Cứ đến dịp kỷ niệm
Ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10) và Ngày Quốc
tế Phụ nữ (8/3), các thế lực thù địch với chế độ XHCN lại tìm cách phê phán quyền
của phụ nữ nói chung, quyền chính trị của phụ nữ ở nước ta nói riêng không được
bảo đảm. Đó là thái độ thiếu khách quan, nhằm mục đích xấu.
Ngày 15/10/2022, trên trang Việt Nam Thời Báo
có bài “Quyền chính trị của phụ nữ Việt Nam” của Hà Nguyên. Bài viết dẫn: “Nghị
quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đề ra mục tiêu đến năm
2030: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu Ban Thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các
cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20-25%”. Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày
30/5/2019 của Bộ Chính trị yêu cầu: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15%
trở lên và có cán bộ nữ trong Ban Thường vụ”. Từ đó, tác giả này đưa ra kết luận:
“Như vậy, trong chuyện tỷ lệ này cho thấy quyền chính trị của phụ nữ tham gia
chính trường có sự phân biệt, và điều đó nếu nói nặng nề hơn thì đây là chỉ dấu
của vi phạm nhân quyền, mà cụ thể là Công ước CEDAW”(!).
Như chúng ta đã biết, CEDAW là tên viết tắt của
“Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ” đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 18/12/1979. Đến
nay, theo Ủy ban CEDAW, đã có 186 quốc gia trên thế giới phê chuẩn hoặc ký kết
công ước, chiếm hơn 90% thành viên Liên hợp quốc. Các nước phê chuẩn Công ước
này được yêu cầu phải đưa bình đẳng giới vào pháp luật quốc gia, bãi bỏ mọi điều
quy định phân biệt đối xử trong các luật của mình và ban hành các quy định mới
để bảo vệ chống phân biệt đối xử với phụ nữ.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên
trên thế giới ký kết tham gia công ước ngày 29/7/1980 và được phê chuẩn vào
ngày 27/11/1981. Đồng thời, luôn thực hiện nghiêm những điều ước của CEDAW mà
Việt Nam là một thành viên. Cho nên, ở Việt Nam không có chuyện “quyền chính trị
của phụ nữ tham gia chính trường có sự phân biệt” và không “vi phạm nhân quyền,
mà cụ thể là Công ước CEDAW” như họ cáo buộc.
Với những nỗ lực, tích cực nêu trên, sự
tham gia của phụ nữ vào đời sống chính trị đất nước đã có sự tăng lên, số nữ Ủy
viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng tăng liên tiếp trong 3 nhiệm kỳ;
tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV tăng 2,3% so với khóa XIII và 1% so với
khóa XII. Đặc biệt, lần đầu tiên có Chủ tịch Quốc hội là nữ và có 3 nữ Ủy viên
Bộ Chính trị khóa XII. Tính đến hết năm 2017, tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội đạt
27,1%, cao hơn mức trung bình của toàn cầu (23,4%) và của châu Á (18,6%); năm
2018, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là 27,2%. Tỷ lệ nữ làm Chủ nhiệm Ủy ban của
Quốc hội tăng lên (năm 2016 là 23,1%, cao hơn 12% so với năm 2011). Tính đến
năm 2017, tỷ lệ số bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo
chủ chốt là nữ là 13/30 (chiếm 43%) và năm 2018 là 14/30, chiếm 47%.
Đặc biệt, trong nhiệm kỳ XIII, cán bộ nữ
tham gia cấp ủy cả 3 cấp đều tăng về số lượng và chất lượng. Cụ thể, ở cấp cơ
sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 21% (tăng 2%) so với nhiệm kỳ trước. Đối với cấp
trên cơ sở đạt 17%, cũng tăng 2%. Đối với các Đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ
lệ nữ đạt 16% và tăng 3% so với nhiệm kỳ trước. Điều đáng vui mừng hơn nữa là
có hơn 4.200 cán bộ nữ được lựa chọn, giới thiệu và bầu giữ chức vụ cán bộ chủ
chốt trong Đảng và chính quyền ở cả 3 cấp.
Thực tiễn trên chứng tỏ quyền chính trị của phụ
nữ ở Việt Nam được bảo đảm tốt, tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy, chính quyền không
chỉ cao hơn của khu vực châu Á, mà còn cao hơn toàn cầu. Thế mà các đối tượng
thù địch vẫn cho rằng, Việt Nam vi phạm quyền chính trị của phụ nữ. Đó là thái
độ thiếu khách quan nhằm mục đích xấu. Tất nhiên, chúng ta còn tiếp tục phấn đấu
để sớm nâng cao hơn nữa tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy, chính quyền các cấp, nhằm
rút ngắn khoảng cách và tiến tới nam nữ bình quyền trên mọi lĩnh vực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét