”, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quốc phòng. Nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ BVTQ của hệ thống chính trị và toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, xây dựng LLVT nhân dân. Huy động sức mạnh của cả nước và toàn dân xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt xây dựng nền QPTD. Quốc phòng toàn dân vừa là đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, vừa là ý chí, nguyện vọng, hành động chính đáng của nhân dân ta. Đường lối QPTD của Đảng mãi mãi là ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối cho toàn dân ta xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu./. 

Phương châm cơ bản trong giải quyết mối quan hệ đối ngoại vì lợi ích chiến lược của đất nước

 

Tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực đang có sự thay đổi dẫn đến sự điều chỉnh chính sách và quan hệ giữa các nước lớn, tập hợp lực lượng xung quanh các nước lớn và trật tự khu vực đang diễn ra quyết liệt, khó lường. Việt Nam, với vị thế địa - chính trị của mình cũng không thể nằm ngoài vòng xoáy của thay đổi tương quan lực lượng và điều chỉnh chính sách của các nước lớn trong khu vực, đòi hỏi cũng phải có sự điều chỉnh chính sách, nhất là chính sách đối ngoại để thực hiện được mục tiêu bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước theo phương châm: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế: “Thúc đẩy việc tôn trọng, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và phổ quát của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế trong quan hệ quốc tế, nhất là tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị - xã hội, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước... bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, bác bỏ hành vi cường quyền, áp đặt, gây căng thẳng và thù địch trong quan hệ quốc tế”.

Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam cần chủ động tranh thủ, khai thác có hiệu quả những điểm tương đồng, tạo dựng mặt đồng thuận, hạn chế, khắc chế mặt bất đồng với những tác hại đến lợi ích chiến lược của đất nước. Coi trọng và xử lý đúng đắn, linh hoạt, hài hòa quan hệ giữa các nước, nhất là các nước lớn, các nước có chung đường biên giới, các nước láng giềng, các tổ chức khu vực và quốc tế dựa trên vị trí địa chiến lược, lợi ích chiến lược của đất nước. Thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh và phát triển bền vững. Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, các đảng cầm quyền ở các nước và những tổ chức, phong trào tiến bộ khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương trong khu vực và trên thế giới. Chủ động đẩy mạnh hợp tác theo hướng thiện chí, minh bạch, tăng cường xây dựng lòng tin với các đối tác. Trong đó, cần khéo léo, không để hiểu lầm Việt Nam “bắt tay” với nước này chống nước kia, gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc.

Bối cảnh quốc tế, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó đoán định. Do đó, cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo toàn diện tình hình và xu thế phát triển trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, đối ngoại, khoa học - công nghệ, quân sự... của quốc tế, khu vực, các nước lớn, các nước ở Đông Nam Á; thực trạng và xu hướng phát triển mối quan hệ giữa các nước lớn, các nước Đông Nam Á, các nước có nhiều lợi ích liên quan đối với Việt Nam. Nhận diện kịp thời, đúng đắn, thực chất mối quan hệ, sự thỏa thuận hoặc mâu thuẫn, thống nhất giữa các nước lớn với các nước ở khu vực trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực liên quan đến chủ quyền, lợi ích của Việt Nam. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc lớn (chủ nghĩa sô-vanh mới), chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân tộc ly khai và chủ nghĩa dân tộc biệt lập.

Đấu tranh, phê phán các quan điểm sai lầm, phản động trong việc tuyệt đối hóa lợi ích quốc gia - dân tộc mình, xem nhẹ lợi ích của quốc gia - dân tộc khác, lảng tránh những vấn đề toàn cầu, có ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhân loại, như dịch bệnh, đói nghèo, ô nhiễm môi trường và chiến tranh... Kiên quyết, kiên trì trong việc giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biên giới trên bộ, trên biển, đảo bằng giải pháp hòa bình, trên cơ sở hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích giữa các nước, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Trong đó, hợp tác giải quyết tốt các vấn đề về xung đột lợi ích giữa các quốc gia trên biển, nhất là việc giải quyết thỏa đáng vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia ở Biển Đông; kiên trì, kiên quyết bảo vệ các lợi ích chính đáng của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế.

Xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc, kiên quyết thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), kiên trì thông qua đối thoại giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, hạn chế, loại trừ xung đột vũ trang, tạo môi trường và điều kiện tốt nhất để bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước. Kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện chỉ vì lợi ích cục bộ, lợi ích địa phương, lợi ích riêng của doanh nghiệp mình mà làm ảnh hưởng, vi phạm, phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích chiến lược của đất nước trong quá trình hợp tác, quan hệ với nước ngoài. Thường xuyên nâng cao năng lực nghiên cứu dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống./.

TÌM HIỂU VỀ LỢI ÍCH CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

 

Lợi ích là sự phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng lớp, quốc gia, dân tộc...) trong những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Lợi ích của đất nước bao giờ cũng được phản ánh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao...; có các hình thức lợi ích vật thể, lợi ích phi vật thể; lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; lợi ích trong nước và các lợi ích hợp pháp khác ở nước ngoài. Đối với Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc là lợi ích của nhân dân; bảo vệ chủ quyền, lợi ích của đất nước là nội dung cốt lõi, nền tảng, nguyên tắc bất biến để giải quyết mọi vấn đề.

Chiến lược là tổng thể các phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch định để xác định mục tiêu, sắp xếp, quy tụ lực lượng và đề ra giải pháp nhằm đạt một mục đích nhất định bằng con đường có lợi nhất, tạo ra trạng thái phát triển mới của một lĩnh vực (chiến lược chuyên ngành), toàn xã hội (chiến lược quốc gia) hoặc toàn thế giới (chiến lược toàn cầu) trong một thời kỳ nhất định. Chiến lược được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, quân sự, quốc phòng, an ninh, ngoại giao... Việc lựa chọn các mục tiêu chiến lược hiện thực (mục tiêu cơ bản, mục tiêu trung gian, mục tiêu trước mắt), sắp xếp lực lượng chiến lược hợp lý (lực lượng chủ lực, lực lượng hậu bị) và tìm các giải pháp chiến lược khả thi (giải pháp cơ bản, giải pháp tình thế, các chính sách liên quan) là các yếu tố đặc trưng của chiến lược.

Căn cứ vào tầm quan trọng của lợi ích, có thể thấy lợi ích cơ bản của Việt Nam là Tổ quốc độc lập, thống nhất, giàu mạnh, lãnh thổ toàn vẹn (cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo), nhân dân làm chủ để thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc. Lợi ích chiến lược là nội dung cốt lõi trong lợi ích cơ bản của đất nước, nó có hàm nghĩa sâu hơn. Lợi ích chiến lược của đất nước là tổng thể các mục tiêu cơ bản, trước mắt, lâu dài và mang tầm vĩ mô cần đạt được trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - công nghệ, quân sự, quốc phòng, an ninh, ngoại giao... để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ chính trị, bảo đảm quốc gia - dân tộc ngày càng phát triển lớn mạnh, có vị thế quốc tế ngày càng cao. Lợi ích chiến lược của đất nước không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ thuộc chủ quyền của quốc gia - dân tộc, mà còn là những lợi ích chính đáng nằm bên ngoài biên giới, lãnh thổ; là những quyền liên quan đến khả năng sinh tồn và phát triển của đất nước như hòa bình, hợp tác và phát triển; là quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển, trên không, đất liền, trên không gian mạng, dưới lòng đất... được luật pháp quốc tế công nhận. Nội dung tối thượng trong lợi ích chiến lược của đất nước là “giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm các điều kiện cho sự phát triển của quốc gia - dân tộc”; mục tiêu lớn nhất là sự trường tồn và hưng thịnh của đất nước.

Lợi ích chiến lược của đất nước là căn cứ quan trọng để xác định hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện, tiến hành bằng cả sức mạnh vật chất và tinh thần trong quá trình hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược. Bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước là bảo vệ hòa bình, ổn định chính trị - xã hội, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột...; bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển, đất liền, dưới lòng đất, trên không, trên không gian mạng...; bảo vệ cục diện đã được thiết lập, đan cài với các nước, có lợi cho Việt Nam; không đẩy Việt Nam vào trạng thái bị động, bất ngờ, trong thế bị bao vây, cô lập trên trường quốc tế; lấy sự ràng buộc lợi ích giữa Việt Nam với các nước để tạo thế cân bằng chiến lược trong mọi tình huống... Bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước phải dựa vào đấu tranh kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa - xã hội... trong đó, lấy đấu tranh ngoại giao, pháp lý là chủ yếu. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”./.

Ý kiến sai trái tự phơi bày âm mưu đen tối

 

Đêm 12-2-2023, Đoàn cứu hộ, cứu nạn của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm 76 cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đã đến Thổ Nhĩ Kỳ làm nhiệm vụ hỗ trợ nước bạn khắc phục hậu quả thảm họa động đất. Việc tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục thảm họa động đất thể hiện chính sách đối ngoại ưu việt, trách nhiệm cao cả của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Việc làm này cũng khẳng định uy tín, vị thế, tinh thần trách nhiệm và năng lực tác chiến trong thời bình của Quân đội ta trước các vấn đề an ninh phi truyền thống và góp phần thực hiện chính sách đối ngoại quốc phòng vì hòa bình của Việt Nam.

Tuy nhiên, những người thiếu thiện chí, có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và Quân đội ta lại không nghĩ như thế. Họ cho rằng, “tham gia cứu hộ, cứu nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ là việc làm không cần thiết”, “là ôm rơm nặng bụng”. Thậm chí có người còn cho rằng, việc làm đó của Quân đội ta là “khôn chợ, dại nhà”, “việc nhà thì lười nhác, việc chú bác thì siêng năng” (!). Ác ý hơn có người còn cho rằng, “đất nước còn nghèo, nhân dân còn đói khổ, tại sao quân đội lại đem tiền của ra nước ngoài mà không dùng nó để cứu giúp đồng bào ta”, lại “lăng xăng đi cứu người” (!)...

Những luận điệu nêu trên là sai trái, hết sức vô cảm, cần phải lên án, bác bỏ. Nó không những tạo ra tâm lý nghi ngờ, bất an, sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm đối với một bộ phận người dân, nhất là một số thân nhân, gia đình có quân nhân nhận nhiệm vụ đến Thổ Nhĩ Kỳ tham gia cứu hộ, cứu nạn, mà còn bôi đen hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ; xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta; làm phai mờ hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.  

Tỏa sáng tinh thần nghĩa vụ quốc tế cao cả của Quân đội ta

 

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chính phủ, Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã gửi lời chia buồn sâu sắc đến Chính phủ và người dân của hai quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ và Syria về những thiệt hại vô cùng to lớn do thảm họa động đất gây ra, làm hàng chục nghìn người thiệt mạng.

Thấu hiểu, sẻ chia về những tổn thất, đau thương, mất mát to lớn ấy, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định cử đoàn công tác của Quân đội nhân dân Việt Nam sang tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa tại Thổ Nhĩ Kỳ, giúp bạn tìm kiếm các nạn nhân xấu số và cứu chữa những nạn nhân còn sống, đưa họ về trạng thái an toàn; tiếp tục giúp giải quyết, khắc phục hậu quả thảm họa, sớm đem lại cuộc sống bình thường mới cho người dân nơi xảy ra động đất ở đất nước này.

Tham gia đoàn cứu hộ, cứu nạn, giúp bạn là thực hiện mục đích nhân đạo. Trong lịch sử, Quân đội ta đã từng giúp nhân dân Campuchia, nhân dân Lào trong sự nghiệp đấu tranh chống quân xâm lược, giải phóng dân tộc, coi “giúp bạn là tự giúp mình”. Đoàn cứu hộ, cứu nạn, giúp bạn của Quân đội ta là các quân nhân đã được đào tạo cơ bản, có sức khỏe, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ tốt. Trong số đó có nhiều quân nhân từng tham gia cứu hộ, cứu nạn tại hai tỉnh Quảng Trị và Quảng Nam năm 2020 và có mặt tại các tâm điểm phòng, chống dịch Covid-19 năm 2021 ở các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh... Trong đoàn công tác cũng có một số quân nhân từng tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Nam Sudan.

Thiên tai, thảm họa là điều không ai muốn và bất khả kháng. Mất mát về tiền của có thể bù đắp, có thể tạo ra bằng sự quyên góp của cộng đồng nhưng thương vong về con người là vô cùng to lớn, không thể bù đắp được. Việc Quân đội ta tham gia giúp bạn khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa là góp phần làm vơi đi nỗi đau thương, mất mát của một dân tộc, là nghĩa tình bạn bè trong lúc hoạn nạn có nhau, chia bùi sẻ ngọt cùng nhau.

Trong buổi chia tay, tiễn 76 cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp lên đường làm nhiệm vụ quốc tế, lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã biểu dương tinh thần chủ động, tích cực khắc phục khó khăn, thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị có liên quan. Từng thành viên trong đoàn công tác sẵn sàng nhận nhiệm vụ, họ đã rất khẩn trương thu xếp công việc gia đình, cơ quan để lên đường và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, đáp ứng yêu cầu, sự chờ đợi lực lượng của các quốc gia đến cứu hộ, cứu nạn, trong đó có Việt Nam.

Từng trải qua những năm tháng chiến tranh biết bao gian khổ, đau thương, mất mát, hơn ai hết, dân tộc, nhân dân Việt Nam và cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn khát vọng được sống trong hòa bình. Cán bộ, chiến sĩ quân đội mong muốn an tâm công tác, xây dựng đơn vị; không ai muốn rời xa đồng đội, người thân đi đến nơi “đất khách quê người”, đối mặt với gian khổ, hiểm nguy. Thế nhưng, do yêu cầu, nhiệm vụ và thực hiện công việc nhân đạo, họ đã chấp nhận rời xa người thân, tổ ấm gia đình, xa đơn vị, xa đồng chí, đồng đội để lên đường thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả. Trong số các quân nhân sang Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện nhiệm vụ lần này có một quân nhân chỉ ít ngày nữa sẽ xây dựng gia đình, nhưng vẫn xung phong lên đường và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ để làm quà kỷ niệm ngày cưới. Đó là bằng chứng sinh động thể hiện tinh thần cống hiến, hy sinh của Bộ đội Cụ Hồ trong thời bình. Vì việc chung, lợi ích chung nên sẵn sàng gác lại việc riêng, lợi ích riêng - đó là phẩm chất, bản lĩnh của người quân nhân cách mạng đã được giáo dục, nuôi dưỡng, tôi rèn bền bỉ trong môi trường quân đội.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”

 

Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đất nước đổi mới đã chứng minh, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là phương thức vận hành tổng thể của hệ thống chính trị ở nước ta. Cơ chế này là sự vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân trong lịch sử, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới.

Cơ chế này được Đảng ta đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (năm 1982) và xác định rõ tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng. Thực tiễn vận hành cơ chế cho thấy, có những giai đoạn, thời điểm lịch sử và tổ chức trong hệ thống chính trị, việc nhận thức, thực hiện cơ chế vẫn còn những hạn chế nhất định. Và đây chính là một trong những kẽ hở mà các thế lực thù địch lợi dụng khoét sâu, chống phá.

Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII (Nghị quyết số 27-NQ/TW) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, đã chỉ rõ: Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới.

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được luận giải đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Quyền lực Nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và nhân dân chưa nghiêm...

Nhận thức đầy đủ những bất cập, hạn chế trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật để đổi mới, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII xác định: Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa, hoàn thiện, thực hiện tốt cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".

Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của nhân dân. Hoàn thiện cơ chế để phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị... tăng cường và bảo đảm Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình...

Đảng ta nêu rõ quan điểm: Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ... Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân... Tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện...

Chúng ta thấy rõ, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII đã thể hiện tư duy mới, quan điểm mới của Đảng cả về lý luận và thực tiễn trên cơ sở kế thừa thành tựu, khắc phục hạn chế để tiếp tục hoàn thiện, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Những giải pháp, việc làm kịp thời, nhân văn, kiên trì, kiên quyết, không có vùng cấm, bất kể người đó là ai... trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý cán bộ vi phạm của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian gần đây là sự minh chứng rõ ràng đối với hiệu lực, hiệu quả “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Công tác đấu tranh được thực hiện trên tinh thần thượng tôn pháp luật, chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, cụ thể hóa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn.

Những kẻ tung tin xuyên tạc cho rằng “Đảng làm thay Nhà nước” đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn, chủ ý “cắt ngọn” thông tin để lèo lái dư luận theo ý đồ xấu. Cán bộ, đảng viên và công chúng yêu nước cần thống nhất cao về nhận thức, tỉnh táo nhận diện, đấu tranh, vạch rõ âm mưu đen tối của các đối tượng thù địch. Đó cũng là cách để chúng ta góp phần thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, tiếp tục duy trì, phát huy thành quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên tinh thần: “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”...

 

Tiếng gọi từ trái tim, mệnh lệnh của cuộc sống

 

Hơn ai hết, quân nhân mang bộ quân phục màu xanh, đội mũ đeo sao vàng, trên vai, trên ngực áo mang quân hàm tươi màu cờ đỏ và trong trái tim là tình yêu Tổ quốc, hình bóng người thân, gia đình, đơn vị. Họ là Bộ đội Cụ Hồ đi làm nhiệm vụ quốc tế mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ủy thác. Gánh trên vai trách nhiệm thiêng liêng đối với Tổ quốc, niềm vinh dự, tự hào là Bộ đội Cụ Hồ, tấm lòng tận trung với Đảng, trọn hiếu với dân, Đoàn cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp của Quân đội ta tham gia cứu hộ, cứu nạn ở Thổ Nhì Kỳ đại diện cho dân tộc Việt Nam, góp sức mình để lan tỏa tinh thần nhân ái, “thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam để tương trợ, giúp bạn trong lúc khó khăn, hoạn nạn, hiểm nghèo.

Đây là việc làm đầy tính nhân văn, nhân đạo, tất cả vì con người, vì sự tiến bộ xã hội. Chính điều đó góp phần lan tỏa mạnh mẽ chính sách nhân đạo, đoàn kết, vì hòa bình của Đảng, Nhà nước Việt Nam trước cộng đồng quốc tế. Hàng triệu triệu con mắt trên hành tinh đang dõi theo việc làm, trách nhiệm của của họ đối với thể diện quốc gia, hình ảnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Với vai trò đại diện cho đất nước và cho Quân đội nhân dân Việt Nam, cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp của Quân đội ta đang gắng sức khắc phục khó khăn, nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội tin tưởng giao phó. Hơn thế, họ còn có nhiệm vụ tạo ấn tượng tốt đẹp với bạn bè quốc tế và chính quyền, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần giữ vững và phát huy phẩm chất, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong mắt bạn bè quốc tế.

Quân đội ta là Quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, Quân đội ta không có mục đích nào khác. Nếu không phải vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp ấy thì cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đâu dám xả thân hy sinh vì cách mạng; cùng nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân, Quân đội ta đã làm nòng cốt và cùng toàn dân đánh thắng hai thế lực xâm lược cường bạo nhất nhì thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; đồng thời tình nguyện giúp đỡ nhân dân Lào, đặc biệt là giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, hồi sinh và phát triển đất nước. Phát huy tinh thần quốc tế cao cả đó, việc tham gia cứu hộ, cứu nạn, giúp nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ vượt qua hoạn nạn, thảm họa động đất là một hoạt động nhân văn trong các hoạt động “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” của Quân đội ta trong thời bình.

Âm mưu tinh vi, xảo quyệt

 

Khái niệm “xã hội dân sự” (civil society) được hiểu là không gian xã hội công cộng nằm ngoài khu vực nhà nước, thị trường và lĩnh vực riêng tư của cá nhân, bao gồm tổng thể các thiết chế và thể chế xã hội độc lập tương đối với nhà nước và hoạt động tự nguyện trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn giáo, xã hội...

Tuy nhiên, bản thân “xã hội dân sự” cũng tiềm ẩn những rủi ro, nếu không nhận diện đúng, không quản lý đầy đủ sẽ dễ bị lợi dụng, trở thành công cụ chính trị để cho những phần tử cơ hội, phản động gây ra những bất ổn chính trị. Những kẻ cố tình cổ xúy “xã hội dân sự” thực chất là lợi dụng các hội, nhóm, diễn đàn... để phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây áp dụng vào Việt Nam, từng bước chuẩn bị lực lượng để tiến hành các cuộc “cách mạng màu”, chính trị hóa các tổ chức này trở thành lực lượng đối lập, cạnh tranh trực tiếp với vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó thực hiện mục tiêu lật đổ chế độ XHCN bằng biện pháp “bất bạo động”, “phi vũ trang”.

Ý đồ của những đối tượng cổ xúy “xã hội dân sự” nhằm làm suy yếu, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, từ đó loại bỏ vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và hướng lái đất nước Việt Nam đi theo con đường khác, xa lạ, đối nghịch với con đường cách mạng XHCN.

Để đạt được mục tiêu này, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị ra sức tuyên truyền những luận điệu sai trái, thù địch nhằm phủ định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt phủ định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng; đòi tư nhân hóa hoạt động báo chí, xuất bản... Bên cạnh đó, chúng tích cực tuyên truyền, cường điệu hóa vai trò của các tổ chức “xã hội dân sự” là hiện thân của tự do, dân chủ; xuất bản, lưu hành bất hợp pháp các bài viết, tài liệu công khai cổ vũ, đề cao mô hình “xã hội dân sự” kiểu phương Tây; hô hào và tìm cách tác động áp dụng mô hình này vào xã hội Việt Nam để mở rộng diễn đàn dân chủ, phát huy đa nguyên... từng bước hình thành các “phong trào”, “mặt trận” dân chủ, trở thành lực lượng đối trọng, đối lập với Đảng và Nhà nước ta trong tương lai.

Các thế lực thù địch bên ngoài gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho những người bất đồng chính kiến trong nước, những người bất mãn trong một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức, luật sư... hoạt động theo khuynh hướng độc lập, hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” đối lập theo mô hình của phương Tây. Thời gian qua, các tổ chức phản động lưu vong như: “Chính phủ Việt Nam tự do”; “Việt Nam canh tân cách mạng Đảng”; “Đảng nhân dân hành động”; “Đảng dân chủ nhân dân”; “Đảng vì dân”; “Tập hợp dân chủ đa nguyên”; “Hội đồng dân quân cứu quốc”... liên tục chỉ đạo, tài trợ, cung cấp phương tiện cho một số đối tượng chống đối trong nước tiến hành hoạt động chống phá như: Khiếu kiện đông người, vượt cấp, đình công, biểu tình, qua đó tạo thành các điểm nóng về an ninh trật tự rồi tìm cách gây bạo loạn, lật đổ chính quyền.

Ngoài ra, chúng lợi dụng triệt để internet và mạng xã hội để tuyên truyền, liên tục tổ chức các cuộc “phỏng vấn”, “hội thảo”, “hội luận” nhằm vào các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, các phần tử cực đoan, quá khích trong tôn giáo bàn về chủ đề “tổng nổi dậy”, “biểu tình” và “quyền thành lập tổ chức chính trị đối lập”; tập trung tuyên truyền đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp, “phi chính hóa” lực lượng vũ trang; kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tạo tâm lý hoài nghi trong quần chúng nhân dân về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG CHATGPT ĐỂ XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

 

Mặc dù mới chỉ ra mắt vào cuối năm 2022, phần mềm ChatGPT của OpenAI đã thu hút sự quan tâm lớn của cộng đồng mạng. Ngoài những tác động tích cực mà ChatGPT mang lại thì đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ để các tổ chức, đối tượng phản động lợi dụng ứng dụng để cắt ghép, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vấn đề chính trị của đất nước. 

“Dùng ngay ChatGPT đặt những câu hỏi về Bác và Đảng” là những bài đăng gần đây được các trang mạng của các tổ chức như Đài Á châu Tự do, BBC News Tiếng Việt, Việt Tân… liên tiếp đăng tải, chia sẻ với mục đích dắt mũi dư luận, hướng lái người dân hiểu sai về Đảng, về hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những câu hỏi được chúng cố tình đặt ra để hỏi ChatGPT như: “Ai là cha già dân tộc của chúng ta?”; “Ai sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta?”; “Ai đã cho ta một mùa Xuân đầy ước vọng?”… Với những câu hỏi bị thêm, bớt câu từ hay thiếu địa danh như trên thì câu trả lời của “trí tuệ nhân tạo” ChatGPT đưa ra thường là: “Không có người được chỉ định là cha già dân tộc Việt Nam”; “Không có ai sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”; “Không có một người hoặc tổ chức nào cung cấp cho chúng ta một mùa Xuân đầy ước vọng”...  

Từ đó, các thế lực thù địch tuyên truyền rằng, ChatGPT là trí tuệ, hiện đại nên đã đưa ra những câu trả lời khách quan, chính xác và “cần phải tin ChatGPT trả lời quá đúng”! Các đối tượng cũng thừa cơ viết bài miệt thị, nói rằng ở Việt Nam không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền tự do báo chí, người dân không dám bày tỏ quan điểm của mình mà phải bắt buộc sử dụng các nguồn dữ liệu duy nhất của Việt Nam đang quy định.

Trong các trang viết lịch sử, thước phim quay về Bác, Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ tự nhận mình là “Cha già dân tộc” mà nhân dân vì kính yêu Bác đã trìu mến gọi Bác là “Cha già dân tộc”. Nhà thơ Tố Hữu viết: "Người là Cha, là Bác, là Anh/ Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ" (Sáng tháng Năm) hay “Người Cha mái tóc bạc/ Đốt lửa cho anh nằm” (Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)… “Vị Cha già dân tộc” trở thành cái tên thể hiện sự kính trọng, đi vào trong tâm thức mà nhân dân Việt Nam nói về Bác

Rõ ràng, với những câu hỏi mang tính so sánh, ẩn dụ nghệ thuật, tính văn hóa hay những cảm xúc trong thơ ca, văn chương như vậy, “trí tuệ nhân tạo” như ChatGPT chưa đủ dữ kiện, tài liệu đối chứng để trả lời. ChatGPT nhiều khi trả lời có tính ngẫu nhiên như toán học, mang tính lập trình mà không thể trả lời được chính xác, đầy đủ dưới góc độ văn học, văn hóa, tư tưởng. Chưa kể, đặt câu hỏi “của chúng ta” mà không ghi rõ ở đâu thì ChatGPT cũng không “định vị” được là ở nước nào để đảm bảo rằng câu trả lời chuẩn xác nhưng các đối tượng lại dựa vào phần trả lời để áp đặt đó là ChatGPT nói về Việt Nam. Vì thế, nó vẫn không thể thay thế con người trong việc tư duy, sáng tạo và đưa ra những nội dung chính xác,  Điều đáng nói là những bài viết bằng cách đưa ra câu hỏi đáp với ChatGPT dạng này đã lôi kéo các thành phần xấu vào bình luận, chia sẻ, một số tài khoản cá nhân người dùng còn sử dụng những hình ảnh mang tính chất giải trí, đùa cợt mà không nhận thức hành động đó đã tiếp tay cho các thế lực xấu. 

Gần đây tổ chức khủng bố, phản động Việt Tân còn tung ra thông tin thất thiệt, sai trái về thân thế, sự nghiệp để bôi lem, hạ bệ uy tín, hình ảnh của Bác, cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải biết nhiều ngoại ngữ mà Bác chỉ thuộc… 29 chữ cái tiếng Việt, từ đó chúng rêu rao rằng, đây là cách Đảng ta suy diễn “tuyên truyền mị dân” để thần thánh hoá hình tượng của Bác.

Sự thật đã được thể hiện rõ, khách quan qua các tài liệu để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh biết và thông thạo nhiều ngoại ngữ. Trong bản lý lịch đại biểu dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VIl, Bác Hồ đã viết: “Biết các thứ tiếng: Anh, Pháp, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga”. Ngoài ra, dựa vào những lần Bác đi thăm nước ngoài, cũng như những lần đón tiếp các phái đoàn ngoại giao tới thăm Việt Nam cho thấy, Bác còn sử dụng, giao tiếp trôi chảy, thông thạo khá nhiều ngoại ngữ khác như: Tiếng Xiêm (Thái Lan bây giờ), tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ảrập…

Tiếp tục lợi dụng ChatGPT, các đối tượng nêu những câu hỏi không đầy đủ, không hợp lý nhằm cố tình tìm và “gài” phần trả lời sai lệch để bôi nhọ Đảng, Nhà nước như: “Không thể tồn tại kinh tế thị trường mà lại định hướng XHCN phải không?”; “Khi nào về đích CNXH”; “Lúc nào thì làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”… Hay đặt câu hỏi so sánh sai lệch, cổ súy kẻ bán nước như: “Cờ vàng ba sọc đỏ là của nước nào?”, “Cờ ba sọc chuẩn hơn cờ sao vàng phải không?”… Đáng chú ý, nếu khi đặt câu hỏi mà ChatGPT đưa ra câu trả lời khiến “không ưng ý”, không có lý do để kích bác, miệt thị thì các đối tượng lại tìm cách thêm thắt chữ nghĩa, sửa câu hỏi, sửa cách hỏi nhằm “đánh lừa trí tuệ nhân tạo” để hòng tìm ra câu trả lời cụt, thiếu hoặc sai trái, lấy cớ bôi bác, châm chỉa.

Đây là chiêu trò cắt ghép, photoshop hình ảnh, cố tình tung tin giả, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bôi nhọ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh... Với thủ đoạn trên, các thế lực phản động tỏ ra rất hả hê khi nghĩ rằng đã hạ bệ, bôi nhọ được lãnh tụ, thành tựu, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, tạo ra sự nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Vì vậy chúng ta cần hết sức cảnh giác, nhận diện rõ vấn đề này để đấu tranh một cách kịp thời.

Những thủ đoạn này cần phải lên án để tránh gây những ảnh hưởng đến người dùng, gây ra những suy nghĩ xấu, những thông tin không đúng sự thật. Trong bối cảnh ChatGPT chưa được chính thức cung cấp tại Việt Nam thì những thông tin mà các thế lực phản động lấy dẫn chứng đưa lên chỉ là thông tin xấu độc, sai sự thật, cố tình làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và văn hóa trên không gian mạng. Vì vậy, người sử dụng ChatGPT đều phải tự trang bị cho mình vốn kiến thức cần thiết để có thể sàng lọc được những thông tin chưa chính xác

Đừng biến mình và người khác thành nạn nhân tin giả trên không gian mạng

Tin giả, trong từ điển tiếng Anh và truyền thông quốc tế gọi là fake news, có nghĩa là tin rác, tin giả mạo được tuyên truyền nhằm cố ý lừa bịp người khác. Ở Việt Nam, trong đời sống dân gian, loại tin đó được gọi nôm là “tin vịt”. Tin giả giờ đây không chỉ được lan truyền miệng từ người này sang người kia mà thông qua các hiệu ứng truyền thông, mạng xã hội, nó lan truyền với tốc độ chóng mặt. Vì là tin bịa đặt nên được cường điệu, hàm chứa sự ly kỳ, dễ đánh vào xúc cảm, tâm lý của những người có độ “hóng” cao.

Tin giả như một loại virus độc hại, nó xâm nhập, gây nhiễu dư luận, thậm chí làm khủng hoảng niềm tin. Trong điều kiện công nghệ mới, phương thức truyền tin, nhất là mạng xã hội phát triển sâu rộng thì tin giả càng thêm đất sống. Các thế lực xấu lợi dụng điều này để xuyên tạc, kích động chống phá hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Tin giả được tạo dựng, tán phát liên quan đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... gây những hệ quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân, cộng đồng và văn hóa dân tộc cũng như thái độ, suy nghĩ, hành động của người dân. Một trong những hệ quả mà các tin tức giả gây ra là làm suy giảm niềm tin của công chúng vào các cơ quan báo chí, truyền thông, khiến cho công chúng không xác định được đâu là những nguồn tin đáng tin cậy để tiếp nhận. Trong điều kiện các thế lực thù địch, cơ hội, phản động đang triệt để lợi dụng internet để tiến hành chống phá, các tin tức, hình ảnh giả mạo được tung ra muôn hình vạn trạng. Các bằng chứng nghiên cứu khoa học cho thấy, sai lệch niềm tin do tiếp nhận tin giả giống như dịch bệnh lây lan. Khi cá nhân chia sẻ tin giả cũng đồng nghĩa với lây truyền niềm tin độc hại.

Thời gian qua, tình trạng tán phát tin giả, tin sai sự thật trên Internet rất phức tạp. Các đối tượng triệt để lợi dụng các tính năng của mạng xã hội để tuyên truyền, vu cáo, kích động chống Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp, gây rối loạn về thông tin. Thủ đoạn phổ biến là tạo lập các tài khoản cá nhân trên mạng xã hội, mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước, người đứng đầu chính quyền các cấp, mạo danh người nổi tiếng; chỉnh sửa các thông số kỹ thuật của tập tin thời gian để đăng tải tin giả, tin sai sự thật nhằm dẫn dắt dư luận; lợi dụng các sự kiện nóng, các vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội để tạo dựng thông tin giả mạo, đánh lừa dư luận.

Bên cạnh đó, xuất hiện hiện tượng một số đối tượng xấu vì động cơ vụ lợi đã tạo dựng tin giả, tin sai sự thật, tán phát trên mạng xã hội để thu hút người dùng tương tác nhằm thu về lợi ích từ việc bán hàng, ủng hộ, tài trợ bằng tiền, lợi ích vật chất... gây hoang mang dư luận. Họ tung ra tràn lan các video có nội dung nhảm nhí, giật gân trên mạng xã hội nhằm lôi kéo người xem để kiếm tiền. Một số đối tượng tìm mọi cách để gây ảnh hưởng, nổi tiếng trên mạng xã hội, sản xuất video có nội dung phản cảm, thiếu tính giáo dục, giả mạo thông tin, kích động bạo lực, bôi nhọ, nói xấu Đảng, chính quyền. Ví dụ như vụ việc của Trường Quân sự Quân khu 7 đã có thông tin với báo chí song một số cá nhân vẫn lên mạng xã hội cố tình viết bài hướng lái xuyên tạc sự thật, cho rằng vụ việc đã bị bưng bít, cổ suý dư luận “không nên tin báo cáo của nhà trường”.

Trên thực tế, tin giả không chỉ gây tâm lý hiếu kỳ, tò mò của độc giả mà nó còn làm suy yếu các phương tiện truyền thông. Tin giả không chỉ hướng lái sai lệch người đọc, người xem mà nhiều khi còn đánh lừa cả một số phóng viên khiến báo chí cũng trở thành nạn nhân. Tin chưa được kiểm chứng từ cá nhân trên Facebook, Zalo... nhưng có những phóng viên khi sử dụng đã thiếu kiểm chứng, biến thành sản phẩm báo chí, vô tình tiếp tay cho kẻ xấu. Do vậy, để bảo đảm tính kịp thời, hiệu quả trong nhận diện, phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với nạn tin giả, giảm thiểu tác động xã hội của nó, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ, liên thông của các cơ quan chức năng. Cần phải có cơ chế phối hợp chặt chẽ nhưng linh hoạt, vận dụng nghiêm khắc chế tài, luật pháp để xử lý nghiêm mọi cá nhân, tổ chức tung tin giả.


THIẾU KHÁCH QUAN KHI PHỦ NHẬN QUYỀN CHÍNH TRỊ CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM

 

Cứ đến dịp kỷ niệm Ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10) và  Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3), các thế lực thù địch với chế độ XHCN lại tìm cách phê phán quyền của phụ nữ nói chung, quyền chính trị của phụ nữ ở nước ta nói riêng không được bảo đảm. Đó là thái độ thiếu khách quan, nhằm mục đích xấu.

Ngày 15/10/2022, trên trang Việt Nam Thời Báo có bài “Quyền chính trị của phụ nữ Việt Nam” của Hà Nguyên. Bài viết dẫn: “Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đề ra mục tiêu đến năm 2030: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu Ban Thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20-25%”. Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị yêu cầu: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong Ban Thường vụ”. Từ đó, tác giả này đưa ra kết luận: “Như vậy, trong chuyện tỷ lệ này cho thấy quyền chính trị của phụ nữ tham gia chính trường có sự phân biệt, và điều đó nếu nói nặng nề hơn thì đây là chỉ dấu của vi phạm nhân quyền, mà cụ thể là Công ước CEDAW”(!).

Như chúng ta đã biết, CEDAW là tên viết tắt của “Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 18/12/1979. Đến nay, theo Ủy ban CEDAW, đã có 186 quốc gia trên thế giới phê chuẩn hoặc ký kết công ước, chiếm hơn 90% thành viên Liên hợp quốc. Các nước phê chuẩn Công ước này được yêu cầu phải đưa bình đẳng giới vào pháp luật quốc gia, bãi bỏ mọi điều quy định phân biệt đối xử trong các luật của mình và ban hành các quy định mới để bảo vệ chống phân biệt đối xử với phụ nữ.

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký kết tham gia công ước ngày 29/7/1980 và được phê chuẩn vào ngày 27/11/1981. Đồng thời, luôn thực hiện nghiêm những điều ước của CEDAW mà Việt Nam là một thành viên. Cho nên, ở Việt Nam không có chuyện “quyền chính trị của phụ nữ tham gia chính trường có sự phân biệt” và không “vi phạm nhân quyền, mà cụ thể là Công ước CEDAW” như họ cáo buộc.

Với những nỗ lực, tích cực nêu trên, sự tham gia của phụ nữ vào đời sống chính trị đất nước đã có sự tăng lên, số nữ Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng tăng liên tiếp trong 3 nhiệm kỳ; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV tăng 2,3% so với khóa XIII và 1% so với khóa XII. Đặc biệt, lần đầu tiên có Chủ tịch Quốc hội là nữ và có 3 nữ Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII. Tính đến hết năm 2017, tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội đạt 27,1%, cao hơn mức trung bình của toàn cầu (23,4%) và của châu Á (18,6%); năm 2018, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là 27,2%. Tỷ lệ nữ làm Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội tăng lên (năm 2016 là 23,1%, cao hơn 12% so với năm 2011). Tính đến năm 2017, tỷ lệ số bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ là 13/30 (chiếm 43%) và năm 2018 là 14/30, chiếm 47%.

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ XIII, cán bộ nữ tham gia cấp ủy cả 3 cấp đều tăng về số lượng và chất lượng. Cụ thể, ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 21% (tăng 2%) so với nhiệm kỳ trước. Đối với cấp trên cơ sở đạt 17%, cũng tăng 2%. Đối với các Đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16% và tăng 3% so với nhiệm kỳ trước. Điều đáng vui mừng hơn nữa là có hơn 4.200 cán bộ nữ được lựa chọn, giới thiệu và bầu giữ chức vụ cán bộ chủ chốt trong Đảng và chính quyền ở cả 3 cấp.

Thực tiễn trên chứng tỏ quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam được bảo đảm tốt, tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy, chính quyền không chỉ cao hơn của khu vực châu Á, mà còn cao hơn toàn cầu. Thế mà các đối tượng thù địch vẫn cho rằng, Việt Nam vi phạm quyền chính trị của phụ nữ. Đó là thái độ thiếu khách quan nhằm mục đích xấu. Tất nhiên, chúng ta còn tiếp tục phấn đấu để sớm nâng cao hơn nữa tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy, chính quyền các cấp, nhằm rút ngắn khoảng cách và tiến tới nam nữ bình quyền trên mọi lĩnh vực.

Cán bộ, đảng viên trong Quân đội hôm nay cần đề cao trách nhiệm nêu gương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới

Danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” là sự hòa quyện giữa các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam với bản chất cách mạng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, được hình thành, phát triển trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta. Những năm qua, trước sự vận động, phát triển không ngừng của yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, truyền thống vẻ vang của Quân đội, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” đã luôn được giữ gìn, phát huy. Đại đa số cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã tích cực tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững và phát huy những chuẩn mực văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”; nêu cao vai trò, trách nhiệm, nỗ lực cố gắng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin cậy, yêu mến. Để góp phần đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Yêu cầu cấp uỷ, người chỉ huy, chính uỷ, chính trị viên và cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội cần tiếp tục cụ thể hoá, triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các kết luận, quy định của Hội nghị Trung ương 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Trong đó, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới phải được thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực, các nhiệm vụ, các mặt công tác, các mối quan hệ, trong đời sống gắn liền với trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm pháp lý. Thực hiện trách nhiệm nêu gương thể hiện bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu của từng cán bộ, đảng viên trong quân đội. Trọng tâm là trách nhiệm nêu gương về phẩm chất chính trị; về phẩm chất đạo đức, lối sống; trong thực hiện chức trách, nhiêm vụ; về phong cách làm việc, tác phong công tác; trong giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế. Để thực hiện tốt nội dung nêu gương đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi người cán bộ, đảng viên trong LLVT cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng, chỉ đạo của chính ủy, chính trị viên, chỉ huy về đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; Nâng cao nhận thức trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ đảng viên;Thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng, phát hiện, nhân rộng gương điển hình tiên tiến trong đề cao trách nhiệm nêu gương; cần đề cao trách nhiệm tự mình nêu gương, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chỉ huy các cấp trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy các cấp; kịp thời xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy định về trách nhiệm nêu gương và làm tốt công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm./.

Chắp cánh ước mơ tới trường cho trẻ em ở khu vực biên giới

 


Năm 2016, Bộ Tư lệnh BĐBP phát động Chương trình “Nâng bước em tới trường” nhằm giúp đỡ các học sinh từ lớp 1 đến lớp 12 có hoàn cảnh khó khăn, con gia đình chính sách, người có uy tín, dân tộc thiểu số rất ít người... Hằng năm, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị BĐBP với cấp ủy, chính quyền và các nhà trường, các đồn Biên phòng đã trực tiếp hỗ trợ, đỡ đầu gần 3.000 lượt học sinh, với mức 500.000 đồng/em/tháng, đến khi học lớp 12.

Đến nay, BĐBP đã ủng hộ nguồn kinh phí gần 95 tỷ đồng để hỗ trợ, nuôi dưỡng các em. Các em học sinh được BĐBP đỡ đầu thường xuyên tới trường, bám lớp, tiến bộ về học tập, rèn luyện và thể chất. Kết quả, thành tích học tập, rèn luyện của các em được nâng lên rõ rệt, nhiều em đạt giải trong kỳ thi các cấp, đỗ vào các trường đại học, cao đẳng.

Không dừng lại ở đó, nhận thấy ở khu vực biên giới còn nhiều học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không nơi nương tựa, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP tiếp tục phát động, triển khai thêm mô hình “Con nuôi đồn Biên phòng” với quyết tâm mỗi đơn vị nhận nuôi từ 2-3 em. Đến nay, các đồn Biên phòng đang nhận nuôi 359 em, trong đó, 239 em được nuôi tại đồn Biên phòng. Các em học sinh được bảo đảm toàn bộ chi phí nuôi dưỡng, bố trí chỗ ăn, ở, sinh hoạt cho các em phù hợp, chu đáo, có góc học tập riêng, cán bộ trực tiếp kèm cặp, hướng dẫn, giáo dục và chăm sóc.

Chị Trần Thị Nga, khu phố Tài Lộc, phường Trường Sơn, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa là phụ huynh của em Hà Trần Tấn, học sinh Trường Trung học cơ sở Trường Sơn (tỉnh Thanh Hóa) được Đồn Biên phòng Sầm Sơn, BĐBP Thanh Hóa đỡ đầu trong Chương trình “Nâng bước em tới trường-Con nuôi đồn Biên phòng” chia sẻ: “Chồng tôi mất sớm, tôi đau ốm quanh năm, thu nhập thấp. Điều tôi lo lắng nhất là cháu Tấn vì hoàn cảnh gia đình khó khăn sẽ lỡ dở việc học tập. Nhưng may mắn đã đến với gia đình tôi, khi cháu được Đồn Biên phòng Sầm Sơn đỡ đầu trong Chương trình “Nâng bước em tới trường-Con nuôi đồn Biên phòng”.

Hà Trần Tấn là một trong 2 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn được Đồn Biên phòng Sầm Sơn đỡ đầu. Thời gian qua, cán bộ, chiến sĩ đơn vị đã trao học bổng, thường xuyên quan tâm, thăm hỏi, động viên tới các em và gia đình; đồng thời, phối hợp với nhà trường, cử cán bộ kèm cặp, chăm lo việc học tập của các em. May mắn cũng đến với cậu bé Lê Ngọc Thanh, sinh năm 2010, mồ côi cả cha lẫn mẹ khi được Đồn Biên phòng Tuy Hòa, BĐBP Phú Yên đón về đơn vị làm con nuôi, quan tâm, chăm sóc, bảo ban trong tình yêu thương của những người lính. Từ chỗ còn e dè, lạ lẫm, thì giờ đây, Thanh đã trở nên hoạt bát, ngoan ngoãn, sinh hoạt, tác phong như một người chiến sĩ thực thụ.


Sát cánh cùng nhân dân dựng xây biên cương giàu mạnh

 Phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân ở khu vực biên giới, những năm qua, BĐBP luôn tích cực giúp dân phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, với nhiều chương trình thiết thực. Điển hình là Chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương” và “Nâng bước em tới trường - Con nuôi đồn Biên phòng”. Tính hiệu quả và sự lan tỏa của các chương trình trên đã góp phần giúp phụ nữ vùng biên cương vươn lên thoát nghèo, cải thiện cuộc sống; đồng thời, chắp cánh ước mơ tới trường cho nhiều em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn ở khu vực biên giới.

Với tình thương và trách nhiệm của người lính quân hàm xanh, nhiều gia đình phụ nữ, trẻ em ở khu vực biên giới đã được tiếp sức, vượt qua khó khăn, thoát nghèo và hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Các chương trình trên đã góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt giữa BĐBP với nhân dân; xây dựng, củng cố thế trận lòng dân, nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững chắc.

Năm 2018, Bộ Tư lệnh BĐBP và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động Chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”. Đến nay, đã có 110 xã biên giới khó khăn thuộc 26 tỉnh, thành phố biên giới, hải đảo được các đơn vị nhận hỗ trợ, với tổng mức kinh phí huy động trên 280 tỷ đồng. Hưởng ứng Chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Bộ Chỉ huy BĐBP các tỉnh biên giới và các cấp Hội Phụ nữ cơ sở trong BĐBP đã xây dựng nhiều mô hình phát triển kinh tế, hỗ trợ vốn vay, công cụ sản xuất, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật… Các hoạt động trên đều hướng tới phát huy nội lực của phụ nữ ở khu vực biên giới, đồng thời, sát thực tế địa phương và nhu cầu của chị em phụ nữ nơi đây.

Tiêu biểu như mô hình “Nuôi lợn đất tiết kiệm giúp phụ nữ nghèo biên cương” của Hội Phụ nữ cơ sở BĐBP Điện Biên. Thực hiện mô hình này, từ năm 2018, mỗi ngày, cán bộ, hội viên Hội Phụ nữ cơ sở BĐBP Điện Biên tiết kiệm từ 1.000-2.000 đồng. Đồng thời, các chị em còn thu gom chai nhựa, bìa cát tông để bán lấy tiền, vừa bảo vệ môi trường, lại có nguồn quỹ nuôi lợn đất tiết kiệm. Số tiền từ nguồn quỹ nuôi lợn đất này được các cán bộ, hội viên hỗ trợ các gia đình phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn của huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình. Mô hình đã tạo được sự lan tỏa mạnh mẽ, không chỉ trong tập thể hội viên, phụ nữ, mà còn được đông đảo cán bộ, chiến sĩ của cơ quan tích cực hưởng ứng, tham gia và ủng hộ.

Cũng xuất phát từ sự đồng cảm với phụ nữ nghèo ở khu vực biên giới, Hội Phụ nữ cơ sở BĐBP Quảng Ninh đã triển khai mô hình nuôi lợn và gà thương phẩm cho phụ nữ xã đặc biệt khó khăn Vô Ngại, Lục Hồn (huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh). Kết quả, đã có hơn 50 hộ dân được hỗ trợ vốn và con giống với số tiền gần 450 triệu đồng. Hay mô hình “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp và khởi sự kinh doanh” của Hội Phụ nữ cơ sở BĐBP Đắk Lắk được triển khai từ năm 2017, nhằm giúp đỡ những phụ nữ nghèo, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống, phấn đấu làm giàu chính đáng.

Còn rất nhiều phụ nữ ở khu vực biên giới được các đơn vị hỗ trợ, giúp đỡ bằng các mô hình hiệu quả, thiết thực như: Tổ hợp tác sản xuất nấm sạch của tỉnh Quảng Bình; mô hình Tổ liên kết “Phụ nữ dân tộc thiểu số trồng mì cao sản” và “Phụ nữ dân tộc thiểu số nuôi bò sinh sản” của tỉnh Kon Tum; 2 mô hình Tổ hợp tác chăn nuôi lợn lai trắng kinh tế của tỉnh Cao Bằng…

Cùng với đó, qua 5 năm, chương trình cũng hỗ trợ gần 1.000 công trình dân sinh; gần 700 Mái ấm tình thương; trao tặng trên 4.000 suất quà, 4.000 suất học bổng cho học sinh, nữ sinh dân tộc thiểu số nghèo vượt khó; đồng thời, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở khu vực biên giới, góp phần thay đổi diện mạo đời sống, cơ sở vật chất ở khu vực biên giới. Các đơn vị cũng tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ chi, tổ Hội, hội viên nòng cốt các kiến thức, kỹ năng công tác; thành lập các mô hình thu hút phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia hoạt động Hội, hướng dẫn cách thức, phương pháp giám sát chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em; hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho các Hội Phụ nữ cơ sở…

Viết “khúc ca hạnh phúc” nơi cuối trời biên cương


 Với 53 tuổi đời, 33 năm tuổi quân, Trung tá QNCN Lò Văn Phánh (nhân viên đội Vận động quần chúng, Đồn Biên phòng Mường Lèo, Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La) đã dành trọn cả đời binh nghiệp gắn bó với biên giới Mường Lèo - vùng đất xa xôi, khó khăn nhất của huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Với những việc làm thiết thực, người lính Biên phòng ấy đã cụ thể hóa câu châm ngôn “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”.

Nhắc đến Trung tá QNCN Lò Văn Phánh, người dân các bản vùng cao xã Mường Lèo ai ai cũng nghĩ ngay đến một người cán bộ Biên phòng hiền hậu với lối sống gần gũi và luôn hết mình vì nhân dân.

Sinh ra và lớn lên ở trong một gia đình nghèo ở huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, 20 tuổi chàng thanh niên Lò Văn Phánh nhập ngũ vào lực lượng Bộ đội Biên phòng. Tuổi trẻ nhiệt huyết và luôn đồng cảm với người dân nghèo thế nên bất cứ công việc nào chỉ huy giao dù khó khăn, vất vả, anh cũng luôn nỗ lực hoàn thành một cách xuất sắc nhất. Với đặc thù công việc của người cán bộ làm công tác dân vận, anh thường xuyên xuống địa bàn nắm tình hình, tuyên truyền vận động nhân dân, nói sao cho dân nghe, dân hiểu, dân ủng hộ những việc Bộ đội Biên phòng làm. Trên địa bàn chủ yếu là dân tộc Mông, Khơ Mú và anh Phánh đã tự học tiếng của đồng bào, tìm hiểu phong tục tập quán, thực hiện 3 bám 4 cùng với bà con nhân dân. Thấy người cán bộ Biên phòng chịu khó, người dân các bản càng thấy thương và dần dần coi anh như người thân.

Kể về kỷ niệm ngày đầu ra trường về nhận công tác tại Đồn Biên phòng Mường Lèo, anh Phánh chia sẻ: “Ngày mới vào đơn vị tôi được chỉ huy giao lên Tổ công tác Phá Khoang nắm tình hình, vận động nhân dân không di dịch cư tự do. Tổ công tác nằm trên đường tuần tra biên giới, cách đơn vị hơn 60km, chỉ là con đường mòn một bên là núi cao, một bên là vực sâu thăm thẳm, phải đi bộ mất 2 ngày mới tới nơi. Sinh ra ở vùng cao nhưng quả thật nhìn những ngọn núi cao ngút, tôi cũng có chút e ngại. Tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ thoáng qua thôi vì sau đó tôi quyết tâm lên đường…”. Bản xa, đường đi lại lúc ấy chỉ là con đường mòn, người Mông, người Khơ Mú nơi đây còn rất lạc hậu.

“Đến với bà con, chúng tôi phải cầm tay chỉ việc, từ những cái nhỏ nhất như làm chuồng để chăn nuôi gia súc, gia cầm tránh bị thú rừng ăn thịt, làm nhà vệ sinh, ăn chín uống sôi, sinh đẻ có kế hoạch… Tuyên truyền không dễ dàng bởi nhiều cái đã trở thành phong tục, tập quán, thế nhưng chúng tôi vẫn kiên trì rồi làm mẫu. Mưa dầm thấm lâu, rồi thấy sự thay đổi nên dần dần bà con cũng thay đổi và làm theo”- Trung tá QNCN Lò Văn Phánh nhớ lại.


Thương nhớ đảo xanh

Trong nhà đèn Cồn Cỏ, có những người gác đèn biển cô đơn trước thềm sóng. Nhà đèn Cồn Cỏ, hay hải đăng Cồn Cỏ được xây dựng và đưa vào sử dụng năm 2007, với chiều cao toàn bộ 27,2m tính đến mặt đất, chiều cao tầm sáng 76m tính đến mực “O” hải đồ. Hải đăng Cồn Cỏ được ví là “mắt ngọc” giữa trùng khơi, có tác dụng báo vị trí đảo Cồn Cỏ, giúp tàu thuyền hoạt động trong vùng biển Quảng Trị định hướng và xác định vị trí… Hằng ngày, những người canh giữ đèn biển ở đây thay phiên nhau túc trực 24/24 giờ tại trạm, bất kể trời mưa, nắng hay sóng gió bão bùng giữa mênh mông biển khơi.

Ngoài việc luôn lau chùi, bảo quản đèn thường xuyên, những người giữ đèn biển phải thay nhau kiểm tra tổ hợp điện, kiểm tra ắc quy và nạp điện vào bình ắc quy để đảm bảo cho đèn sáng trong mọi điều kiện thời tiết. Để ngọn hải đăng không bao giờ tắt trong mọi hoàn cảnh, tất cả phải làm việc ngày đêm trong môi trường khắc nghiệt, thường xuyên tiếp xúc với ắc quy, a xít và thiết bị máy móc, những vật dẫn điện. Chỉ một chút lơ là, để hệ thống đèn sáng báo tín hiệu xảy ra sự cố thì nguy cơ xảy ra va chạm, tai nạn đối với các tàu là khó tránh khỏi, nhất là vào thời điểm biển động, mùa mưa.

Cùng với đó, cuộc sống của những người lính tại Đồn Biên phòng Cồn Cỏ vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, cam go. Nhưng không vì thế mà các anh lơ là nhiệm vụ dù chỉ một giờ, một phút. Sống trên huyện đảo, không chỉ có nỗi nhớ đất liền, nhớ gia đình, mà các anh còn phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thách thức. Giữa bốn bề sóng biển, việc luôn trữ nước mưa, tự túc lương thực và trồng rau xanh để cải thiện bữa ăn hằng ngày là điều bắt buộc đối với mỗi người lính. Nhớ nhất là lúc sóng to, gió lớn, biển động mạnh, tàu tiếp tế không thể ra đảo được khiến lương thực như thức ăn, gạo, mắm, muối của người dân trên đảo cạn kiệt, những người lính lại chia sẻ, động viên người dân cố gắng bám trụ và hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều đêm tuần tra trên mép sóng, những người lính nhớ nhà ứa nước mắt. Mùa biển lặng, có người ra vào đảo thường xuyên còn đỡ. Khi biển động, sóng lớn, mưa trút nước ầm ầm, nỗi nhớ càng trào dâng. Trong điều kiện thời tiết đó, những người lính vẫn phải thay nhau đi quanh đảo để kiểm tra và hướng mắt ra biển xa để đảm bảo cho an ninh biên giới không bao giờ bị nguy hiểm dù trong bất cứ tình huống nào...

Lúc chia tay, những người lính Biên phòng và cư dân trên đảo ra tiễn chúng tôi bằng những nụ cười và ánh mắt hân hoan, bằng cả những cái bắt tay trìu mến và những lời chúc mộc mạc, giản dị của người dân vùng biển. Tàu chầm chậm rời khỏi đảo, vẫn thấy luyến tiếc vì thời gian không đủ để có thể khám phá hết được những vẻ đẹp còn tiềm ẩn nơi đây. Trong ánh nắng ban mai, Cồn Cỏ nổi lên trên mặt biển đẹp rạng rỡ như nàng tiên cá trên biển, sóng sánh và huy hoàng…

Ông Trương Khắc Trưởng, Phó Chủ tịch UBND huyện cho biết: Huyện đảo Cồn Cỏ liên tục huy động mọi nguồn lực để phát triển ngành du lịch để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, hướng tới phát triển du lịch xanh và bền vững. Cùng với đó, từng bước tuyên truyền để thay đổi nhận thức của nhân dân, các hộ gia đình kinh doanh du lịch đối với việc phát triển du lịch gắn với hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường biển, bảo tồn đa dạng sinh học, hạn chế sử dụng túi nilon và đồ nhựa dùng một lần, tiết kiệm điện, nước, thực hiện ứng xử văn hóa, văn minh trong hoạt động du lịch, hướng tới mỗi người dân là một đại sứ du lịch Cồn Cỏ.

Chuyện về những người giữ đảo tiền tiêu


Giữa mênh mông biển bạc, hòn đảo tiền tiêu vẫn vững chãi giữa những sóng gió và sự khắc nghiệt của thiên nhiên để trở thành một địa điểm du lịch lý tưởng đối với du khách. Và những người giữ đảo đã và đang nỗ lực ngày đêm giữ gìn, bảo vệ để cho hòn đảo thêm đáng sống hơn.

Chiều cuối năm, những con sóng cao đánh dồn dập vào những bãi đá bờ Đông đảo Cồn Cỏ khiến con tàu đưa người và hàng hóa ra đảo chật vật để neo vào cầu tàu. Những người lính của Trạm Biên phòng Cồn Cỏ rất nhanh đã có mặt để neo thuyền, đưa từng người già và trẻ em cùng lượng lớn hàng hóa lên bờ. Những con sóng hòa cùng với chiều gió bấc khiến tiết trời càng trở lên lạnh hơn, nhưng ai cũng thấy ấm lòng vì được sự đón tiếp của người dân xứ đảo và những người lính Biên phòng.

Ở đây, khí hậu phân chia thành hai mùa rõ rệt, đó là mùa khô và mùa mưa. Về mùa khô, khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, kéo dài, toàn bộ cây cối, rau xanh ở trên đảo đều bị cháy khô, chỉ còn lại màu xanh của cây phong ba, bàng vuông. Mùa mưa thì càng khó khăn hơn, khi những đợt gió mùa Đông Bắc kéo dài, tàu cung ứng lương thực, thực phẩm không ra được. Một người đàn ông trên đảo hồ hởi khoe: “Các anh thấy hòn đảo của chúng tôi có đẹp không? Có đáng được gọi là thiên đường du lịch không?”. Thấy tôi gật gù, ông ra chiều rất đắc ý. Ông cho biết, nghề chính trên đảo chỉ là đi biển và làm du lịch. Chuyện làm du lịch thì chúng tôi đã thấy. Còn chuyện đi biển thì sao?! Ông gật gù: “Ở đảo mà không đi biển thì đâu phải là dân đảo! Ở đây phần lớn là những người theo nghiệp biển, có người tới 4-5 đời rồi, các anh ạ! Biển với chúng tôi là một mà!”.

Vào mùa cao điểm du lịch hè, Cồn Cỏ đón lượng lớn du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng; đặc biệt vào dịp cuối tuần, các điểm du lịch, nhà nghỉ homestay luôn trong tình trạng kín chỗ. Theo thống kê, trong năm 2022, đảo Cồn Cỏ đón hơn 8.000 lượt khách. Tổng doanh thu các hoạt động du lịch trên địa bàn huyện đảo ước đạt gần 10 tỷ đồng. Dân số ít và dịch vụ trên đảo còn ít nên việc đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng dịch vụ luôn được quan tâm.

Hiện nay, trên địa bàn huyện đảo có 4 nhà nghỉ, với tổng cộng 48 phòng và 5 dịch vụ homestay của các hộ gia đình, ngoài ra, có 2 tàu phục vụ đi lại tuyến du lịch Cửa Việt - Cồn Cỏ (tàu Conco Toutist với sức chở 80 khách, tàu Chính Nghĩa 02 với sức chở 156 khách). Có 5 hộ gia đình kinh doanh dịch vụ ăn uống, giải trí đảm bảo phục vụ cho 500 khách cùng lúc với những món ăn đặc trưng của đảo như hàu, ốc, rong nho, mực, cá các loại… với các loại hình dịch vụ hỗ trợ du lịch như cho thuê tàu đi quanh đảo câu cá, lặn ngắm san hô, cho thuê võng, lều bạt, các dịch vụ thể thao tại đảo… cũng được triển khai.

Đêm đảo nhỏ yên bình, chỉ có những tiếng sóng vỗ dạt dào vào các ghềnh đá như tiếng ru của biển tự ngàn xưa. Đảo thu mình lại trong giấc ngủ sau một ngày chào đón khách, chỉ còn có mắt biển trên đảo vẫn chớp nháy những luồng sáng ra xa để hướng dẫn tàu thuyền. Xa xa, ánh sáng của những chiếc thuyền câu mực ban đêm lóng lánh như những đàn đom đóm lập lòe giữa đêm biển đen đặc. Đứng giữa đất trời và biển cả mênh mông như thế, mới thấy đất nước mình đẹp vô cùng.