Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2024

TỰ DO NGÔN LUẬN PHẢI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LÀ HOÀN TOÀN ĐÚNG ĐẮN

     Gần đây, trên mạng “Vietnamthoibao” phát tán bài viết của Hoài Nguyễn với tựa đề: “Tự do ngôn luận ở Việt Nam”. Bài viết cho rằng Việt Nam “đã đặt ra các rào cản kỹ thuật trong việc thực hiện quyền tự do ngôn luận” - Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, sự cố tình xuyên tạc, bóp méo về quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam, bởi lẽ:

    Thứ nhất, quyền tự do ngôn luận không phải là quyền tự do tuyệt đối.

    Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến” (Điều 19) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận” (Điều 19).

    Tự do ngôn luận là quyền cơ bản, song nó không tách rời với trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân, được quy định trong luật pháp quốc tế và pháp luật quốc gia. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 khẳng định: “Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những nhu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và lợi ích chung của một xã hội dân chủ” (khoản 2 Điều 29) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tiếp tục khẳng định: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội” (khoản 3 Điều 19).

    Như vậy, tự do quyền ngôn luận không phải là quyền tự do tuyệt đối, mà nó còn bị giới hạn bởi các yếu tố như luật pháp, phong tục tập quán, đạo đức xã hội. Nếu để tự do tuyệt đối nghĩa là tự do vô chính phủ, tự do kiểu hoang dã, ai cũng nói năng, phát ngôn bừa bãi, xuyên tạc sự thật, bịa đặt, chia sẻ thông tin không kiểm chứng, bất chấp đúng sai sẽ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát, gây rối loạn xã hội, nhiễu loạn thông tin, có thể tạo ra khủng hoảng thông tin xã hội, truyền thông dẫn đến bất ổn định an ninh chính trị trật tự xã hội.

    Thứ hai, tự do ngôn luận ở Việt Nam được đề cao và bảo đảm theo pháp luật

    Ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận được ghi nhận ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946): “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận” (Điều 10), và tiếp tục được kế thừa trong các bản Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Tại điều 25, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận”, “việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận của công dân.

    Thực tiễn đời sống ở Việt Nam những năm qua cho thấy, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Đặc biệt, kể từ khi hòa mạng Internet toàn cầu ngày (năm 1997), Việt Nam liên tục thiết lập những kỷ lục mới, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, đáp ứn tốt nhất nhu cầu tìm kiếm, trao đổi, thụ hưởng thông tin mọi lúc, mọi nơi của người dân cả trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như truyền thông xã hội. Người dân Việt Nam có thể dễ dàng truy cập vào tất cả các trang web, báo chí trên thế giới; có thể bày tỏ mọi suy nghĩ, trăn trở, mong muốn chính đáng, hợp pháp, bảo đảm thuần phong mỹ tục, giá trị nhân văn, đạo đức của mình trên mạng xã hội thông qua viết bài, đăng ảnh, video clip. Mỗi người dân Việt Nam cũng đều có thể tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế giới hay các trang cá nhân của mọi “công dân toàn cầu” mà không gặp phải bất cứ sự hạn chế, ngăn chặn, cấm đoán nào.

    Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm chăm lo thực hiện tốt quyền tự do cơ bản của con người, của công dân, trong đó có tự do ngôn luận, nhưng đi kèm với đó phải là kỷ luật, kỷ cương, pháp luật. Tạo mọi điều kiện tốt nhất để công dân thực hiện quyền tự do, trong đó, có tự do ngôn luận nhưng với những hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để làm những điều trái luật, làm phương hại tới danh dự, nhân phẩm của người khác; gây tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc… thì phải nghiêm trị theo pháp luật.

    Như vậy, luận điệu của Hoài Nguyễn về tự do ngôn luận ở Việt Nam là hoàn toàn sai trái nhằm mục đích hạ uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam trước cộng đồng thế giới. Chúng ta phải hết sức tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điệu lợi dụng tự do, dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc chống phá Việt Nam của Hoài Nguyễn và đồng bọn./.

NHẬN DIỆN VỀ VẤN ĐỀ CÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TÔN GIÁO

     Thực tiễn đã chứng minh, hoạt động tôn giáo phần lớn là thuần túy, xuất phát từ nhu cầu tâm linh tinh thần của tuyệt đại đa số tín đồ các tôn giáo như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”. Song cũng có những hoạt động lợi dụng tôn giáo vì mục tiêu, mưu đồ đen tối, gây phương hại đến lợi ích của dân tộc và cộng đồng. Ở Việt Nam, qua các thời kỳ cách mạng đã cho thấy rõ, tôn giáo luôn bị các thế lực phản động lợi dụng để chống phá, gây cho cách mạng những tổn thất lớn.

    Tổng thể, hoạt động lợi dụng tôn giáo để làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc, gây phương hại cho lợi ích chung của đất nước được các thế lực thù địch tập trung vào những mặt chủ yếu sau đây:

    Lợi dụng chính sách tôn giáo thông thoáng của Nhà nước để tạo ra những sự việc đã rồi, để đến khi bị chính quyền xử lý thì vu cáo ta vi phạm tự do tôn giáo. Những sự việc đã rồi mà các tôn giáo hay thực hiện như: xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự trái phép; in ấn, phát tán các tài liệu tôn giáo trái phép; truyền đạo trái phép; hiến, tặng đất đai cho tôn giáo; thành lập các hội đoàn tôn giáo trái phép; đào tạo nhân sự trái phép...

    Xây dựng lực lượng trong các tôn giáo làm đối trọng với chính quyền. Lợi dụng các mối quan hệ quốc tế rộng rãi của các tôn giáo ở nước ta trong điều kiện ngày nay, các thế lực thù địch tăng cường sự hỗ trợ về vật chất cũng như tinh thần để xây dựng lực lượng trong các tôn giáo làm đối trọng với chính quyền.

    Ở trong nước, các thế lực thù địch tài trợ, chỉ đạo cho các đối tượng cực đoan trong các tôn giáo hình thành nên những tổ chức ngầm, lôi kéo quần chúng tín đồ tham gia. Thông qua những viện trợ về cơ sở vật chất, kinh phí, đào tạo chức sắc để tạo mối quan hệ, ràng buộc, xây dựng những đối tượng chống đối ngay trong các tổ chức tôn giáo để phân hóa, suy yếu tổ chức tôn giáo; khi có điều kiện sẽ kích động, lôi kéo quần chúng tín đồ gây rối.

    Các dân tộc ở Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước đã luôn đoàn kết, sát cánh bên nhau để xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại đoàn kết dân tộc được xem là sức mạnh to lớn của Việt Nam. Trong lịch sử, nhận thức được vấn đề này một cách sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến mối quan hệ đặc biệt này. Đối với những thế lực thù địch để phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng với lợi dụng vấn đề tôn giáo, chúng còn lợi dụng vấn đề dân tộc, gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc để kích động tư tưởng ly khai nhằm hình thành các khu tự trị trong các dân tộc

    Những hoạt động của các thế lực thù địch sẽ ngày càng kín đáo, tinh vi và uyển chuyển hơn để tiếp tục tăng cường câu kết với các đối tượng cực đoan trong nước, kích động lôi kéo tín đồ là người dân tộc đòi ly khai, tự trị. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII nêu rõ: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”.

    Xuyên tạc chính sách, pháp luật về tôn giáo; ra yêu sách đòi hỏi tôn giáo ở nước ta được tự do hoạt động không chịu sự quản lý của Nhà nước. Tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội, một tồn tại xã hội đặc biệt. Hoạt động tôn giáo không chỉ thuần túy nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh tôn giáo chính đáng của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành tôn giáo mà còn liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hoạt động tôn giáo cũng giống như nhiều hoạt động khác liên quan đến các lĩnh vực đời sống xã hội đều phải tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Chính vì thế hoạt động của các tôn giáo không thể đứng ngoài xã hội, ngoài pháp luật mà phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới không thể đứng ngoài pháp luật của quốc gia đó.

    Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo. Thực chất của việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo ở nước ta là để đảm bảo hơn nữa quyền tự do tôn giáo của người dân, nhưng đồng thời là để đấu tranh chống lại hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm quyền tự do tôn giáo, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội và xâm phạm an ninh quốc gia “luật pháp về tôn giáo” vì đã có Luật Dân sự và Luật Hình sự điều chỉnh. Việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo ở nước ta để đảm bảo ngày càng thực chất hơn quyền tự do tôn giáo của người dân Việt nam ta.

CÁN BỘ LÀ GỐC CỦA MỌI CÔNG VIỆC

     Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã và đang dùng mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân đang tiến hành. Một trong những trọng tâm của chúng là tập trung chống phá công tác cán bộ, nhất là sự đoàn kết trong đội ngũ cán bộ. Trong đó, chúng xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt về việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng ta, quy chụp đây là biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chứ còn tự phê bình và phê bình chỉ là hình thức, không có tác dụng gì. Đặc biệt gần đây, chúng lợi dụng việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta để chỉ trích, xuyên tạc, vu cáo cho rằng, “thực chất đó là sự thỏa hiệp, chia chác quyền lực giữa các phe nhóm trong Đảng”; việc Đảng kỷ luật một số cán bộ, đảng viên có vi phạm chỉ là “thanh trừng, đấu đá giữa các phe nhóm trong Đảng”...

    Thực tiễn lịch sử Đảng và sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, bịa đặt, chống phá nêu trên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm xây dựng, phát triển sự đoàn kết trong Đảng, trong xã hội, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân với tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đặc biệt, Người nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc đoàn kết, nhất là đoàn kết của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Người cho rằng: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo” và “Cán bộ đoàn kết, mọi việc đều làm được”. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự đoàn kết của đội ngũ cán bộ phải luôn thực chất, sâu rộng, toàn diện ở mọi cương vị, vị trí công tác, mọi lứa tuổi; đoàn kết phải thường xuyên và cần được củng cố, tăng cường… Người nhắc nhở: Không chỉ đoàn kết ngoài miệng mà phải thật sự, đoàn kết trong công tác, trong học tập. Hay Người chỉ ra rất cụ thể về sự đoàn kết giữa cán bộ trẻ với cán bộ già và yêu cầu: “Đảng ta phải khéo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ”.

    Thật vinh dự, tự hào cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam khi được mang danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang luôn quan tâm, giáo dục, rèn luyện, dạy bảo. Bác Hồ thường xuyên chú trọng đến việc xây dựng, củng cố, tăng cường tình đoàn kết trong Quân đội, thực hiện toàn quân một ý chí. Người đánh giá rất cao vai trò, ý nghĩa của việc đoàn kết thống nhất trong Quân đội: “Cán bộ và chiến sĩ đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định vượt qua được khó khăn, sửa chữa được sai lầm, giành được thắng lợi”. Từ đó, Người nhắc nhở: “Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi” và “Cán bộ có thân đội viên như chân tay, đội viên mới thân cán bộ như ruột thịt”.

    Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và thắng lợi; đội ngũ cán bộ các cấp của Quân đội không ngừng rèn luyện phấn đấu về mọi mặt, xứng đáng là những tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về tinh thần đoàn kết cả trong và ngoài Quân đội. Có thể khẳng định, cán bộ Quân đội đã và đang thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Để lãnh đạo Quân đội tiến bộ không ngừng, các đồng chí cần trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi quần chúng và gương mẫu về mọi mặt. Dù ở cương vị nào, chúng ta đều phải cố gắng để xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành và tận tụy của nhân dân”.

    Hiện nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội luôn có đủ phẩm chất, năng lực, gương mẫu, liêm chính, đoàn kết thống nhất tiếp tục được Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội ta quan tâm thực hiện. Đội ngũ cán bộ Quân đội đã và đang rèn luyện theo tinh thần “7 dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung) để cùng với toàn quân thực hiện thắng lợi chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương: “Cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đủ đức, đủ tài, có uy tín cao; cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, chỉ huy phải mẫu mực trước toàn đơn vị”./.

HẬU QUẢ CỦA “HIỆU ỨNG ĐÁM ĐÔNG”? HÃY THẬT TỈNH TÁO!

     Tối 30/5, lãnh đạo Bệnh viện Trung ương Huế xác nhận, ông Lương Thanh Sơn (47 tuổi, ở TP Hồ Chí Minh) qua đời. Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng cơ thể tím tái, hôn mê sâu, ngừng tuần hoàn hô hấp. Bệnh nhân được nhập viện tại bộ phận cấp cứu hồi sức tích cực, sau đó được chuyển lên điều trị tại Khoa Hồi sức tích cực và chống độc. Các bác sĩ tiến hành cấp cứu ngưng tim cho bệnh nhân nhưng không thành công.

    Trước đó, ông Sơn được đưa vào bệnh viện Quảng Trị trong trạng thái hôn mê sâu do sốc nhiệt, kiệt sức và tai biến mạch máu não. Cơ quan chức năng phải mất một thời gian vất vả xác minh danh tính ông do ông không mang giấy tờ tùy thân theo người giống ông Minh Tuệ. Lúc đầu, cơ quan chức năng và bệnh viện không rõ ông là ai, có tiền sử bệnh tình như thế nào, chỉ biết là ông được các anh công an và người dân đưa vào viện.

    Được biết, ông Lương Thanh Sơn đi bộ hành cùng ông Thích Minh Tuệ mấy ngày nay. Khi đoàn di chuyển qua địa bàn thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị thì ông ngất xỉu và được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa huyện Triệu Phong vào lúc 10 giờ 30 phút cùng ngày.

    Liệu đây có phải là “hiệu ứng đám đông” khi thấy Thích Minh Tuệ và nhiều người khác đi bộ “tu khổ hạnh” giữa tiết trời nắng nóng của miền Trung mà nhiều người khác cũng đi theo khi không bảo đảm sức khoẻ. Vậy nên anh em nào đang muốn đi theo Thích Minh Tuệ thì cũng cần cân nhắc kỹ và tiên lượng sức khoẻ của mình nhé.

    Và hãy thật tỉnh táo trước những chiêu trò của các thế lực phản động lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc để cổ súy tư tưởng ly khai, chống đối; ráo riết ủng hộ những phần tử bất mãn, quá khích nhằm kích động biểu tình, gây bạo loạn. Cần nhận thức rõ những âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của chúng để không bị lôi kéo và có biện pháp phòng tránh kịp thời.

 

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA NGÀY QUỐC TẾ THIẾU NHI 1/6

     Quốc tế thiếu nhi 1/6 được biết đến là ngày Tết dành cho trẻ em. Đây là dịp để trẻ được vui chơi, nhận những món quà ý nghĩa từ người thân. Tuy nhiên, lịch sử ra đời của ngày lễ này không phải ai cũng biết.

    Quốc tế thiếu nhi 1/6 được biết đến là ngày Tết dành cho trẻ em. Đây là dịp để trẻ được vui chơi, nhận những món quà ý nghĩa từ người thân. Tuy nhiên, lịch sử ra đời của ngày lễ này không phải ai cũng biết.

    Lịch sử ra đời

    Vào rạng sáng ngày 1/6/1942, quân phát xít Đức bao vây làng Li-đi-xơ (Tiệp Khắc), chúng bắt 173 người đàn ông, 196 người phụ nữ và trẻ em. Tại đây, chúng đã tàn sát 66 người và đưa 104 em thiếu nhi vào trại tập trung, 88 em bị chết trong các phòng hơi độc, 9 em khác bị đưa đi làm tay sai cho bọn phát xít. Làng Li-đi-xơ không còn một bóng người.

    Hai năm sau, ngày 10/6/1944, phát xít Đức lại bao vây thị trấn Ô-ra-đua (Pháp), chúng dồn 400 người vào nhà thờ, trong đó có nhiều phụ nữ và hơn 100 trẻ em, phóng hỏa đốt cháy một cách thảm thương.

    Để tưởng nhớ đến hàng trăm trẻ em vô tội đã bị Đức Quốc Xã sát hại nhẫn tâm, năm 1949 Liên đoàn Phụ nữ dân chủ Quốc tế đã quyết định lấy ngày 1/6 hàng năm làm ngày quốc tế bảo vệ thiếu nhi, nhằm đòi chính phủ các nước phải nhận trách nhiệm về đời sống thiếu nhi, đòi giảm ngân sách quân sự để tăng ngân sách giáo dục, bảo vệ và chăm sóc thiếu niên, nhi đồng. Kể từ năm 1950, ngày 1/6 hàng năm trở thành ngày của thiếu nhi.

    Ngày Quốc tế thiếu nhi ở Việt Nam

    Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em - Văn kiện pháp lý Quốc tế đầu tiên đề cập toàn diện đến các quyền trẻ em dựa trên nguyên tắc trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt.

    Ở nước ta, ngay sau khi giành được độc lập, ngày 1/6 và Tết Trung thu (15/8 âm lịch) hàng năm đã thật sự trở thành ngày hội vui chơi tưng bừng của thiếu nhi cả nước.

    Ngày Quốc tế Thiếu nhi đầu tiên (1/6/1950) trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trải qua thời kỳ cam go ác liệt nhất, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn nghĩ tới thiếu nhi cả nước và gửi thư chúc mừng các cháu thiếu niên, nhi đồng.

    Từ đó, hàng năm cứ đến ngày Tết thiếu nhi và Tết Trung thu, thiếu nhi cả nước lại hân hoan đón thư chúc mừng của Bác Hồ.

Bác Hồ luôn hết sức quan tâm, dạy bảo các cháu nên người, trong đó 5 Điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng đã trở thành nội dung giáo dục đối với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.

 

Đấu tranh ngăn chặn hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch

 Thời gian qua, bên cạnh kết quả đạt được, công tác đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch còn có những hạn chế, bất cập. Một bộ phận cán bộ, đảng viên lơ là, mất cảnh giác trong nhận diện, đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành trong đấu tranh, ngăn chặn thông tin nhiễu loạn còn mang tính hình thức, thụ động. Công tác tuyên truyền phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi chưa đa dạng, phong phú; nội dung thiếu sắc bén, sức thuyết phục chưa cao. Việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có địa phương còn sơ hở, thiếu sót; tình trạng cán bộ cấp cơ sở quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch với người dân vẫn còn. Công tác giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện ở một số nơi còn chậm, kéo dài, để khiếu nại vượt cấp, gây bức xúc trong nhân dân, v.v. Đây chính là cái cớđể các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc gây nhiễu loạn thông tin.

Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động tuyên truyền gây nhiễu loạn thông tin, trước hết, phải đặt nhiệm vụ này dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan chuyên trách, chuyên sâu. Triển khai đồng bộ các mặt công tác từ nắm tình hình, phát hiện, phòng ngừa đến các biện pháp đấu tranh. Thường xuyên tranh thủ sự đồng lòng, ủng hộ của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Tăng cường công tác nắm tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, chủ động xử lý kịp thời những vấn đề mới nảy sinh; những bức xúc, nổi cộm ngay tại cơ sở.

Cùng với đó, chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, sử dụng các biện pháp kỹ thuật để bóc gỡ kịp thời các trang mạng, blog phản động đăng tải các tin, bài, video clip có nội dung xấu độc, xuyên tạc, trái với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lan tỏa thông tin tích cực để định hướng dư luận xã hội. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thông tin, truyền thông, quản lý internet, mạng xã hội. Nghiên cứu, rà soát xác định những quan hệ xã hội nảy sinh trên không gian mạng chưa được pháp luật điều chỉnh để cơ quan chức năng xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn thông tin xuyên tạc, nhiễu loạn, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thành quả của công cuộc đổi mới, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc./.

Thủ đoạn gây nhiễu loạn thông tin

 Các thế lực thù địch không ngừng thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta với tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt. Trong đó, tấn công trên mặt trận tư tưởng, văn hóa là “mũi đột phá”.  Chúng triệt để lợi dụng sự phát triển của internet, mạng xã hội nhằm tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu độc, bịa đặt, thật giả lẫn lộn, hòng gây nhiễu loạn thông tin; gieo rắc tư tưởng hoài nghi, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, v.v.      

Nhằm xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, họ cố tình lớn tiếng cho rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã “lỗi thời”, nên cần phải thay đổi bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản. Đồng thời, ra sức tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản, tự ngộ nhận rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là xã hội áp bức, bóc lột, v.v. Thông qua đó, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, thành tựu công cuộc đổi mới đất nước cũng như mục tiêu, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, chúng ra sức xuyên tạc, bóp méo sự thật về cuộc đấu tranh chống tham nhũng, nhất là khi Đảng, Nhà nước ta đẩy mạnh xử lý các vụ án tham nhũng về kinh tếNgoài ra, chúng còn bới móc, thổi phồng, xuyên tạc những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế, thiếu sót trong quản lý nhà nước để vu khống, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của Đảng, cấp ủy, chính quyền các cấp./. 

Âm mưu, thủ đoạn mới trong “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch

 Thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, các thế lực thù địch luôn coi việc phá hoại tư tưởng là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng với chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh các thủ đoạn chống phá mới, đó là: Chúng tìm cách đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến đảng viên và nhân dân. So sánh các chế độ, chính sách liên quan đến đời sống nhân dân ta với các nước phương Tây; vấn đề tự do, dân chủ, hòng làm cho người dân thấy như “xã hội Việt Nam đang có vấn đề” dẫn đến hoài nghi, mơ tưởng về một “xã hội khác tốt đẹp hơn”. Chúng điều chỉnh thủ đoạn chống phá từ công kích trực diện vào nền tảng tư tưởng, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng đối lập, đòi bỏ điều 4. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do không đem lại kết quả. Chúng sử dụng các cách thức tác động tinh vi, xảo quyệt đối với từng đối tượng cụ thể. Đối với cán bộ, đảng viên, chúng thổi phồng khuyết điểm yếu kém của một số địa phương và một số cá nhân đảng viên, đánh đồng giữa  tập thể, cá nhân tốt với tập thể và cá nhân có khuyết điểm, sai phạm hòng làm cho nhân dân mất niềm tin vào Cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đối với các tầng lớp nhân dân, chúng lợi dụng việc tiếp cận thông tin còn hạn chế, đưa những thông tin sai lệch, nhằm tạo khoảng trống trong tư tưởng nhân dân, làm cho nhân dân hoài nghi, mất niềm tin với chế độ, Đảng và nhà nước, từ đó chúng kích động các hoạt động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trước những thủ đoạn mới của các thế lực thù địch chống phá đất nước ta, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện, giữ vững lập trường, tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chủ động phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa./. 

Đấu tranh với thủ đoạn bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước

Việc bôi nhọ, hạ uy tín lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ta là trò không mới của các thế lực thù địch, phản động. Tuy nhiên, với cách tuyên truyền kiểu “mưa dầm thấm lâu” của chúng, nếu hệ thống thông tin, truyền thông của chúng ta không cung cấp được những thông tin chính thống, kịp thời để đáp trả lại các luận điệu xuyên tạc, vạch trần sự vu khống, dối trá đó thì sẽ có tác hại rất lớn đến nhân dân.

Phòng ngừa, ngăn chặn những tác động tiêu cực của hoạt động này chính là góp phần quan trọng bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị là trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Chúng ta cần làm tốt công tác nắm tình hình, công khai thông tin cho cán bộ, chiến sĩ. Để nâng cao cảnh giác trước những thông tin kẻ xấu lập lờ xuyên tạc thì giải pháp tốt nhất là phải cung cấp, công khai những thông tin chính thống, trừ thông tin “mật” về quốc phòng, an ninh. Bên cạnh đó, phải thường xuyên nâng cao sức “đề kháng” cho cán bộ, chiến sĩ để tự làm sạch thông tin trước khi tiếp nhận, hoặc tự loại bỏ thông tin độc hại. Do vậy, các cơ quan, đơn vị tiếp tục chủ động, tích cực ngăn chặn, đẩy lùi, bác bỏ các thông tin xấu trên mạng xã hội; thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục chính trị nhằm củng cố vững chắc trận địa tư tưởng, văn hóa của Đảng trong quân đội, đặc biệt chăm lo công tác xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị; tăng cường công tác kiểm tra, chấn chỉnh và quản lý chặt chẽ việc sử dụng Internet, mạng xã hội của bộ đội; đẩy mạnh giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ chấp hành nghiêm các quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Mạng xã hội là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta. Ngoài việc sử dụng mạng xã hội để chống phá, chúng triệt để móc nối, sử dụng những đối tượng chống đối trong nước để “tiếp sức” phá hoại. Do vậy, cảnh giác với các thông tin bịa đặt, độc hại trên mạng xã hội của các thế lực thù địch, phản động, đập tan âm mưu, thủ đoạn của chúng là rất quan trọng và cần thiết ở các đơn vị hiện nay./. 

phương thức hoạt động chống phá nguy hiểm của các thê lực thù địch

 Có thể hiểu, “bất bạo động” là thuật ngữ dùng để chỉ một phương thức hoạt động chống đối của các thế lực thù địch, phản động không sử dụng vũ khí, súng đạn mà sử dụng các thủ đoạn “bất hợp tác”, “bất phục tùng”, “bất tuân dân sự” kết hợp với sử dụng áp lực của quần chúng để gây áp lực với Đảng, Chính phủ, từ đó làm suy yếu, tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và chính phủ, nhà nước đương nhiệm ở các quốc gia.

Được sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch bên ngoài, các lực lượng đối lập, phần tử chống đối chính phủ tại các quốc gia này triệt để lợi dụng sự khủng hoảng, tình trạng mất ổn định chính trị, xã hội trong nước, thông qua hô hào sử dụng “bất bạo động” đã kích động, lôi kéo được hàng vạn người dân xuống đường biểu tình, bạo loạn, lật đổ chính phủ cầm quyền tại các nước này. 

Ở nước ta, trong thời gian gần đây, đặc biệt là sau khi hàng loạt các cuộc “cách mạng sắc màu” nổ ra tại một số nước không gian hậu Xô viết, với kịch bản được các thế lực thù địch áp dụng nhằm hậu thuẫn cho các lực lượng đối lập lật đổ chính quyền đương nhiệm tại các quốc gia này thì phương thức “bất bạo động” đã và đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để sử dụng để chống phá Việt Nam với mục đích cuối cùng là lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.

Có thể thấy rằng, “bất bạo động” là một phương thức hoạt động với những thủ đoạn “mềm dẻo” không bộc lộ trực tiếp và lộ liễu tính thách thức về chính trị và sự đối kháng với chính quyền. Điều này không chỉ giúp các đối tượng tránh được sự trấn áp của chính quyền mà còn gây ra nhiều khó khăn đối với công tác phát hiện, đấu tranh của lực lượng chức năng. Nguy hiểm hơn nữa là nó có khả năng gây ra mơ hồ, ngộ nhận trong một bộ phận quần chúng và sự “ủng hộ” trong dư luận quốc tế và trong nước, dễ lừa bịp, lôi kéo sự tham gia của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là đối với thanh niên, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ, thậm chí kể cả cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Vì vậy, việc nhận diện bản chất của “bất bạo động” có ý nghĩa hết sức quan trọng./. 

Quốc hội Việt Nam luôn được tin tưởng

 Trong thời gian vừa qua, các hoạt động của Quốc hội cho thấy, không khí dân chủ, cởi mở, vai trò của các đại biểu Quốc hội càng được thể hiện rõ trong các phiên chất vấn và trả lời chất vấn. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước. Các nội dung bàn về kinh tế-xã hội, và đặc biệt là các phiên chất vấn trong những kỳ họp của Quốc hội ngày càng sôi nổi, được phát thanh-truyền hình trực tiếp, thu hút sự quan tâm theo dõi, đánh giá, góp ý của cử tri và nhân dân cả nước. Việc tranh luận được khuyến khích khiến vấn đề chất vấn được làm rõ ràng hơn, nhất là các mặt hạn chế, trách nhiệm cán bộ và nêu rõ giải pháp

 

Các chương trình giám sát của Quốc hội cũng thể hiện rõ hiệu quả. Cùng với những nội dung giám sát thường xuyên như về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước... thời gian qua, Quốc hội đã chọn những vấn đề “nóng” nhất, được cử tri và nhân dân quan tâm nhất để tiến hành giám sát tối cao.

          Thực tế đó là minh chứng bác bỏ đanh thép đối với những luận điệu của những đối tượng có âm mưu đen tối, cố tình xuyên tạc rằng “Quốc hội không có vai trò thực chất, chỉ quyết nghị theo chỉ đạo của Đảng, chỉ mang tính hình thức, người dân thì quay lưng, ngoảnh mặt với hoạt động của Quốc hội”. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn vì lợi ích của nhân dân! Điều đó không chỉ đúng về mặt lý luận, mà luôn được chứng minh rõ ràng trong thực tế, không ai có thể phủ nhận./.

Thủ đoạn của những kẻ có mưu đồ đen tối

 Trong thời gian chuẩn bị cho các kỳ họp Quốc hội, các thế lực thù địch và những kẻ thiếu thiện chí tập trung chống phá, xuyên tạc về hoạt động của Quốc hội ta. Họ cho rằng, Quốc hội ta hoạt động không dân chủ, Quốc hội không có vai trò thực chất(!) Nhưng thực tế, hiệu quả hoạt động và sự quan tâm đặc biệt của xã hội đối với hoạt động của Quốc hội những năm qua đã vạch trần các luận điệu xuyên tạc nói trên. Các luận điệu đó, chỉ là đòn vô vọng của những kẻ có mưu đồ đen tối nhằm chống phá cách mạng nước ta.

Mỗi quốc gia đều có một chế độ chính trị phù hợp với lịch sử, văn hóa và điều kiện kinh tế-xã hội của mình. Chế độ chính trị mà toàn thể dân tộc Việt Nam đang đồng lòng, nỗ lực xây dựng là chế độ chính trị pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là vấn đề cốt lõi, hết sức rõ ràng của chế độ chính trị nước ta. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được quy định rõ trong Hiến pháp của Việt Nam, phù hợp với ý chí của toàn dân tộc, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.

Hiến pháp đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Điều này không hề làm mất đi vai trò của Quốc hội. Bởi quyền lực nhà nước ở nước ta là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng đó là sự lãnh đạo có nguyên tắc và theo quy định. “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4, Hiến pháp năm 2013). Như vậy, mối quan hệ giữa Đảng và Quốc hội vẫn là mối quan hệ biện chứng, hai chiều, nghĩa là Đảng lãnh đạo hoạt động của Quốc hội, nhưng sự lãnh đạo đó vẫn phải trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không thể đứng trên, đứng ngoài Hiến pháp và pháp luật đã được Quốc hội thông qua. Đảng lãnh đạo nhưng luôn tôn trọng và phát huy vai trò của Quốc hội, không áp đặt, không làm thay, mà định hướng nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội. Điều đó cho thấy, nhữngluận điệu mà các phần tử cơ hội đưa ra chỉ là bịa đặt, phản động./. 

Mọi âm mưu và thủ đoạn tinh vi, xảo trá đến mấy cũng sẽ bị phơi bày

 Luôn rêu rao rằng, mục đích hoạt động là nhằm đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ nhân quyền trên thế giới để thúc đẩy dân chủ, nhân quyền cho người dân Việt Nam dựa trên tinh thần của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và các văn kiện quốc tế khác về nhân quyền, vậy mà cái gọi là “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” lại đi trao giải cho những nhân vật đã vi phạm pháp luật Việt Nam, vi phạm Công ước quốc tế thì quả là việc làm không thể chấp nhận được.

Nhìn vào việc làm của cái gọi là “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” dư luận có thể thấy ngay cái mục đích mỹ miều mà tổ chức này đặt ra chỉ là dối trá, lừa bịp để nhận những đồng đô la bố thí từ một vài tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam. Họ ngày càng lộ nguyên hình là tổ chức “phản động lưu vong”, một tập hợp của những phần tử “dân chủ cuội” không hơn không kém. Với một tổ chức ô hợp như thế thì chỉ những người mù quáng mới tin rằng họ sẽ thúc đẩy quyền con người, đem lại những điều tốt đẹp cho đất nước Việt Nam.

Mục đích hành động trao “Giải thưởng nhân quyền” của cái gọi là “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” không nhằm gì khác là hà hơi tiếp sức, kích động cho những phần tử phản động trong nước ngày càng liều lĩnh chống Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Nhìn bề ngoài việc trao “Giải thưởng nhân quyền” là do cái gọi là “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” tiến hành, nhưng nhìn sâu kỹ hơn chúng ta sẽ thấy đứng sau mỗi “giải thưởng nhân quyền” ấy đều có hình bóng trực tiếp hoặc gián tiếp điều hành của một số nước phương Tây và đồng minh. Xét cho đến cùng, những việc làm ấy đều nằm trong âm mưu, thủ đoạn chống phá nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình" với cách mạng Việt Nam. Nhưng “vải thưa” không che nổi mặt trời. Mọi âm mưu và thủ đoạn ấy dù có nham hiểm, tinh vi, xảo trá đến mấy cũng sẽ bị phơi bày và đập tan bởi tinh thần cảnh giác cao độ của nhân dân Việt Nam./. 

Pháp luật Việt Nam luôn công minh

 Theo Công ước quốc tế, các quốc gia thành viên cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý của mình các quyền đã được công nhận... Nhưng việc thực hiện các quyền đã được công nhận trong công ước này có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác.

Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam luôn giữ đúng nguyên tắc, sát với thực tế đất nước, phù hợp và không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Ở Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác... Hành vi tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt, kích động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam; âm mưu tổ chức hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân của các đối tượng rõ ràng đã gây bất ổn cho an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm quyền tự do cơ bản của người khác... và phải chịu những hình phạt nghiêm minh của pháp luật là tất yếu./. 

Không để tiếp tay cho kẻ sấu

 Thực tế cho thấy nhận thức về phản biện xã hội của nhân dân ta còn có những khoảng trống. Do vậy, muốn làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng để chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, chúng ta cần đặt lên hàng đầu việc tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về hoạt động phản biện xã hội. Có như vậy mới giúp người dân hiểu đúng mục đích, ý nghĩa của công việc hệ trọng này, phân biệt được đâu là tích cực, đâu là tiêu cực, từ đó đề cao cảnh giác, chủ động phát hiện, kịp thời đấu tranh với những hành vi lợi dụng phản biện xã hội để chống phá.

Vai trò định hướng để hoạt động phản biện xã hội diễn ra đúng mục đích, ý nghĩa và đem lại hiệu quả tích cực của các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan chức năng là rất quan trọng. Cùng với phát huy tốt vai trò định hướng, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp cần quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp nhân dân được tiếp cận thông tin, nghiên cứu, thể hiện quan điểm, chính kiến của mình đối với từng nội dung liên quan tới đường lối, chủ trương, chính sách, thể chế... tác động trực tiếp đến quyền lợi của người dân.

Đi đôi với mở rộng dân chủ, tổ chức chặt chẽ hoạt động phản biện xã hội tích cực, cần làm tốt việc nắm bắt, tổng hợp, tiếp thu ý kiến của nhân dân để trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định. Trong tổng hợp và ghi nhận những ý kiến đóng góp của nhân dân, các cơ quan chức năng cần có sự đánh giá, phân tích kỹ lưỡng, thận trọng, không để kẻ xấu lợi dụng phản biện xã hội để thực hiện những mục đích đen tối. Các lực lượng chức năng cần chủ động phát hiện những hội, nhóm, cá nhân lợi dụng phản biện xã hội để tuyên truyền, tán phát những quan điểm sai trái trên mạng xã hội, từ đó có biện pháp kiên quyết đấu tranh. Đối với những trang mạng lợi dụng phản biện xã hội để tuyên truyền theo kiểu xuyên tạc, kích động chống phá Nhà nước Việt Nam, âm mưu làm mất ổn định chính trị ở Việt Nam thì cần tổ chức lực lượng phối hợp với các nhà mạng, kết hợp giữa biện pháp kỹ thuật với biện pháp hành chính để đấu tranh ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật./. 

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2024

SỰ THẬT CÁI GỌI LÀ "VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN"!

     Những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, với động cơ thiếu trong sáng, vẫn có một số tổ chức quốc tế cố tình đưa ra những báo cáo phiến diện nhằm xuyên tạc tình hình, phủ nhận các thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam!

Đánh tráo khái niệm, xuyên tạc thực tế
Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31-10-2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn xuyên tạc thực tế khi đưa ra đánh giá “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” với minh chứng là cơ quan chức năng xử lý các trang Facebook cá nhân của một vài đối tượng hoạt động chống phá Nhà nước trên mạng xã hội.

Song, điều nực cười là báo cáo trên đã phớt lờ sự thật, rằng internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Internet có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Nhờ đó, sau gần 30 năm kết nối internet, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Trung bình người Việt Nam dành gần 7 giờ/ngày để sử dụng internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Rõ ràng, internet ở Việt Nam đã “bùng nổ” mạnh mẽ, hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như nội dung nêu trong Báo cáo nhân quyền năm 2023. Không thể đồng nhất việc xử lý các đối tượng lợi dụng internet, lợi dụng mạng xã hội để tán phát những thông tin sai trái, chống phá Nhà nước, xâm hại lợi ích của tổ chức, cá nhân, với cái gọi là “hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Bởi việc xử lý các đối tượng dùng internet vi phạm pháp luật là biện pháp đã và đang được tất cả quốc gia áp dụng nhằm lành mạnh hóa môi trường internet, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó có một số nội dung về Việt Nam vừa được công bố hôm 22-4 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22-4-2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam”.

Không thể phủ nhận nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
Thực tế, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Theo đó, nhiều năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Từ năm 2019 đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua 44 luật, trong đó nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Mặt khác, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng...

Đặc biệt, năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình cho sự ghi nhận ấy là việc ngày 11-10-2022, Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người.

Đến đây, chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ cái gọi là “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... được đề cập trong Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ là những nhận định thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam./.
Yêu nước ST.

PHÒNG CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”: THÔNG TIN CHẬM, SAO ĐỊNH HƯỚNG ĐƯỢC DƯ LUẬN?

     Thấy ông Tiến là bạn già cùng ngõ không đặt mua báo nữa, ông Huy tưởng bạn tiết kiệm tiền vì mấy tháng nay ông Tiến hay phải mua thuốc chữa bệnh. Cuối buổi chiều, ông Huy mang tờ báo vừa đọc sang nhà ông Tiến chơi, rồi chân thành nói:
- Từ nay, tôi đọc báo xong sẽ mang cho ông đọc nhé! Nghe nói đợt này ông phải mua nhiều thuốc men nên cũng tốn kém...
- Cảm ơn ông lúc nào cũng chu đáo với tôi. Nhưng nói thật, tôi vẫn có tiền đặt báo, chỉ tạm nghỉ vì báo chính thống thường đưa tin chậm, thậm chí không đăng những thông tin dư luận đang rất quan tâm. Nhất là gần đây, thông tin về nhân sự cấp cao các trang mạng “lề trái” đăng nhiều...

Thấy ông Tiến có vẻ tin mạng xã hội hơn cả báo chí chính thống, ông Huy không khỏi lo ngại:
- Ông đọc và tin vào những trang “lề trái” là sai lầm đấy! Họ đưa đầy thông tin suy diễn, xuyên tạc sự thật, thổi phồng sự việc nhằm thực hiện âm mưu đen tối là chống phá Đảng, Nhà nước ta...
- Tôi biết rõ điều này và tôi cũng luôn tỉnh táo, đọc để tham khảo chứ không phải cái gì cũng tin. Chỉ buồn là báo chính thống của ta thường "im ắng" trước những việc dư luận đang rất quan tâm nên nhiều người dân vào mạng xã hội để xem.

Đáng nói hơn là một số thông tin trên mạng sau một thời gian lại diễn ra đúng như vậy. Sao chúng ta không chủ động thông tin cho người dân biết mà cứ để thông tin đó bị rò rỉ trên những trang “lề trái” kèm những phân tích, bình luận đầy suy diễn theo kiểu thuyết âm mưu? Sao khi có những thông tin xuyên tạc, không đúng sự thật trên mạng, các cơ quan chức năng của ta không phản ứng, bác bỏ ngay để kịp thời định hướng dư luận? Việc không chủ động cung cấp thông tin cho báo chí, trong khi một số đối tượng lại biết để đăng lên mạng xã hội đã làm mất dần vai trò của báo chí chính thống.

Đây là vấn đề rất đáng báo động, cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm và có giải pháp khắc phục để công chúng tin và tìm đọc báo chính thống, không bị cuốn theo mạng xã hội. Như thế chúng ta mới định hướng được dư luận, người dân không bị mắc mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch...
- Ông nói chí lý! Sở dĩ nhiều người tìm đọc những trang “lề trái” dù đa phần là thông tin xuyên tạc, sai sự thật nhằm phá hoại đất nước, trước hết là do tò mò khi chúng ta chưa chủ động cung cấp thông tin cho các báo chính thống, cũng không kịp thời bác bỏ những thông tin sai sự thật đầy thuyết âm mưu.

Đã đến lúc Đảng, Nhà nước cần xử lý thật nghiêm việc để lộ lọt những thông tin mật, đồng thời công khai thông tin hơn, phản bác kịp thời hơn trước những thông tin sai trái, bịa đặt. Làm được như thế thì báo chí mới phát huy tốt vai trò cung cấp thông tin chính thống để định hướng dư luận đúng đắn, ông nhỉ! Nếu không thì nguy hiểm lắm...
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: XÂY DỰNG LUẬT CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC TIỄN "TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ HÌNH THÀNH TỔ HỢP CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG"!

     Quy định về tổ hợp công nghiệp quốc phòng (CNQP) là nội dung mới của dự thảo Luật CNQP, an ninh và động viên công nghiệp nhằm thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển CNQP đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Việc dự thảo luật bổ sung quy định về tổ hợp CNQP là cần thiết, với mục tiêu luật hóa các quy định, tạo cơ sở pháp lý hình thành nên các tổ hợp CNQP!

Tổ hợp CNQP đóng vai trò rất quan trọng, dẫn dắt trong hệ thống đổi mới sáng tạo tại các cường quốc trên thế giới. Nhiều nước trên thế giới có xu hướng phát triển tổ hợp CNQP hiện đại, bảo đảm cho lực lượng vũ trang có trang bị kỹ thuật hiện đại, sức mạnh chiến đấu cao nhằm ứng phó hiệu quả với chiến tranh công nghệ cao. Theo dự thảo Luật CNQP, an ninh và động viên công nghiệp, tổ hợp CNQP không hình thành pháp nhân, không phải là tập đoàn mà được xác định là hệ thống liên kết, hợp tác của cơ sở CNQP, tổ chức, doanh nghiệp đáp ứng điều kiện nhất định, lấy cơ sở CNQP nòng cốt làm hạt nhân để hình thành chuỗi giá trị tạo ra sản phẩm quốc phòng theo nhóm, chuyên ngành sản phẩm vũ khí, trang bị kỹ thuật. Dự thảo luật chỉ quy định theo hướng xác định khung, nguyên tắc về các nội dung: Chức năng, nhiệm vụ, thành phần của tổ hợp CNQP; hạt nhân của tổ hợp CNQP; thành phần khác của tổ hợp CNQP; chính sách của Nhà nước đối với tổ hợp CNQP. Đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết.

Bên cạnh đó, dự thảo luật cũng đã quy định các chính sách cụ thể và đặc thù cho hạt nhân của tổ hợp CNQP như: Nhà nước giao nhiệm vụ chủ trì thực hiện chương trình nghiên cứu, thiết kế, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật theo chuyên ngành sản phẩm; tự chủ điều phối trong nghiên cứu, sản xuất, huy động năng lực của tổ hợp CNQP; Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ chương trình nghiên cứu, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật do Nhà nước đặt hàng, giao thực hiện; sử dụng cơ sở hạ tầng do Nhà nước đầu tư để phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; lập danh sách cơ sở CNQP là thành viên của tổ hợp CNQP, ưu tiên cơ sở công nghiệp động viên, trình Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phê duyệt... Đây là bước đầu tạo hành lang pháp lý để xây dựng, hoàn thiện thể chế cho loại hình tổ hợp CNQP này, góp phần thúc đẩy hình thành tổ hợp CNQP trong thực tiễn.

Tổ hợp CNQP liên quan đến tiềm lực, sức mạnh quốc phòng; đến sự an nguy và thịnh vượng của quốc gia. Do đó, cần xây dựng về các cơ chế ưu tiên phát triển tổ hợp CNQP để tạo ra sự vượt trội, CNQP phát triển hiện đại, lưỡng dụng và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia./.
Ảnh: Lãnh đạo Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, kiểm tra sản phẩm của Nhà máy Z115.
Yêu nước ST.

Đại tướng Phan Văn Giang: Việc thành lập Quỹ quốc phòng, an ninh là rất cần thiết nhằm hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách

 

Chiều 30-5, thay mặt Bộ Quốc phòng, cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã có giải trình, làm rõ thêm một số vấn đề mà đại biểu Quốc hội nêu.

Trước hết, Đại tướng Phan Văn Giang trân trọng cảm ơn những ý kiến phát biểu tâm huyết, trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội và cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo đã nghiên cứu, sẽ tiếp thu tối đa ý kiến của các đại biểu Quốc hội để hoàn thiện dự thảo luật, bảo đảm thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật.

Việc thành lập Quỹ quốc phòng, an ninh là rất cần thiết nhằm hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách

Đề cập đến Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh, Đại tướng Phan Văn Giang cho biết, việc thành lập Quỹ quốc phòng, an ninh là rất cần thiết nhằm hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách hoặc để nghiên cứu phát triển sản phẩm quốc phòng, an ninh; các sản phẩm này có tính mới và cũng có tính rủi ro rất cao. 

“Đặc biệt, nếu chúng ta sử dụng ngân sách theo quy trình của sử dụng ngân sách nhà nước thì cũng có những trường hợp không đáp ứng được tính thời sự của nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và độ bảo mật cũng hạn chế hơn rất nhiều”, Đại tướng Phan Văn Giang nói và nhấn mạnh đến tính đặc thù của quỹ là để khi cần thì có thể sử dụng được ngay.

“Các nước phát triển công nghiệp trên thế giới cũng đều có quỹ này”, Đại tướng Phan Văn Giang cho biết thêm.

Công nghiệp quốc phòng, an ninh có vai trò đặc biệt quan trọng

Trước đó, đại biểu Nguyễn Quốc Duyệt, Tư lệnh Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội, đại biểu Quốc hội đoàn TP Hà Nội bày tỏ quan tâm đến việc hình thành Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh.

“Việc thành lập quỹ này là cần thiết vì công nghiệp quốc phòng, an ninh có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế, các nước có nền công nghiệp quốc phòng, an ninh phát triển đều có quỹ tài chính để phục vụ cho lĩnh vực này. Việc huy động nguồn vốn hợp pháp ngoài ngân sách nhằm xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh sẽ góp phần giảm gánh nặng đối với ngân sách nhà nước”, đại biểu nhấn mạnh.

Theo đại biểu Nguyễn Quốc Duyệt, thời gian vừa qua, việc triển khai các chương trình, dự án đặc biệt thường phải vận dụng qua cơ chế của Quỹ dự trữ ngoại hối và phải áp dụng các cơ chế đặc thù do cấp có thẩm quyền quyết định. Đối với nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ, nhất là các nhiệm vụ cấp bách, rủi ro cao, rất cần thiết cho sự chủ động, linh hoạt trong bố trí nguồn lực nhằm bảo đảm chất lượng và tiến độ của công việc.

“Hình thành một quỹ tài chính để hỗ trợ ngân sách nhà nước phục vụ cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh là giải pháp cơ chế đặc thù vượt trội và có ý nghĩa chiến lược, nhất là trong triển khai các chương trình, dự án đầu tư có tính cấp bách hay nghiên cứu, chế tạo vũ khí trang bị có ý nghĩa chiến lược”, đại biểu nhấn mạnh.

 

Nêu gương trong công tác tư tưởng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Phương pháp nêu gương đạo đức cách mạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong mọi công tác của Đảng, nhất là công tác tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, công tác tư tưởng là công tác hàng đầu. Muốn công tác này đáp ứng yêu cầu ngang tầm nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, nêu gương đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh, đối với cán bộ, đảng viên, đạo đức cách mạng là cái gốc, nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng trở nên vô dụng. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Đạo đức cách mạng giúp cán bộ, đảng viên vững vàng trong mọi thử thách. Có đạo đức cách mạng thì “khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước ... Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc”. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải noi gương các thế hệ tiền bối: “Suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Một ngày nào mà .... nhân dân ta chưa được sung sướng, yên vui thì tất cả chúng ta vẫn phải đem hết tinh thần và nghị lực mà phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng hoàn toàn thắng lợi”; phải có ý thức “gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.

Trên cơ sở không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên phải là tấm gương sáng để dân tin, dân mến, dân làm theo; phải xứng đáng là “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân, vừa phục vụ nhân dân, vừa lãnh đạo nhân dân thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ba nguyên tắc trong thực hành nêu gương: Một là, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. Thế hệ đi trước làm gương cho thế hệ đi sau; ông bà làm gương cho con cháu, cha mẹ nêu gương cho con cái, anh chị làm gương cho em; lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên; đảng viên làm gương trước quần chúng. Hai là, xây đi đôi với chống, xây dựng đạo đức cách mạng phải gắn chặt với chống chủ nghĩa cá nhân. Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, phải kiên quyết chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, chống “chủ nghĩa cá nhân”, phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Ba là, tu dưỡng đạo đức suốt đời, thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mỗi cán bộ, đảng viên.

Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện và nhân rộng mô hình “người tốt, việc tốt” để tăng cường hiệu quả của việc giáo dục, thuyết phục và vận động cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân: “Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau, đó chính là một cách tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin thiết thực nhất”; “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.

Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương là phương pháp hết sức quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, nhất là về tính giáo dục và  thuyết phục. Cán bộ, đảng viên nêu gương, đi đầu thì vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng rất hiệu quả. Ngược lại, cán bộ, đảng viên nói mà không làm, làm cầm chừng, thiếu trách nhiệm thì có vận động mấy cũng khó mà làm cho dân tin, dân theo.