Thứ Hai, 1 tháng 1, 2024

     Trong tháng 12/2023, thành phố Hà Nội tiếp tục thu hút được 255,5 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong đó có 27 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 81,9 triệu USD; 18 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 37 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần 24 lượt, đạt 136,6 triệu USD.

0:00/0:00
0:00

    Tính chung cả năm 2023, Hà Nội đã thu hút 2.943 triệu USD vốn FDI (trong đó một lượt giao dịch của nhà đầu tư Nhật Bản Sumitomo mua cổ phiếu của VPBank trên sàn giao dịch chứng khoán với giá trị giao dịch đạt 1.500 triệu USD), tăng 70,5% so với năm trước. Nhờ kết quả này, Hà Nội là một trong năm địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút FDI.

Năm 2023, Hà Nội có 31.400 doanh nghiệp đăng ký thành lập mớiT

    Trong tháng 12/2023, thành phố Hà Nội có 2.300 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung cả năm 2023, Hà Nội có 31.400 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 6,3% so với năm trước; vốn đăng ký đạt 346,6 nghìn tỷ đồng, tăng 5% và hơn 8.900 doanh nghiệp hoạt động trở lại. Bên cạnh đó cũng có 21.700 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 33% so với năm 2022; thực hiện thủ tục giải thể cho 3.500 doanh nghiệp. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng tiếp tục được duy trì 100%, bảo đảm chất lượng và đúng hạn.

Đẩy mạnh giải quyết việc làm cho người lao động

    Theo Cục Thống kê Hà Nội, thị trường lao động việc làm trên địa bàn năm 2023 có chuyển biến tích cực. Số lao động được giải quyết việc làm năm 2023 tăng 5,6% so với năm trước. Thành phố tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ, phát triển thị trường lao động theo hướng hiện đại, bền vững và hội nhập. Theo kết quả sơ bộ điều tra lao động việc làm năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp toàn thành phố là 2,01%, giảm 0,22 điểm % so với năm trước. Thành phố đã giải quyết việc làm cho 214.300 lao động. Trong đó, ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội cho đối tượng nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn vay với số tiền là 2.239 tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho 40.300 lao động; đưa 5.200 người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng (chủ yếu tại thị trường Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc).

Xử phạt 29 điểm trông giữ xe vi phạm

    Từ đêm 31/12/2023 tới rạng sáng 1/1/2024, lực lượng chức năng thuộc Công an quận Hoàn Kiếm đã lập biên bản, xử phạt 29 điểm trông giữ xe vi phạm chung quanh khu vực tổ chức lễ hội countdown (đếm ngược chào năm mới) và khu vực phụ cận hồ Hoàn Kiếm. Trong đó, các lỗi chủ yếu là trông xe không phép, trông xe quá diện tích, vị trí so với giấy phép và thu không đúng mức giá quy định. Đối với cơ sở trông giữ xe không phép, mức phạt là 2,5 triệu đồng. Các điểm trông giữ xe không đúng với giấy phép bị phạt tương ứng với diện tích không phép bị chiếm dụng, mức phạt trung bình từ 2,5-7,5 triệu đồng. Nhiều trường hợp thu phí trông giữ xe gấp nhiều lần so với quy định đã bị lực lượng Công an quận phát hiện, mức phạt đối với hành vi này là 7,5 triệu đồng.

Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số

     Nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, nhiều năm qua, Việt Nam đã quan tâm xây dựng và ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn, trong đó chú trọng quyền tiếp cận thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho người dân bằng những giải pháp đồng bộ, những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trên thực tế đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần phát huy, thúc đẩy vai trò của người dân, trong đó có cả các đồng bào dân tộc thiểu số trong các hoạt động xã hội và phát triển đất nước.

0:00/0:00
0:00
Tuyên truyền pháp luật tới đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Mường Nhé (Điện Biên).
Tuyên truyền pháp luật tới đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Mường Nhé (Điện Biên).

    Quyền tiếp cận thông tin là một trong các quyền cơ bản, quan trọng của con người, được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin được quy định tại Điều 25, Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Cụ thể hóa Hiến pháp, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 (Luật số 104/2016/QH13, ngày 6/4/2013) cũng quy định nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân; trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc công khai thông tin, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.

    Về mặt chính sách, Quyết định số 467/QĐ-TTg được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 25/4/2019 đã đưa ra các chính sách hỗ trợ cụ thể như: Hỗ trợ đào tạo kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thông tin và truyền thông tại cơ sở; cấp (không thu tiền) một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn; cung cấp các sản phẩm thông tin có tính chất chuyên biệt, có đối tượng phục vụ tập trung là người dân tộc thiểu số như: Hệ phát thanh Tiếng Dân tộc (VOV4) của Đài Tiếng nói Việt Nam, Kênh truyền hình Tiếng Dân tộc (VTV5) của Đài Truyền hình Việt Nam...

    Hiện trên kênh VTV5 Đài Truyền hình Việt Nam đang thực hiện phát sóng 26 thứ tiếng (bao gồm cả tiếng Kinh) trên các nền tảng khác nhau (bao gồm cả truyền hình theo phương thức truyền thống, ứng dụng VTVgo, website VTV5, kênh YouTube, trên Facebook...). Song song đó Đài Tiếng nói Việt Nam cũng phát sóng 13 thứ tiếng trên hệ Phát thanh Tiếng Dân tộc.

    Ngoài ra, để tăng cường khả năng tiếp cận thông tin cho đồng bào, nhiều chương trình, đề án, dự án có liên quan đã và đang được triển khai tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Thông qua những chương trình này cho thấy Đảng, Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác thông tin, truyền thông, giúp nâng cao nhận thức cho đồng bào, góp phần phát triển bền vững và thực hiện có hiệu quả quyền tiếp cận thông tin của người dân vùng dân tộc thiểu số.

    Cùng với đó, kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở gần đây nhất (năm 2019) cũng cho thấy, cơ hội tiếp cận thông tin của đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta ngày càng được mở rộng, với tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số sử dụng internet đạt 61,3%, tăng hơn 9 lần so với năm 2015.

    Tại một số tỉnh miền núi, cơ sở hạ tầng viễn thông di động và internet băng rộng đã phủ đến hầu hết các thôn, bản, đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ với hơn 99% địa bàn dân cư như Phú Thọ, Hòa Bình, Kon Tum, Tuyên Quang,... Sự cải thiện về cơ sở hạ tầng viễn thông, tỷ lệ hộ sử dụng internet cho thấy cơ hội tiếp cận thông tin của các hộ dân tộc thiểu số đã được mở rộng. Những nỗ lực và thành quả Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước bảo đảm sự công bằng, bảo đảm quyền công dân, quyền con người; tạo cơ chế để mọi người dân, trong đó có người dân tộc thiểu số thực hiện đầy đủ quyền dân chủ và phát huy hiệu quả; khẳng định những nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo đảm các quyền cho người dân tộc thiểu số, trong đó có quyền tiếp cận thông tin, đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) vào năm 1982.

    Tuy nhiên, do một số lý do chủ quan và khách quan, việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn những bất cập. Việc cung cấp thông tin về luật pháp, chính sách và các vấn đề xã hội như các chương trình cho vay, khuyến nông,... có lúc, có nơi vẫn chưa cung cấp kịp thời, chính xác và thường xuyên tới bà con.

    Một số thông tin dù được cung cấp mới song hạn chế về hình thức truyền tải cho nên hiệu quả chưa cao. Một thực trạng khác là dù đã có kênh thông tin truyền thông phục vụ bà con dân tộc thiểu số nhưng vẫn còn tình trạng khi được hỏi vẫn còn người cho biết là mình chưa (hoặc ít) tiếp cận thông tin từ những kênh này. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn bị hạn chế...

    Lợi dụng những hạn chế này, các đối tượng thù địch, chống phá ra sức xuyên tạc, bóp méo chính sách của Đảng, Nhà nước với người dân tộc thiểu số. Chúng kích động, gây chia rẽ bằng những luận điệu cho rằng người dân tộc thiểu số không được hưởng đầy đủ các chính sách bảo đảm quyền tự do tiếp cận thông tin, tự do ngôn luận của Nhà nước, bị phân biệt đối xử so với người dân tộc Kinh, từ đó nhằm mục đích gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm xói mòn niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước.

    Trong khi đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin 2016 quy định rõ: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Như vậy người dân tộc thiểu số ở Việt Nam có quyền tiếp cận thông tin đầy đủ giống như quyền tiếp cận thông tin của các công dân khác, hoàn toàn không có sự phân biệt đối xử như các đối tượng xấu rêu rao.

    Trước yêu cầu của tình hình mới cho thấy vai trò của thông tin tuyên truyền việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin nhất là đối với người dân tộc thiểu số tại nước ta ngày càng trở nên cấp thiết. Một mặt, việc được bảo đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ giúp mọi người dân có cơ hội bình đẳng như nhau trong việc tìm kiếm các nguồn thông tin trong xã hội. Đây chính là cơ sở để thực hiện quyền dân chủ, văn minh trong xã hội. Khi được tiếp cận đầy đủ các nguồn thông tin, đồng bào có thể từng bước cải thiện cuộc sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân và gia đình, chủ động hơn trong việc tham gia các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng, phát triển đất nước.

    Ở một bình diện khác, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chiếm 3/4 diện tích cả nước, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nếu nhận thức của một bộ phận người dân tộc thiểu số chưa cao sẽ nguy cơ dễ bị kẻ xấu lợi dụng, kích động, tuyên truyền sai lệch chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Vì vậy, việc cung cấp các thông tin chính thống kịp thời, cụ thể không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận công bằng của đồng bào mà còn góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia.

    Để quyền tiếp cận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường và thực hiện hiệu quả hơn trong thời gian tới cần đẩy mạnh nhiều giải pháp đồng bộ. Theo đó, song song với việc hoàn thiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin phù hợp hơn với thực tiễn, tăng cường cơ sở hạ tầng viễn thông, trang thiết bị công nghệ thông tin, các cấp chính quyền cần chủ động công khai thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực một cách chính xác, kịp thời, thường xuyên.

    Tránh hiện tượng thông tin chính xác đến bà con chậm hơn những thông tin sai lệch của các đối tượng xấu. Đồng thời, các cơ quan quản lý nhà nước cần có cơ chế đánh giá và giám sát nghiêm túc việc thực thi quyền tiếp cận thông tin, hạn chế việc một số cơ quan, đơn vị chức năng từ chối việc cung cấp thông tin hoặc cung cấp không kịp thời; bảo đảm cơ chế thực hiện cho các cấp chính quyền, nhân dân tham gia tích cực vào thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin, coi đó không chỉ là nghĩa vụ mà còn là hành động bảo vệ lợi ích của các cá nhân trong xã hội. Quan trọng hơn, cần nâng cao nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số về vai trò của thông tin và quyền tiếp cận thông tin; tăng tỷ lệ người tiếp cận các nguồn thông tin tin cậy trên các kênh chính thống của Đảng và Nhà nước.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 02 THÁNG 01 NĂM 1967!

         “Có anh hùng là vì có tập thể anh hùng. Có tập thể anh hùng là vì có nhân dân anh hùng, dân tộc anh hùng, Đảng anh hùng”!
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Phát biểu tại buổi tiếp đại biểu các đơn vị anh hùng và chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước ngày 2-1-1967: “…Có anh hùng là vì có tập thể anh hùng. Có tập thể anh hùng là vì có nhân dân anh hùng, dân tộc anh hùng, Đảng anh hùng”, đăng trên Báo Nhân dân, số 4660, ngày 10-1-1967, trong bối cảnh nhân dân trên hai miền Nam, Bắc phát huy tinh thần yêu nước, không sợ hy sinh, gian khổ, đang gắng sức thi đua xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. 
Trong lời phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận, tôn vinh những cá nhân, tập thể đã cống hiến, hy sinh xương máu vì sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong suốt mấy chục năm; động viên, huấn thị mọi người, mọi tập thể hãy cố gắng hơn nữa, thi đua sản xuất, công tác và chiến đấu, lập nhiều thành tích to lớn, góp phần cùng toàn dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.
Lời phát biểu năm ấy của Hồ Chí Minh đã lan tỏa tới quốc dân đồng bào, thâm nhập sâu vào quân đội, trở thành động lực thúc đẩy mọi cán bộ, chiến sĩ hăng hái thi đua học tập, công tác, huấn luyện, chiến đấu, lập nên nhiều chiến công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Đến hôm nay, lời phát biểu năm xưa của Người vẫn tỏa hào khí mạnh liệt, đang được mọi cán bộ, chiến sĩ toàn quân khắc ghi, đoàn kết thi đua, nỗ lực thực hiện thắng lợi Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ"; xây dựng và nhân rộng nhiều tập thể, cá nhân Anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới và tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến; quan tâm tạo điều kiện để các tập thể, cá nhân anh hùng, điển hình tiên tiến tiếp tục phát huy thành tích cao hơn nữa; phát động, khuyến khích, cổ vũ động viên cán bộ, chiến sĩ toàn quân tích cực học tập, làm theo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BÁC HỒ ĐÃ "CÂN BẰNG HOÀN HẢO" MỐI QUAN HỆ GIỮA LIÊN XÔ VÀ TRUNG QUỐC NHƯ THẾ NÀO?

     Năm 1961, đoàn đại biểu quân sự Trung Quốc do Nguyên soái Diệp Kiếm Anh dẫn đầu sang thăm hữu nghị nước ta nhằm bàn về vấn đề hỗ trợ Việt Nam kháng chiến và “thăm dò” về vấn đề Liên Xô. Lúc ấy, phía Trung Quốc mang theo một người phiên dịch nói tiếng phổ thông để dịch lại lời nói của Diệp Kiếm Anh vốn là người Quảng Đông. Nhưng, Bác Hồ nhanh chóng cất lời bằng tiếng Quảng Đông: “Ai da, chúng ta là người nhà quê với nhau” bằng tiếng Quảng Đông và khiến người phiên dịch của phía Trung Quốc ngỡ ngàng. Diệp Kiếm Anh ra hiệu cho phiên dịch lui về phía sau và đáp lại bằng tiếng Quảng Đông với một tâm thế rất hào hứng.

Câu nói “chúng ta là người nhà quê với nhau” được Diệp Kiếm Anh đánh giá rất cao vì nó mang nhiều hàm nghĩa đặc biệt. Đầu tiên, đó là việc nhắc rằng “những người cộng sản là anh em”, xuất thân đơn giản ở tầng lớp công - nông và luôn hỗ trợ cho sự nghiệp của nhau. Thứ hai, câu này mang hàm nghĩa nhắc lại việc Đảng Cộng sản Việt Nam được cấu thành ban đầu ở những địa điểm thuộc tỉnh Quảng Đông và như là một sự gợi nhớ tri ân không quên những ngày đầu. Thứ ba, đó là việc Bác có thời gian hoạt động ở Quảng Đông và Bác coi Quảng Đông như là một nơi quê quán giống như Diệp Kiếm Anh.

Một câu chuyện khác, hồi năm 1956, Bác tiếp Thủ tướng Chu Ân Lai và chủ động nhận Chu Ân Lai là người anh trai, đáp lại, Chu Ân Lai nhận Bác là “người anh cả chỉ đường dẫn lối”. Rõ ràng, “anh trai” chưa chắc đã là “anh cả”, “anh cả” ở một vị thế cao hơn. Chính việc chủ động nhún nhường của Bác trong khi Bác nhiều tuổi hơn khiến cho Thủ tướng Chu Ân Lai cảm giác rất thịnh tình.

Chính Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh là hai trong số những lãnh đạo Trung Quốc rất thiện cảm với Chủ tịch Hồ Chí Minh và đóng góp rất lớn vào việc Trung Quốc cung cấp viện trợ, hỗ trợ cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.

Những năm 1940 - 1950, Việt Nam là một nước bé, không có tiếng tăm trên thế giới, Bác Hồ gửi thư cho Stalin nhiều lần nhưng không được hồi đáp. Tháng 01/1950, Bác dựa vào quan hệ với Mao Trạch Đông đánh tiếng đến Stalin về việc sẽ cùng với Mao Trạch Đông đến Liên Xô để thông báo về cách mạng Việt Nam. Sau đó, Bác khéo léo ngoại giao đề nghị Liên Xô hỗ trợ cách mạng Việt Nam như hỗ trợ cách mạng Trung Quốc và thiết lập quan hệ ngoại giao… Một nước Việt Nam nhỏ bé đã được cả hai quốc gia cùng giúp đỡ là như thế.

Những năm 1950 - 1960, Bác Hồ đã thi hành chính sách ngoại giao cân bằng. Phái đoàn Việt Nam đi thăm Trung Quốc thì đồng thời báo cho phía Liên Xô và ngược lại. Bác luôn tránh việc đưa ra quan điểm về các vấn đề nội bộ của Trung Quốc và Liên Xô. Bên cạnh đó còn ngăn được tư tưởng xét lại như Liên Xô hay việc đấu đá quyền lực như tại Trung Quốc. Năm 1959, tại Bắc Kinh, Bác còn làm phiên dịch viên cho Mao Trạch Đông và Nikita Khrushchev, đó là một cuộc phiên dịch căng thẳng vì vào thời điểm đó hai quốc gia có những rạn nứt nhất định. Đứng ở giữa, Bác phải điều dẫn và phiên dịch sao cho khéo léo, tránh leo thang căng thẳng và cũng giữ được sự cân bằng. Dĩ nhiên là Bác đã làm hoàn hảo.

Năm 1960, hội nghị các Đảng Cộng sản diễn ra đúng lúc Liên Xô và Trung Quốc mâu thuẫn. Sợ rằng việc này sẽ khiến cho “buổi bình minh” của cuộc kháng chiến của Việt Nam bị ảnh hưởng, Bác có bài phát biểu tôn vinh cả 2 Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đều “có tầm quan trọng đặc biệt” với cách mạng thế giới. Đặc biệt, trong hội nghị ấy không có một chính đảng nào dám đưa cả hai đảng trên vào chung. Bài phát biểu ấy khiến cả 2 đảng cùng đưa ra tuyên bố chung và giữ quan hệ tốt hơn với phía Việt Nam.

Năm 1963, Trung Quốc coi Liên Xô là “nơi xuất phát của chủ nghĩa xét lại” và gửi thư cho phía Việt Nam đề nghị không gửi thư chúc mừng sinh nhật Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushchev. Nghe theo Trung Quốc thì sẽ mất lòng Liên Xô, không làm theo thì mất lòng Trung Quốc, nhưng Bác Hồ đã nghĩ ra một cách. Bác tổ chức buổi tiệc ăn cơm ở Phủ Chủ tịch mừng dịp Tết Hàn Thực sớm và trong ly rượu đầu tiên, Bác Hồ nâng ly chúc mừng sinh nhật đồng chí Nikita Khrushchev tròn 70 tuổi. Tình cờ thay, sinh nhật Nikita Khrushchev (15/04/1894) chỉ diễn ra trước Tết Hàn Thực đúng 1 ngày. 

Sự việc này khiến đại sứ Sherbakov bất ngờ và rất vui vì Việt Nam “không chọn phe Trung Quốc”, còn phía Trung Quốc “mừng như mở cờ” vì Việt Nam đã làm theo đề nghị từ trước đó là không gửi thư chúc mừng. 

Năm 1965, Liên Xô muốn lập cầu hàng không viện trợ đến Việt Nam, Trung Quốc không đồng ý nhưng cũng không tiết lộ rõ nguyên nhân. Nhằm xoa dịu hai cái đầu nóng, Bác Hồ khéo léo nói phía Trung Quốc sẽ hỗ trợ vận chuyển an toàn hàng hóa, đi bằng đường bộ sẽ vận chuyển được nhiều hơn. Vừa đề cao vai trò Trung Quốc, vừa cải chính thông tin Trung Quốc không cản trở hàng hóa viện trợ, vừa nhắc khéo Trung Quốc không nên can thiệp vào hàng hóa viện trợ thông qua vài chữ “vận chuyển được nhiều hơn”.

Từ năm 1966, ở Trung Quốc diễn ra Cách mạng văn hóa, Liên Xô thăm dò ý kiến Việt Nam nhưng Bác Hồ cho rằng đây là thời gian cuộc kháng chiến tại Việt Nam diễn ra quyết liệt và Bác phải dành nhiều thời gian hơn. Bác cũng cho biết “Cách mạng văn hóa là vấn đề nội bộ của Trung Quốc” và không tham gia phê phán, đả kích. Khi Mao Trạch Đông đề nghị tiến hành cách mạng văn hóa ở Việt Nam, Bác từ chối và cho biết Việt Nam chưa làm cách mạng văn hóa được vì còn đang bận giải phóng đất nước. Mao Trạch Đông gật gù đồng ý. 

Năm 1969, Liên Xô tổ chức Hôi nghị 75 Đảng Cộng sản nhằm mục đích khai trừ Đảng Cộng sản Trung Quốc và gửi lời mời Việt Nam. Việt Nam từ chối tham gia với lý do cách mạng Việt Nam đang quyết liệt và sức khỏe của Bác không tốt. Cùng với lý do tương tự, Việt Nam từ chối tham gia các thảo luận lên án Liên Xô với phía Trung Quốc. Hai quốc gia trên rất nể Bác nên lúc Bác sức khỏe yếu, họ đều ân cần và không nói đến vấn đề về đối phương.

Trong suốt những năm tháng chiến tranh, không đề cao bên nào hơn bên nào, Bác Hồ nhất quán với chủ trương không sử dụng binh lính Liên Xô - Trung Quốc trực tiếp tham gia chiến trường miền Nam Việt Nam. Cách mạng Việt Nam và vấn đề thống nhất phải do người Việt Nam trực tiếp thực hiện, nợ ân tình vật chất thì có thể trả, nhưng nợ máu thì không bao giờ. 

Liên Xô và Trung Quốc là hai quốc gia quan trọng nhất với Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến từ năm 1954 - 1975. Hai quốc gia có những mâu thuẫn gay gắt với nhau và Việt Nam phải “đu dây” trong một thời kỳ đầy biến động: vừa chiến tranh lạnh, vừa mâu thuẫn Trung Xô và vừa phải làm nhiệm vụ thống nhất đất nước. 

Nhưng với những gì mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm, Việt Nam đã tạo ra một thế trận ngoại giao cân bằng hoàn hảo giữa hai cường quốc của thế giới và chính những tư tưởng của Bác đã đặt nền móng cho ngành ngoại giao "cây tre" của Việt Nam hiện tại./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: “PHẢI THẮNG LỢI TO LỚN HƠN NỮA”

     Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị lần thứ tám của Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2020-2025 vừa diễn ra mới đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã nhấn mạnh:“Với tinh thần công việc của năm 2023 đã tốt rồi, thì năm 2024 sẽ tốt hơn nữa và phải thắng lợi to lớn hơn nữa”!
Đây là lời động viên, khích lệ, thể hiện niềm tin tưởng to lớn, cũng là yêu cầu rất cao của đồng chí Tổng Bí thư đối với Đảng bộ Quân đội và toàn quân. Chỉ đạo của Tổng Bí thư nhanh chóng được các đồng chí lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp quán triệt sâu sắc, phổ biến tại nhiều hội nghị và nhanh chóng lan tỏa đến các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.  

Nhìn lại năm 2023 và sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đứng trước những khó khăn, thách thức, nhưng đất nước ta vẫn đạt nhiều kết quả rất đáng trân trọng, tự hào. Kết quả đó có một phần nguyên nhân là bởi cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp, các ngành đã mạnh dạn xác định chỉ tiêu, mục tiêu phấn đấu hằng năm với yêu cầu rất cao về mức độ hoàn thành; đồng thời tập trung sức lãnh đạo, chỉ đạo, quyết liệt tổ chức triển khai thực hiện bằng nỗ lực, quyết tâm cao nhất.

Tuy vậy, năm qua cũng xuất hiện không ít hiện tượng đáng phải băn khoăn, suy ngẫm về tinh thần trách nhiệm, tác phong công tác của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Vẫn còn đó những cá nhân mang tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám làm, hoặc né tránh, đùn đẩy công việc cho nhau. Một số khác lại có tư duy bàn lùi, ngại khó, ngại khổ, không dám đương đầu với khó khăn, thử thách, ngại việc mới và nhất là không thường xuyên đặt ra các mục tiêu phấn đấu với yêu cầu ngày càng cao... Chính thực tế đó gây nên tắc nghẽn, khiến cho công việc không trôi chảy, làm giảm tiến độ, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ ở nhiều tổ chức, cá nhân.

Năm mới nhắc lại chuyện cũ như vậy để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên có nhìn nhận thấu tỏ hơn; đồng thời xác định tâm thế mới trước những nhiệm vụ mới nặng nề hơn, yêu cầu cao hơn. Theo đó, để hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ tốt hơn và giành nhiều thắng lợi to lớn hơn so với năm 2023, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp phải nhanh chóng cụ thể hóa mục tiêu, quyết tâm chính trị thành hành động cách mạng sôi nổi, rộng khắp của quần chúng; khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm 2024 với tinh thần rõ người, rõ việc, rõ thời gian để tập trung, chủ động thực hiện quyết liệt, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. 

Đặc biệt, từ yêu cầu “phải tốt hơn năm trước” của lãnh đạo Đảng, qua từng cấp phải được cụ thể hóa thành những chỉ tiêu cụ thể; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, giao việc, khoán việc, gắn với trách nhiệm người đứng đầu ở từng cấp, từng bộ phận, bảo đảm hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng. Trong đó, với trọng trách được giao phó, người đứng đầu phải thực sự là những cán bộ “6 dám”, mẫu mực nêu gương; biết khơi dậy và phát huy tinh thần phấn đấu học tập, công tác, ra sức dấn thân vì công việc và lợi ích chung.

Cùng với đó, quá trình thực hiện nhiệm vụ, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và cơ quan chức năng cần sớm nhận diện, khắc phục triệt để các biểu hiện “đầu voi, đuôi chuột”; “trên nóng, dưới lạnh”, “trên vất vả chỉ đạo, dưới thong thả triển khai”... trong thực hiện các nhiệm vụ. Làm tốt những phần việc này thì chắc chắn, năm 2024 sẽ đạt kết quả tốt hơn và thu gặt nhiều thắng lợi to lớn hơn năm 2023./.

Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: VÌ MỘT VIỆT NAM HÙNG CƯỜNG THỊNH VƯỢNG, NGƯỜI DÂN ẤM NO HẠNH PHÚC HƠN!

         Đất nước đã bước vào năm 2024, đánh dấu vượt qua nửa chặng đường của nhiệm kỳ này với những bước tiến đáng ghi nhận. 1000 ngày đáng nhớ với tâm thế luôn hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của Chính phủ, các cấp, các ngành, vì một Việt Nam hùng cường thịnh vượng, người dân ấm no hạnh phúc hơn!

Vượt khó, trụ vững, xoay chuyển tình thế… là những cụm từ được nhắc đến nhiều vào dịp này khi các cấp, các ngành cùng nhìn lại 1000 ngày hoạt động đã qua của Chính phủ nhiệm kỳ này.

Để có được bức tranh sáng sủa của tình hình đất nước, để có được những thành tựu về kinh tế xã hội, chúng ta phải vượt qua muôn trùng sóng gió. Ba năm tưởng như dài bằng cả thập kỷ khi năm nào cũng có những diễn biến bất thường, khó lường nối nhau, như để thử thách bản lĩnh của những người chèo lái con thuyền kinh tế đất nước.

Có thể nói, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đất nước ta đứng trước rất nhiều khó khăn, có những khó khăn chưa có tiền lệ. Đại dịch COVID-19 kéo dài gây hậu quả nặng nề, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine diễn biến phức tạp; cuộc xung đột đẫm máu giữa Israel – Hamas ngày một lan rộng sang các nước láng giềng; hầu hết các chuỗi cung ứng bị đứt gãy; lạm phát tăng cao, các nước thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất dẫn đến suy giảm tăng trưởng và gia tăng rủi ro trên các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản quốc tế… tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh chính trị, kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn cầu.

Với độ mở của nền kinh tế trên 200%, kinh tế Việt Nam lẽ ra bị ảnh hưởng rất lớn, biến động gấp đôi kinh tế thế giới. Thế nhưng, Việt Nam vẫn nổi lên là một điểm sáng về tốc độ tăng trưởng kinh tế trên toàn cầu.

Kỳ tích không đến một cách tự nhiên. Trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thách thức nhưng nền kinh tế của chúng ta có sự hồi phục, tăng trưởng như vậy là có sự chỉ đạo kịp thời của Đảng và điều hành linh hoạt, sáng suốt của Chính phủ, cũng như quyết tâm đồng lòng vượt khó của doanh nghiệp và nhân dân.

Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Hội nghị Trung ương 7), Ban Chấp hành Trung ương nêu rõ trong nửa đầu nhiệm kỳ 2021-2026, đất nước ta đã vững vàng vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhìn nhận, đóng góp vào kết quả này có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền các cấp.

Nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế đánh giá cao nỗ lực, kết quả mà đất nước ta đạt được trong hơn nửa chặng đường của nhiệm kỳ khóa XIII, cũng như bản lĩnh vượt sóng gió của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Nhìn nhận 1.000 ngày hoạt động vừa qua của Chính phủ, PGS.TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, tâm đắc với 2 từ: Trụ vững và xoay chuyển tình thế. Nền kinh tế “trụ vững” trong đại dịch COVID-19, vượt qua tình trạng đứt gẫy chuỗi cung ứng, đồng thời, tạo lập cơ sở để chuyển nhịp, bước vào quỹ đạo phát triển mới – công nghệ cao, hội nhập quốc tế tầm cao một cách tự tin.

Ông cũng đánh giá cao nguyên tắc “tình thế bất thường, giải pháp phải khác thường” mà Chính phủ vận dụng. “Không có vấn đề nào không có cách giải quyết” là lời Thủ tướng nhiều lần khẳng định.

Cách điều hành vĩ mô của Chính phủ thời kỳ sóng gió vừa qua đã thể hiện phần nào năng lực và bản lĩnh của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Giữ nhịp tăng trưởng, bảo đảm ổn định vĩ mô cho nền kinh tế mở trong điều kiện thế giới đứt chuỗi cung ứng, lạm phát cao là một thành tích thật sự có ý nghĩa. Đó là kết quả của cách quản trị – điều hành linh hoạt, theo tinh thần “ứng vạn biến” tích cực.

Dưới lăng kính quốc tế, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam ông Andrea Coppola nhận định suy thoái toàn cầu là cú sốc lớn đối với nền kinh tế mở của Việt Nam. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng mà nhiều quốc gia trên thế giới kỳ vọng. Thực tế đã chứng minh, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nằm trong TOP những nước hàng đầu khu vực và thế giới.

Có thể nói, với các bước đi rất cụ thể, sâu sát, tự tin, kiên trì, không đao to búa lớn, Chính phủ nhiệm kỳ này đã bắt tay thực hiện công cuộc thúc đẩy phát triển kinh tế theo cách “không trông chờ ỷ lại, tự lực tự cường, đi lên từ bàn tay, khối óc, khung trời, cửa biển của mình, “biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể”, tạo chuyển biến từ việc nhỏ để làm nên sức bật đổi mới mạnh mẽ.

Từ những cuộc họp bất kể ngày đêm bàn tới bàn lui tìm lời giải bài toán phát triển, Thủ tướng muốn chắt chiu từng phần trăm tăng trưởng cho nền kinh tế, với tinh thần “suy nghĩ phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn. Suy nghĩ xong thì bắt tay hành động, làm tốt hơn, nói đi đôi với làm, nói ít, làm nhiều, không phô trương, hình thức”.

Đến thời điểm này, chúng ta có thể khẳng định rằng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cùng với các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương đã đi vào cuộc sống như một lẽ tự nhiên, bởi tính đúng đắn, bởi mục tiêu được xác định phù hợp với điều kiện thực tế, với “ý Đảng hợp với lòng dân”, và cũng bởi sự góp sức của Chính phủ, của các cấp, các ngành.

Con đường thịnh vượng cho đất nước, cho sự sung túc, khá giả hơn cho người dân, đã đòi hỏi Chính phủ, cả hệ thống chính trị phải ngày đêm lao tâm khổ tứ, vào cuộc nhanh chóng, chủ động, quyết liệt trong đương đầu với sóng gió, không thể để cơ hội phát triển vuột mất, toàn tâm toàn ý, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Bước sang năm mới 2024, hơn lúc nào hết chúng ta cần phát huy những kết quả đã đạt được, khẩn trương hành động với tư duy đột phá, nắm bắt thời cơ, làm mới các động lực cũ, kiến tạo các động lực mới, khắc phục các yếu kém nội tại, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa đất nước tiếp tục vượt qua những hải trình sóng gió vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, người dân ấm no hạnh phúc hơn, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: “LẤY CHÍNH TRỊ LÀM GỐC”, CÀNG HỌC CÀNG THÔNG!

         Tư tưởng “lấy chính trị làm gốc” xuất hiện từ rất sớm cùng với hệ quan điểm của Đảng ta về cách mạng Việt Nam và sự cần thiết phải có một đảng chính trị chân chính theo chủ nghĩa Mác - Lênin; phải xây dựng cho được lực lượng vũ trang nhân dân - đội quân cách mạng thực hiện sứ mệnh giải phóng dân tộc!

Tư tưởng “lấy chính trị làm gốc” có nội dung tương đồng với quan điểm “chính trị trọng hơn quân sự”, “người trước súng sau” của Đảng ta và Bác Hồ. Nguồn gốc của các quan điểm, tư tưởng ấy xuất phát từ nhu cầu đấu tranh giải phóng dân tộc, được tìm thấy trong các văn kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930; đó là Chính Cương văn tắt, Sách lược văn tắt và Điều lệ vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua. Điều đó thể hiện sự giác ngộ chính trị, đề cao vai trò lý luận tiên phong và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang cách mạng, được tái khẳng định trong Báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội lần thứ I của Đảng ta (3-1935, tại Ma Cao, Trung Quốc). Đây là nội dung quan trọng xuyên suốt Nghị quyết của Đảng về xây dựng “Đội Tự vệ công - nông” - Tổ chức quân sự đầu tiên của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Trong các văn kiện thời kỳ này, Đảng ta từng bước khẳng định rõ quan điểm “lấy chính trị làm gốc” trong xây dựng đội quân cách mạng, mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng mà khởi điểm là xây dựng các “đội tự vệ công nông” - “con nòi của cách mạng”, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
Ngay từ đầu Đảng ta xác định: Thành phần cốt cán tham gia các “đội tự vệ công nông” là con em ưu tú của nhân dân - những người sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì cách mạng, là nhân cốt tạo nên sức mạnh của các lực lượng vũ trang nhân dân, là “vũ khí sắc bén”, “công cụ bạo lực” của cách mạng. Từ đây, Đảng, Bác Hồ tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng và khẳng định: Chừng nào ở Việt Nam chưa có lực lượng vũ trang nhân dân đủ mạnh thì chừng ấy, chúng ta chưa thể giải phóng dân tộc. Vì vậy, Đảng phải “lấy chính trị làm gốc” để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh.

Tư tưởng “lấy chính trị làm gốc” trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân thể hiện sâu sắc ở sự lãnh đạo của Đảng đối với đường lối chính trị trong tổ chức lực lượng, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng ấy soi đường, dẫn dắt các Đội Tự vệ công - nông, các Đội Du kích quân ra đời, phát triển, đạt đến tầm cao khi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời (ngày 22-12-1944). Với sự kiện này, tư tưởng “lấy chính trị làm gốc” được hiện thực hóa, khẳng định rõ ràng trên thực tế và mở ra thời kỳ phát triển mới về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng mà Quân đội ta là một trong những lực lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ lực.

Vì lẽ đó, trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Bác Hồ chỉ rõ: Bên cạnh người đội trưởng, có người chính trị viên đảm nhiệm trọng trách xây dựng Đội và giữ vững bản chất cách mạng của bộ đội, hoạt động thống nhất theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; trước hết là thực hiện các nghị quyết của Chi độ Đảng và chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy.

Tư tưởng “lấy chính trị làm gốc” tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các tác phẩm của Bác Hồ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược. Bác khẳng định: Trong xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, ở cấp nào cũng vậy, đều cần có người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng lựa chọn, phái đến, được Đảng giao trọng trách nắm giữ “phần hồn” đời sống của bộ đội, là “người anh, người chị” của cán bộ, chiến sĩ - “sợi dây bền chặt kết nối bộ đội với nhân dân, trực tiếp chăm lo mọi mặt công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị, trực tiếp tuyên truyền, giáo dục bộ đội về chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật, sinh hoạt dân chủ, xây dựng các mối quan hệ cán binh, quan hệ quân dân, vun đắp tình đoàn kết, nhất trí trong đơn vị và trong nhân dân, thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Nhờ đó mà cán bộ, chiến sĩ đi đúng đường lối chính trị - quân sự của Đảng, giữ nghiêm kỷ luật của Quân đội, pháp luật của Nhà nước, có thái độ tốt trong quan hệ với nhân dân và vận động binh lính địch cũng như giải quyết công tác tù, hàng binh, đem lại lợi thế có lợi cho cách mạng, hướng đến thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc...

Nếu lơ là, coi thường hoặc không nắm vững “hồn cốt” của bộ đội, không “lấy chính trị làm gốc”, không đặt công tác chính trị, tư tưởng vào đúng vị trí, không phát huy được vai trò, tầm quan trọng và sức mạnh của nó thì quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng sẽ “lơ lửng ở trên trời”, không có cách nào để đến với bộ đội và nhân dân. Quân đội sẽ mắc nguy cơ “nhiệt tình nhưng sai hướng”... Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trở nên xa vời, sự sai trái, lệch lạc, thiếu sự đồng thuận, sự lỏng lẻo về đoàn kết, nhất trí trong nhận thức và hành động của bộ đội đối với công tác chính trị - quân sự của Đảng cũng từ đó mà ra, kéo theo các hệ lụy khác. Đúng là mọi sai sót, lầm lạc về đường lối chính trị đều phải trả giá đắt.

Vì vậy, Bác Hồ cho rằng, “bệnh” xem nhẹ công tác giáo dục chính trị, coi thường chính trị ví như người đi rừng, đi biển không có “la bàn”, bị mất phương hướng, không thể tránh khỏi lầm đường, lạc lối, rất nguy hiểm...

Thực tiễn hơn 79 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta đã khẳng định tính đúng đắn của tư tưởng “lấy chính trị làm gốc” trong xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Chính nó đã, đang và tiếp tục định hướng chính trị đúng đắn trong xây dựng Quân đội nhân dân, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; là biện pháp tối ưu để phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “phi Đảng”, “phi chính trị hóa” quân đội...

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tư tưởng “lấy chính trị làm gốc” của Đảng, Bác Hồ trong xác định đường lối chính trị và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị; có sức truyền cảm, lôi cuốn thật hấp dẫn, là động lực tinh thần to lớn, luôn cổ vũ, động viên các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội và nhân dân ta vượt khó tiến lên; mãi mãi là tư tưởng cơ bản, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với mọi hoạt động của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Quán triệt sâu sắc, dụng sáng tạo tư tưởng “lấy chính trị làm gốc” của Đảng và Bác Hồ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng Quân đội ta tiến lên hiện đại; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; góp phần đưa sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giành những thành tựu mới vì sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: VIỆT NAM VỮNG BƯỚC VƯỢT SÓNG BẰNG NỘI LỰC - NÂNG TẦM VỊ THẾ TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO!

         Năm 2023 ghi nhận nhiều kết quả đáng khích lệ của Việt Nam trong bối cảnh bấp bênh của thế giới do hàng loạt biến động phức tạp, bất ngờ. Quan hệ đối ngoại rộng mở, đánh dấu bằng việc Việt Nam nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng trên thế giới, trong khi nền kinh tế vẫn duy trì được đà phục hồi tăng trưởng!
Sôi nổi, thực chất và hiệu quả - có thể đánh giá khái quát như vậy về hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong năm 2023. Các lãnh đạo Việt Nam thực hiện hàng chục chuyến công tác nước ngoài, tham dự nhiều sự kiện khu vực và quốc tế, gặp gỡ song phương với các đối tác quan trọng. Người đứng đầu nhiều nước và tổ chức quốc tế tới Việt Nam, trong đó có hai chuyến thăm vào những tháng cuối năm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden. Hàng trăm hoạt động giao lưu, sự kiện kỷ niệm năm tròn, năm chẵn thiết lập quan hệ ngoại giao diễn ra sôi nổi, liên tục tại Việt Nam và tại các nước đối tác lớn, các bạn bè truyền thống, đưa hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp xuất hiện nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông quốc tế và đến gần hơn với người dân khắp nơi trên thế giới.
Năm 2023 cũng là dấu mốc của bước chuyển về chất trong quan hệ giữa Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Tháng 9, nhân chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được nâng lên thành Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Tháng 11, Việt Nam và Nhật Bản nâng tầm quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới, nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tới Nhật Bản. Cùng với các khuôn khổ đối tác chiến lược toàn diện đã được xác lập trước đó với Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và Hàn Quốc, những bước tiến mới trong năm 2023 cho thấy Việt Nam đang tiếp tục theo đuổi chính sách ngoại giao cân bằng, đậm bản sắc “ngoại giao cây tre”. Danh sách đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện ngày càng được mở rộng cho thấy niềm tin của các nước đối với Việt Nam, khẳng định và củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Có thể nói, Việt Nam đang chủ động và vững bước trên hành trình khẳng định tiếng nói, vai trò, vị thế ngày càng gia tăng trên trường quốc tế; thu hút hiệu quả các nguồn lực bên ngoài cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Với những mối quan hệ ngày càng được mở rộng, thực chất và hiệu quả, với uy tín chính trị ngày càng được củng cố trong mắt bạn bè, đối tác quốc tế, Việt Nam đón chào năm mới 2024 với tâm thế tự tin, khí thế sẵn sàng vượt qua những khó khăn, tiếp tục khẳng định là thành viên chủ động, tích cực và trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đây cũng sẽ là nền tảng vững chắc để Việt Nam gặt hái thêm những kết quả tích cực về kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: KHƠI DẬY Ý CHÍ TỰ LỰC TỰ CƯỜNG VÀ KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

     Chúng ta đều đã biết, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và Nhân dân ta, soi sáng sự nghiệp cách mạng, dẫn dắt mỗi bước đi lên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc làm rất cần thiết, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường xuyên, không thể thiếu đối với toàn Đảng, toàn dân ta, trước hết là các tổ chức đảng, các cơ quan Nhà nước và cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, cống hiến, phụng sự đất nước, phục vụ Nhân dân”!

Chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh toàn khóa có chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” cũng chính là một trong những nội dung cốt lõi trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tinh thần kiến quốc, phục hưng đất nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, soi đường để đưa đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Theo tư tưởng của Người, tự lực là tự mình làm lấy, không nhờ cậy ai. Điều này gắn liền với tự lực cánh sinh, tức là tự lo cuộc sống của mình, không ỷ lại vào người khác. Tự cường là tự mình xây dựng sức mạnh của mình, không cần sự giúp đỡ của người khác. Nó gắn liền với tự lập, tức là tự mình gây dựng cho mình, không cần sự giúp đỡ của người khác. Nói ngắn gọn, tự lực, tự cường là tự mình lo công việc của mình và gây sức mạnh cho mình, không lệ thuộc, không phụ thuộc, không ỷ lại ngồi chờ.

Thành tựu 35 năm đổi mới đất nước đã tiếp tục khơi dậy khát vọng phát triển đất nước từ ý chí, tiềm năng, nguồn lực của cả dân tộc mà hạt nhân là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam kết hợp với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên trong giai đoạn tới, để đạt được khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc phải tập trung xây dựng nhân tố con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo gương Bác về việc nêu gương, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt, đứng đầu; cán bộ, đảng viên phải tận tâm tận lực trong mọi công việc dù lớn hay nhỏ, không tư lợi.

Nội dung chuyên đề toàn khóa XIII về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong công cuộc đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Việc học tập và làm theo Bác là một giải pháp quan trọng trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Để nhiệm vụ này ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa lời nói và việc làm; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; gần dân, tin dân, yêu dân, học dân, gắn bó với nhân dân, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân.

Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, Chi bộ mình gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo Bác, nhất là người đứng đầu với tinh thần: “Người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo”. (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng). Đây cũng là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phấn đấu đưa nước ta sớm trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thực hiện được tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGUỒN CUNG LƯƠNG THỰC THẮT CHẶT HƠN!

     Trong bối cảnh giá lương thực tăng cao những năm gần đây, người tiêu dùng sẽ đối mặt với nguồn cung thắt chặt hơn nữa vào năm 2024 do một số lý do như hiện tượng thời tiết El Nino, động thái hạn chế xuất khẩu…

Theo Reuters, El Nino được dự báo tiếp tục diễn ra trong nửa đầu năm nay sau khi gây khô hạn ở phần lớn châu Á năm 2023. Diễn biến này đe dọa đến nguồn cung gạo, lúa mì, dầu cọ và các nông sản khác ở một số nước xuất khẩu và nhập khẩu nông nghiệp hàng đầu thế giới.

Đáng chú ý, sản lượng gạo của châu Á được dự báo sụt giảm trong nửa đầu năm 2024 khi điều kiện trồng trọt khô hạn và các hồ chứa nước cạn kiệt.

Trong năm 2023, nguồn cung gạo trên thế giới thắt chặt do tác động của El Nino, buộc Ấn Độ hạn chế xuất khẩu gạo. Giá gạo năm ngoái đã tăng lên mức cao nhất trong 15 năm.

Ngoài ra, báo cáo mới của Ngân hàng Commerzbank (Đức) nhận định tình trạng nguồn cung lúa mì trong niên vụ 2023-2024 hiện tại có thể sẽ xấu đi so với mùa vụ trước. Điều này là do sản lượng xuất khẩu từ các nước sản xuất lúa mì quan trọng dự kiến giảm đáng kể.

Bên cạnh giá lương thực, giá vàng cũng thu hút nhiều quan tâm sau khi phá kỷ lục trong năm 2023 (hơn 2.100 USD/ounce).

Nhà phân tích thị trường Rania Gule tại nền tảng giao dịch XS (Úc) nhận định rủi ro kinh tế, chính trị và địa chính trị vẫn còn cao trong năm 2024 và điều này giúp vàng trở thành kênh trú ẩn tài sản an toàn.

Một số dự đoán cho rằng giá vàng sẽ duy trì trên mức 2.000 USD/ounce cả năm 2024 trong bối cảnh một số ngân hàng trung ương lớn có thể hạ lãi suất thời gian tới./.
Yêu nước ST.

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC SỰ NGHIỆP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ, AN NINH BIÊN GIỚI QUỐC GIA!

     Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động gia tăng nhiều hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực, trong đó có nội dung xuyên tạc hoạt động quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia (BGQG)!

Âm mưu tinh vi, thủ đoạn thâm độc
Chủ quyền lãnh thổ, BGQG trong tâm thức mỗi người dân là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, liên quan đến hòa bình, an ninh và phát triển của đất nước, quan hệ giữa Việt Nam và các nước láng giềng nên việc xuyên tạc chống phá dễ gây ra tâm lý bất bình, dễ kích động trong một bộ phận quần chúng nhân dân nhẹ dạ, cả tin.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động sử dụng nhiều hình thức và thủ đoạn rất tinh vi, giảo hoạt, tung ra những thông tin và tư liệu lịch sử, kỹ thuật không có tính pháp lý để đánh lừa dư luận. Trước hết, chúng xuyên tạc kết quả phân giới cắm mốc giữa Việt Nam với các nước có chung đường biên giới, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, từ đó tạo nên môi trường xã hội, chính trị bất ổn để dễ bề thực hiện mưu đồ chính trị của mình.

Ngay từ những ngày đầu khi Việt Nam tham gia giải quyết vấn đề biên giới với các nước cho đến nay, các thế lực thù địch vẫn xuyên tạc kết quả đạt được giữa các bên, đặc biệt đối với những vấn đề về biên giới chưa được giải quyết dứt điểm, chúng thường tập trung tuyên truyền theo hai hướng, đó là xuyên tạc Việt Nam nhu nhược nên nhượng đất cho nước láng giềng nhằm kích động tâm lý bất bình trong nhân dân; bịa đặt Việt Nam xâm chiếm đất của nước láng giềng nhằm phá hoại tiến trình phân giới cắm mốc của nước ta với các nước Trung Quốc, Lào và Campuchia.

Cùng với những luận điệu xuyên tạc về công tác bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh BGQG trên đất liền, các thế lực thù địch, phản động còn rêu rao rằng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam nhu nhược, hèn yếu nên không có những động thái kiên quyết để bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia; thậm chí chúng còn trắng trợn bịa đặt rằng lãnh đạo Đảng, Nhà nước im lặng vì đã thỏa hiệp với nước ngoài thao túng chủ quyền biển, đảo của nước ta (!).

Tinh vi hơn, núp dưới chiêu bài “hiến kế, góp ý”, chúng đã đưa ra luận điệu cho rằng: Do sức mạnh của Hải quân nhân dân Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”... nên “chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc quân sự thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo, bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc” (!). Từ đó, chúng đòi hỏi Việt Nam cần từ bỏ chính sách “4 không” và liên minh quân sự với các nước lớn có tiềm lực quân sự, quốc phòng mạnh thì mới bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo quốc gia (!).

Trên khu vực biên giới, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc lịch sử tộc người, quan hệ tộc người, bôi nhọ chủ trương phát triển kinh tế-xã hội. Chúng cho rằng việc phát triển các dự án kinh tế là nguyên nhân “đẩy” đồng bào các dân tộc lâm vào tình cảnh khốn khó, mất nguồn sinh kế, vì thế, đời sống bà con luôn thiếu thốn, khó khăn. Chúng còn kích động mâu thuẫn giữa các dân tộc và xuyên tạc người Kinh đã lấy đất, phá rừng, gây khó khăn cho đồng bào các dân tộc trong phát triển kinh tế-xã hội, qua đó nhằm phá hoại khối đoàn kết dân tộc, làm suy yếu sức mạnh của quân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để tán phát những thông tin sai lệch, xuyên tạc, chúng tận dụng tối đa các phương tiện truyền thông xã hội, các diễn đàn, nhất là triệt để lợi dụng một số văn nghệ sĩ, trí thức bất mãn, có quan điểm chính trị lệch lạc để ngấm ngầm cài cắm, tán phát những quan điểm sai trái, phản động về chủ quyền lãnh thổ, BGQG; lợi dụng các hoạt động nhân đạo, từ thiện, tổ chức truyền đạo, lập đạo trái phép để tuyên truyền, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở biên giới, vùng sâu, vùng xa.

Kiên trì, kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia
Trước tình hình chống phá đó, việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về quản lý bảo vệ BGQG hiện nay là nhiệm vụ quan trọng, cơ bản, lâu dài đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; là nhiệm vụ quan trọng của công tác đấu tranh tư tưởng, lý luận nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG hiện nay, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau.

Một là, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về tầm quan trọng của việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về bảo vệ BGQG hiện nay.
Tập trung tuyên truyền, giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức rõ việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG hiện nay là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Trong đó, tăng cường giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những quy định pháp lý về BGQG, chủ quyền biển, đảo của Việt Nam; về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG. Tích cực tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhận rõ mục đích, âm mưu, thủ đoạn và các luận điệu sai trái, thù địch mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng để xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ BGQG hiện nay, nhằm nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân trước những thông tin xấu độc, xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG.

Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong chủ động đấu tranh làm thất bại các luận điệu xuyên tạc về quản lý bảo vệ BGQG.

Quản lý, bảo vệ BGQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó cần phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nhân dân là trung tâm, là chủ thể trong sự nghiệp bảo vệ BGQG. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng biển, đảo; ngăn chặn kịp thời hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá, lôi kéo di dân tự do; tích cực đấu tranh ngăn chặn kịp thời âm mưu, thủ đoạn kích động, chia rẽ nhân dân với cấp ủy, chính quyền địa phương, chia rẽ đồng bào các dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân.

Cùng với đó, đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào khu vực biên giới thực hiện nếp sống văn minh gắn với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thực hiện hiệu quả các dự án bảo tồn và phát triển bền vững một số dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; đẩy lùi, xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan. Quan tâm, chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, giảm nghèo, bảo đảm cuộc sống, lao động sản xuất ổn định cho đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới, hải đảo.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ BGQG; kiên quyết xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, xuyên tạc về BGQG và quản lý, bảo vệ BGQG.

Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, tích cực đăng tải các bài viết trên những phương tiện thông tin đại chúng, trên hệ thống internet thể hiện rõ lập trường, quan điểm của Việt Nam đối với những vấn đề liên quan đến chủ quyền, an ninh BGQG trên bộ và trên biển. Tổ chức đưa phóng viên, nhà báo, đại diện các tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào tham quan thực địa biên giới, biển, đảo để tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách về BGQG đến người dân trong nước và người Việt Nam ở ngoài nước.

Kịp thời cập nhật thông tin, đưa tin chính xác và cụ thể về những diễn biến phức tạp trên biên giới, trên Biển Đông để định hướng dư luận, không để những thông tin thật-giả lẫn lộn, mập mờ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG.

Áp dụng các giải pháp kỹ thuật tăng cường rà quét, bóc gỡ, ngăn chặn những thông tin xấu độc về tình hình Biển Đông nói chung và chủ quyền biển, đảo của Việt Nam nói riêng. Tăng cường xử lý các đối tượng đăng tải, chia sẻ các bài viết, video, hình ảnh có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo. Thiết lập các trang mạng, tài khoản chính thống để huy động cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trên internet và mạng xã hội để tạo thành thế trận liên hoàn, rộng khắp.

Bốn là, thường xuyên tiến hành công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển và hoàn thiện lý luận về quản lý, bảo vệ BGQG
Quan tâm tổng kết thực tiễn sự nghiệp quản lý, bảo vệ BGQG để tiếp tục làm rõ nhận thức, quan niệm về quản lý, bảo vệ BGQG ở nước ta, tập trung vào các vấn đề: Mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, nhiệm vụ, giải pháp về quản lý, bảo vệ BGQG... Đây là những vấn đề lớn, đòi hỏi công sức, trí tuệ, tâm huyết của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trước hết là của đội ngũ cán bộ chuyên làm công tác tư tưởng, lý luận và lực lượng chuyên trách quản lý, bảo vệ BGQG. Tích cực khai thác tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu lý luận về quản lý, bảo vệ BGQG để phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung và quản lý, bảo vệ BGQG nói riêng.

Quản lý, bảo vệ BGQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và cả nước; là vấn đề hết sức thiêng liêng, nhưng cũng không ít khó khăn, phức tạp. Các luận điệu xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG thực chất là những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, phản động nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới từng bước làm thay đổi chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc về quản lý, bảo vệ BGQG, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình hiện nay./.
Yêu nước ST.