Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2024

Cảnh giác với chiêu trò mạo danh “phản biện xã hội” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam

Những năm qua, trong khi đại đa số nhân dân đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy dân chủ, trí tuệ, tích cực tham gia phản biện xã hội với tinh thần xây dựng, giúp cho Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn, lãnh đạo và quản lý đất nước hiệu quả, thì vẫn có những đối tượng cố tình lợi dụng phản biện xã hội để tung ra những quan điểm, luận điệu phản động, sai trái, gây nhiễu loạn đời sống chính trị-xã hội của đất nước.

Những năm qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức hậu thuẫn, kích động các đối tượng trong nước lợi dụng phản biện xã hội để tập hợp lực lượng chống đối chính trị, thúc đẩy sự đối kháng trong xã hội, tạo các lực lượng đối lập. Họ nhân danh phản biện để phản bác, chống đối các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Họ thường lợi dụng các thời điểm nhạy cảm chính trị của đất nước như trước và trong quá trình tổ chức đại hội Đảng, các kỳ bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp hoặc khi diễn ra những sự kiện quốc tế quan trọng; khi Quốc hội, Chính phủ lấy ý kiến nhân dân về các dự thảo luật, chương trình, đề án... để lấy danh nghĩa phản biện xã hội tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của đất nước.

Những hoạt động này của các thế lực thù địch khá đa dạng, song tập trung ở một số thủ đoạn: (1) Lợi dụng internet, mạng xã hội, lấy danh nghĩa phản biện xã hội để đưa ra những bài nói, bài viết, các video clip nêu những ý kiến sai lệch về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quyết sách cụ thể ở các bộ, ngành, địa phương; (2) thông qua hình thức gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị” gửi các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước với dụng ý không lành mạnh; (3) lợi dụng các diễn đàn quốc tế, các cơ quan báo chí nước ngoài để nêu quan điểm bằng bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn với nội dung xuyên tạc, thổi phồng, bôi đen những hạn chế trong nước, nhất là tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước, hòng làm cho thế giới hiểu sai về đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam; (4) khi Đảng, Nhà nước, các cơ quan bộ, ngành, địa phương không tiếp nhận những ý kiến “phản biện” (thực chất là các luận điệu, quan điểm, ý kiến phản động, phá hoại) thì vu khống Đảng, Nhà nước ta vi phạm, đàn áp dân chủ.

Phản biện xã hội là việc phân tích, đánh giá, lập luận, tranh luận có tính chất độc lập, khoa học của các lực lượng xã hội (bao gồm cá nhân hoặc tổ chức) nhằm khẳng định hoặc bác bỏ, hay đề xuất sửa đổi chủ trương, chính sách, từ đó giúp cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh cho phù hợp hơn với lợi ích chung của cộng đồng. Xét về bản chất, phản biện xã hội là một hình thức thể hiện quyền tự do được xây dựng trên cơ sở quyền tự do ngôn luận. Theo đó, phản biện xã hội chính là quyền bày tỏ ý kiến một cách có hệ thống và có cơ sở khoa học nhằm thực hiện quyền dân chủ của cá nhân đã được ghi nhận trong các điều ước quốc tế về quyền con người.

Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Hiến pháp và pháp luật, nước ta đã cụ thể hóa quyền tham gia phản biện xã hội của các tổ chức chính trị-xã hội, các tầng lớp nhân dân. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định một số quyền con người, quyền công dân có nội dung liên quan mật thiết đến phản biện xã hội như quyền được thông tin, quyền tự do ngôn luận, quyền trưng cầu ý dân, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Theo đó, Điều 28 quy định: “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan Nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.

Phản biện xã hội ở Việt Nam là một phương thức hữu hiệu để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, là bước phát triển cao của hình thức dân chủ trực tiếp, thể hiện rõ vai trò chủ thể quyền lực của nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Người dân có thể sử dụng quyền lực của mình một cách trực tiếp thông qua việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, hoặc kiến nghị, đóng góp ý kiến, phản biện, hoặc trực tiếp tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và biểu quyết khi được trưng cầu ý kiến.

Như vậy, phản biện xã hội ở Việt Nam không chỉ là con đường, phương thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình mà còn là để bảo vệ quyền làm chủ của mình; không chỉ là công cụ để nhân dân kiểm soát quyền lực Nhà nước mà còn để bảo vệ Đảng, Nhà nước. Bản chất tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa quy định phản biện xã hội ở Việt Nam phải thể hiện được tính xây dựng, không phải để tạo ra sự xa cách, chia rẽ, đối lập nhân dân với Đảng, Nhà nước, mà là để nhân dân tiến gần hơn với hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm cho “ý Đảng hợp với lòng dân”, để nhân dân thực thi một cách trực tiếp, thực chất hơn quyền lực của mình, đồng thời giúp cho Nhà nước hoàn thành tốt hơn vai trò phục vụ nhân dân. Do đó, mọi âm mưu, hành vi lợi dụng phản biện xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ phá hoại mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần phải kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.

Phòng, chống thủ đoạn lợi dụng trí tuệ nhân tạo để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng

Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence-AI) đã, đang và sẽ mở ra những cơ hội cũng như thách thức đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sức mạnh AI có thể được sử dụng để tăng cường hiệu quả truyền thông, quản lý và định hướng tư tưởng. Tuy nhiên, đi liền với cơ hội là nguy cơ khi các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để “nâng cấp” các thủ đoạn phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực tế đó đặt ra phải triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp nhằm tận dụng cơ hội cũng như phòng ngừa mặt trái từ AI, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động tận dụng AI và mạng xã hội để “nâng cấp” các thủ đoạn phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng một cách bài bản, có tổ chức và ngày càng tinh vi hơn. Thủ đoạn phổ biến mà các thế lực thù địch đang sử dụng là lợi dụng AI để tạo và lan tỏa thông tin xấu độc (tin giả) đến các tầng lớp nhân dân một cách liên tục, rộng khắp, thần tốc với mục tiêu gây hoang mang, xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Các thế lực thù địch tạo ra thông tin xấu độc bằng cách lợi dụng AI tạo ra những câu chuyện hoàn toàn không có thật, thông tin dựa trên đồn đoán, chèn thông tin giả vào một sự kiện có thật, chắp nối các sự kiện không liên quan với nhau, sử dụng nhân chứng giả hoặc nhân chứng có thành kiến (định kiến) về một chủ đề, trích dẫn tuyên bố của một người có uy tín vào một tình huống không liên quan.

Dưới sự hỗ trợ của AI, các đối tượng đã tạo ra các nhân vật ảo với khuôn mặt và giọng điệu giống hệt những người dẫn chương trình từ các kênh thông tin chính thống. Tiếp đó, chúng xây dựng những kịch bản hấp dẫn, thường có tính chất gay cấn với nội dung sai lệch, phản động, nhằm thu hút sự chú ý và tương tác từ cộng đồng mạng. Nhiều video còn được gắn thêm logo của các kênh tin tức uy tín, gây nhầm lẫn cho người xem rằng đây là thông tin đã được kiểm chứng.

Thủ đoạn tinh vi hơn là các thế lực thù địch lợi dụng AI để thu thập dữ liệu thông tin cá nhân, từ đó điều hướng thông tin và thao túng tâm lý người dùng. Đây là thủ đoạn hết sức nguy hiểm vì nó đã và đang được các thế lực thù địch tiến hành một cách thường xuyên, liên tục nhằm tạo hiệu ứng “mưa dầm thấm lâu”. Theo các chuyên gia công nghệ, hiện nay, tất cả hoạt động trên không gian mạng như bài đăng, lượt thích, bình luận, thời gian tương tác... đều trở thành dữ liệu để các nền tảng thu thập. Trên cơ sở dữ liệu đó, AI hoàn toàn có thể “vẽ được chân dung chi tiết của mỗi cá nhân”, hình thành sự hiểu biết về người dùng. Từ những tri thức này, hệ thống AI sẽ học và hiểu người dùng cả trong ngắn và dài hạn. Khi biết được tư duy, định hướng của người dùng thì việc định hướng thông tin (gửi các thông tin, thông điệp phù hợp với từng cá nhân), hay tập hợp lực lượng “những người có chung quan điểm” để phục vụ mục đích nào đó càng trở nên dễ dàng hơn.

Việc cần làm trước hết là tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nâng cao nhận thức và khả năng phòng ngừa, ứng phó trước những thông tin xấu độc trên mạng xã hội. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, là cơ sở tiền đề để chúng ta nâng cao “khả năng tự miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Các cơ quan báo chí, truyền thông cần chủ động cập nhật các thông tin về sự phát triển của AI trên thế giới, nhất là những cảnh báo về mặt trái của AI; tăng cường phối hợp với các đơn vị, tổ chức chuyên trách trong nước về chống tin giả, từ đó xây dựng hệ thống các chương trình, nội dung tuyên truyền, phân tích và làm rõ các chiêu trò, thủ đoạn lợi dụng AI để tạo và lan truyền tin giả, tin sai trái, xuyên tạc. 

Giải pháp căn cơ là chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, chuyên gia trong nghiên cứu, khai thác làm chủ và phát triển các ứng dụng AI phục vụ công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trước mắt, tập trung ưu tiên nguồn nhân lực cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cùng với đó, cần quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, trang bị kỹ thuật nhằm ứng dụng và phát huy AI trong công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. 

Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng các văn bản pháp luật, khung pháp lý về giám sát và quản lý AI ở nước ta cần đáp ứng các yêu cầu vừa phải bảo đảm duy trì kiểm soát, kiểm duyệt nội dung thông tin phù hợp định hướng, thuần phong mỹ tục, vừa phải tạo ra không gian đủ rộng để doanh nghiệp phát triển. Theo đó, thực hiện các biện pháp như: Yêu cầu nhà cung cấp nền tảng phải đăng ký dịch vụ và tiến hành đánh giá an ninh trước khi sản phẩm được tung ra thị trường; bắt buộc dán nhãn trên nội dung do AI tạo ra; sử dụng dữ liệu hợp pháp để huấn luyện mô hình AI và cung cấp thông tin khi cơ quan chức năng yêu cầu; cấm sử dụng các nội dung kích động lật đổ chính quyền và chế độ cũng như vi phạm quyền riêng tư; quyền yêu cầu các đơn vị cung cấp dịch vụ loại bỏ nội dung bất hợp pháp và ngăn chặn việc tán phát thông tin xấu độc.

Nhận thức rõ điều đó, chúng ta vừa tận dụng những tiến bộ, lợi ích, vừa chủ động phòng ngừa những mặt trái của AI; đồng thời tỉnh táo nhận diện, kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

Tìm hiểu giúp bạn!

 

Đang là Trưởng thôn, có được kiêm nhiệm và tham gia lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở?

Luật không cấm người tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở tham gia hoạt động trong các lực lượng, tổ chức khác hoặc người đang tham gia các lực lượng, tổ chức khác tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Tuy nhiên...

Bạn đọc hỏi: Hiện nay tôi 33 tuổi là Trưởng thôn trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá và kiêm Công an viên bán chuyên trách. Đến ngày 01/7/2024 khi Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở có hiệu lực thì lực lượng Công an xã bán chuyên trách sẽ kết thúc nhiệm vụ.

Trường hợp tôi có nguyện vọng và làm đơn xin tham gia lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở với cương vị đang là Trưởng thôn thì tôi có được kiêm nhiệm và tham gia tổ bảo vệ an ninh, trật tự hay không?

Bộ Công an trả lời như sau:

Khoản 1 Điều 14 Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở quy định: "Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được kiện toàn từ lực lượng Bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng và Đội trưởng, Đội phó Đội dân phòng hoặc được tuyển chọn theo quy định của Luật này". Bạn hiện đang là Công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, thuộc diện được kiện toàn tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở (nếu bạn có nguyện vọng).

Luật không cấm người tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở tham gia hoạt động trong các lực lượng, tổ chức khác hoặc người đang tham gia các lực lượng, tổ chức khác tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.

Tuy nhiên, việc bạn kiêm nhiệm thêm chức danh khác (ví dụ như Trưởng thôn) phải được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương (theo điểm b khoản 3 Điều 34 Nghị định số 33/2023/NĐ-CP ngày 10/6/2023 của Chính phủ quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố: "Căn cứ vào quỹ phụ cấp được ngân sách trung ương khoán cho mỗi cấp xã, mỗi thôn, tổ dân phố quy định tại các khoản 1, 2 Điều này; nguồn kinh phí ngân sách chi cho cải cách chính sách tiền lương của địa phương; các quy định của pháp luật có liên quan và đặc thù của từng cấp xã, từng thôn, tổ dân phố, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định cụ thể những nội dung sau: b) Việc kiêm nhiệm chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố và người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố kiêm nhiệm người trực tiếp tham gia hoạt động ở thôn, tổ dân phố").

Tính tất yếu phải xây dựng Quân đội về chính trị

  

Thực tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta đã khẳng định xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta. Nhờ coi trọng xây dựng Quân đội về chính trị, coi đó là vấn đề sống còn, là nguyên lý cơ bản trong xây dựng Quân đội, nên Quân đội ta luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, với Nhân dân, luôn đủ sức hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Cảnh giác với luận điệu lợi dụng nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam

 


Để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch không từ một thủ đoạn nào. Trong đó, điều đặc biệt là rất nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế, tổ chức tự xưng về nhân quyền chưa từng đặt chân đến Việt Nam nhưng lại dựa theo các báo cáo, thông tin để lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” nhằm mục đích kêu gọi sự can thiệp của quốc tế vào công việc nội bộ của Việt Nam.

“Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới”: Chống biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng - nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên


Cơ hội chính trị bao hàm nhiều đối tượng khác nhau ở trong và ngoài Đảng nhưng đều mang điểm chung là có nhận thức và hành động đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong đó, những biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng ở nước ta hiện nay ngày càng phức tạp, tinh vi và nguy hiểm. Đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị là một nhiệm vụ cấp bách, một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Tìm hiểu giúp bạn!

 

triệu, 1 ngày không quá 20 triệu thì xác thực bằng mã OTP

Cụ thể, nếu chuyển tiền dưới 10 triệu đồng và tổng số tiền chuyển các lần trong ngày không quá 20 triệu đồng thì xác thực bằng mã OTP, không cần xác thực bằng khuôn mặt, vân tay.

Ngân hàng Nhà nước cũng quy định, tổng số tiền các giao dịch trên 20 triệu đồng/ngày phải xác thực bằng sinh trắc học (có thể dùng căn cước công dân gắn chip, tài khoản VneID hoặc dữ liệu sinh trắc học lưu trong cơ sở dữ liệu của ngân hàng).

Nếu chuyển tiền dưới 10 triệu đồng/lần nhưng tổng các giao dịch trong ngày đã chạm mốc 20 triệu thì đến lần chuyển tiếp theo trong ngày đó phải xác thực bằng khuôn mặt, vân tay, dù lần tiếp theo đó chỉ chuyển vài nghìn đồng.

Trường hợp khách hàng cá nhân trước khi giao dịch lần đầu bằng ứng dụng ngân hàng (mobile banking) hoặc trước khi giao dịch trên thiết bị khác với thiết bị đang giao dịch lần gần nhất, cũng phải được nhận dạng sinh trắc học.

Mời người dân xem Quyết định 2345/QĐ-NHNN tại: facebook.com/groups/chinhsachphapluat

Tìm hiểu giúp bạn!

 

Từ 1/7: người dân được xuất trình giấy tờ lái xe qua VNeID

Khi người dân xuất trình thông tin các giấy tờ đã được tích hợp, cập nhật trong căn cước điện tử, tài khoản định danh điện tử từ ứng dụng VNeID, thì CSGT thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát thông qua thông tin trong căn cước điện tử.

Mời người dân xem nội dung Thông tư tại: facebook.com/groups/chinhsachphapluat

Xem clip hướng dẫn tại: facebook.com/thongtinchinhphu

Bớt đi một chữ Tham để giữ lấy chữ Liêm

Tham lam là bất Liêm, đã bất Liêm thì những việc khác cho dù có tài giỏi cũng bỏ đi. Nếu cán bộ, đảng viên đã Tham thì không giữ được Liêm, đã bất Liêm thì không giữ được đạo đức cách mạng, đã không giữ được đạo đức cách mạng thì làm sao phụng sự được Tổ quốc, phục vụ được Nhân dân?

inh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến chữ Liêm, Người cho rằng: “Liêm là trong sạch, không tham lam. Người nhấn mạnh: Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ” 

Đã có không ít bài học về lòng tham và ma lực của đồng tiền khiến quan chức phải ngã ngựa, vướng vào lao lý. Qua những vụ án, vụ việc liên quan đến cán bộ, đảng viên được đưa ra ánh sáng công luận thời gian qua, nhất là các vụ án tiêu cực, tham ô, tham nhũng… cho thấy, không ít cán bộ, đảng viên đã không giữ được chữ Liêm, bị cuốn theo những cám dỗ về lợi ích, những “viên đạn bọc đường” đã xuyên thủng hàng rào đạo đức cách mạng đi thẳng đến lòng tham.

Để không mắc phải những sai lầm đáng tiếc từ những bài học nhãn tiền, cán bộ, đảng viên luôn phải cảnh giác với những món lợi bất minh, đứng trước những lợi ích phi nghĩa, lợi ích không rõ ràng thì phải cương quyết không để lòng tham trỗi dậy, không để bản thân rơi vào tình huống “há miệng mắc quai”.

Muốn vậy, cán bộ, đảng viên phải hội đủ những phẩm chất: Cần, Kiệm, Liêm chính, Chí công vô tư trong đó, phải giữ chữ Liêm làm đầu. Tham lam là bất Liêm, đã bất Liêm thì những việc khác cho dù có tài giỏi cũng bỏ đi. Nếu cán bộ, đảng viên đã Tham thì không giữ được Liêm, đã bất Liêm thì không giữ được đạo đức cách mạng, đã không giữ được đạo đức cách mạng thì làm sao phụng sự được Tổ quốc, phục vụ được Nhân dân?

Vâng, giữ lấy chữ Liêm! Không chỉ đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng, đã là con người nói chung, tất cả đều cần phải nuôi dưỡng chữ Liêm - một trong “tứ đức” của con người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dạy.

Theo đó, ai cũng cần nuôi dưỡng chữ Liêm cho bản thân mình, muốn có chữ Liêm tất phải bớt đi chữ Tham, bởi Tham và Liêm có mối quan hệ nhân - quả, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Tất nhiên, để giữ được chữ Liêm còn có các yếu tố khác nữa… Trong phạm vi bài viết này cũng mới chỉ phần nào giúp bạn đọc có thêm góc nhìn cho một khuyến nghị như tiêu đề của bài viết mà thôi: Bớt đi một chữ Tham để giữ lấy chữ Liêm!

Danh dự và lòng tự trọng

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Nhận định của Tổng Bí thư cho thấy, những điều trên có tác động rất mạnh đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Do đó, cần phải đặt ra những yêu cầu cao hơn nữa về tinh thần tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong thời kỳ mới, Đảng cần phải có các chuẩn mực đạo đức cách mạng mới và cần cụ thể hơn về chuẩn mực đạo đức cách mạng để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, có thể khẳng định, Quy định 144 ra đời rất kịp thời, phù hợp với giai đoạn mới và được cán bộ, đảng viên đón nhận.

Từ những nội dung trong Quy định 144 của Bộ Chính trị, đã tiếp tục khẳng định nhất quán quan điểm của Đảng ta kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên luôn phải tự rèn luyện phẩm chất đạo đức một cách thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc mọi nơi, bất cứ trong hoàn cảnh nào; đồng thời luôn nhớ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Trong nội dung Điều 3, Quy định 144 có đặt ra vấn đề về danh dự và lòng tự trọng. Đây là câu nói mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rất nhiều từ hội nghị Trung ương đến các hội nghị lớn khác. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Danh dự và lòng tự trọng là điều thiêng liêng, cao quý nhất”. Theo đó, vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên được đưa vào trong Quy định 144 cụ thể và chi tiết hơn. Điều này có nghĩa là lúc nào người cán bộ, đảng viên cũng phải tự soi xét mình. Bởi vì danh dự, lòng tự trọng là điều cao quý nhất. Tất nhiên, có nhiều nội dung, công việc đặt danh dự, lòng tự trọng lên cao nhưng đây là cao nhất, quý nhất thì trong Quy định này đã nhấn mạnh vấn đề này để mọi cán bộ, đảng viên phải thấy điều đó. Có nghĩa là thấy danh dự của mình, lòng tự trọng của mình là điều cao quý nhất. Cho nên mọi việc làm của mình, mọi hành vi của mình, mọi phát ngôn của mình phải luôn luôn lấy điều đó là tâm niệm và khắc sâu vào tâm trí của mình rằng lợi ích của quốc gia dân tộc là trên hết, trước hết. Những điều này, tưởng là đơn giản nhưng ý nghĩa sâu sắc và luôn luôn nhắc nhở, thôi thúc cán bộ, đảng viên trong mọi hành vi, cử chỉ, mọi lời nói của mình làm thế nào cho tốt, có sức thuyết phục.

Lòng tự trọng và danh dự, khi đặt vào vị trí của người cán bộ, đảng viên - những người là công bộc của dân, được Nhân dân nuôi nấng thì chuẩn mực tự trọng và danh dự phải càng được nâng cao. Nó như là nghĩa vụ, trọng trách không thể thiếu trong toàn bộ hoạt động phục vụ Nhân dân. Có như thế mới làm tròn sứ mệnh “đầy tớ” theo đúng nghĩa./.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: DẤU ẤN ĐỐI NGOẠI TRONG NỀN NGOẠI GIAO VIỆT NAM!

BÀI 1. ĐỐI NGOẠI ĐẢNG - MỘT TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU!
     Với mưu đồ, thủ đoạn tinh vi, thâm độc, thời gian qua, các thế lực thù địch liên tục tung ra nhiều chiêu trò hòng hạ bệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và phủ nhận thành quả đối ngoại Đảng - một trụ cột quan trọng của mặt trận đối ngoại Việt Nam. Thế nhưng, tất cả những chiêu trò ấy đều bị ánh sáng sự thật xua tan, phủ nhận; càng làm cho dư luận trong và ngoài nước thêm vững tin vào vai trò, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời bày tỏ sự tán dương, cảm phục trước thành quả có dấu ấn lịch sử của công tác đối ngoại Đảng!
Không khó để nhận ra, các thành phần phản động, chống phá cách mạng luôn cố ý lấp liếm, quy chụp rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ giỏi lãnh đạo “đánh nhau”, chứ không biết gì về đối ngoại; và nếu có cũng chỉ là sự ăn may, hoặc “tô hồng” thành tích. Thực tế, đối ngoại của Đảng là một truyền thống quý báu và kết quả đối ngoại Đảng là những thành tựu hết sức to lớn, có dấu ấn lịch sử.

1. Những ngày qua, trên một số trang mạng địa chỉ ở nước ngoài đăng tải nhiều bài viết có nội dung cắt ghép, bóp méo sự thật một cách trắng trợn, hòng “minh chứng” cho những chủ ý xấu xa. Các bài viết, video này có nội dung cố tình đặt điều: Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là nguyên thủ quốc gia nên không được các nước trên thế giới tiếp đón ngoại giao bằng nghi thức trang trọng; kết quả đối ngoại Đảng chỉ là sự bịa đặt, hoặc là hệ quả tất yếu của đối ngoại Nhà nước, ngoại giao nhân dân.

Nhiều “chủ bút” lớn tiếng rêu rao: Đảng tiến hành đối ngoại cũng chẳng qua là vì lợi ích của Đảng - của một nhóm quyền lực, chứ không vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong khi, một số đối tượng chống phá giả danh khoa học hoặc đội lốt “diễn giả” hồ đồ quy kết hoạt động đối ngoại Đảng là không cần thiết, chỉ nặng hình thức.

Với những danh nghĩa tự xưng là: “Luật sư độc lập”, “nhà báo tự do”, “nhà dân chủ, nhân quyền”, “người Việt yêu nước”...; thông qua các hình thức trá hình, như: “thư góp ý”, “lời kêu gọi”, “tư vấn”, “kiến nghị”… cho Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch và thành phần bất mãn, hiềm khích cố tình đan cài nhiều nội dung sai lệch, nhằm hạ thấp, phủ nhận kết quả công tác đối ngoại Đảng. Trong khi đó, các blogger, tài khoản mạng xã hội và các website có địa chỉ ở nước ngoài chủ ý tung tin thất thiệt về những chỉ đạo đối ngoại sai lầm của Đảng trong giải quyết mối quan hệ bạn - thù, trong ứng xử với đối tác, đối tượng. Chúng “khuyên nhủ” Việt Nam nên từ bỏ chính sách “ngoại giao cây tre” vì không thể “gió chiều nào, ngả chiều ấy”; không thể chọn phe để ứng xử ngoại giao “thiếu đạo hiếu”, “thiếu nghĩa tình” với các nước láng giềng, đối tác truyền thống.

Không khó để nhận ra những thủ đoạn trên là hòng cố tình chống phá quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng ta; nhằm gây hoang mang, dao động đối với một bộ phận cán bộ, quần chúng; dễ nảy sinh các biểu hiện tư tưởng “xét lại”, “phủ nhận lịch sử”; làm thui chột động lực phấn đấu, nỗ lực cống hiến vì một nước Việt Nam đang trên đà phát triển, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hơn thế, các luận điệu chống phá còn hướng đến việc phá hoại, ngăn cản nỗ lực mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam với các nước, các chính đảng trên thế giới; khiến dư luận trong và ngoài nước nhìn nhận, đánh giá sai lệch về vị thế, vai trò, bản chất, truyền thống và sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Từ sự nguy hại đặc biệt đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng phải không ngừng học tập, nghiên cứu, nắm chắc tình hình; luôn đề cao cảnh giác cách mạng để có tâm thế sẵn sàng, vững vàng trong tham gia phòng ngừa, đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá bằng tinh thần, trách nhiệm cao nhất, mang lại hiệu quả cao nhất!

2. Những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch dù thâm độc, xảo quyệt, nhưng xét về bản chất, đó là những luận điệu vu khống, quy chụp, không có căn cứ và mang đậm màu sắc phản động. Đó là những tiếng nói lạc lõng, bịa đặt của những kẻ lạc lối, chắc chắn không thể phủ nhận thành quả của công tác đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam.

Thực tiễn chứng minh: Ngay từ trước khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (năm 1945), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát huy hiệu quả vai trò của đối ngoại Đảng nhằm phục vụ mục tiêu cao nhất lúc đó là giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình hoạt động cách mạng, vận động thành lập Đảng cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), đích thân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng đã trực tiếp tiến hành công tác đối ngoại Đảng trên nhiều phương diện, bằng nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo. Trên cương vị là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, các đồng chí lão thành cách mạng, các bậc tiền bối đã giải quyết tốt mối quan hệ với lãnh đạo của nhiều chính đảng, nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là với các đảng Cộng sản; thậm chí là với chính khách, chính đảng ở phương Tây và cả ở chính quốc gia đi xâm lược Việt Nam.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 1-11-1949, cơ quan chuyên trách về công tác đối ngoại của Đảng được thành lập với tên gọi Phòng Lào - Miên Trung ương (tiền thân của Ban Đối ngoại Trung ương ngày nay), trực thuộc Ban Thường vụ Trung ương. Sự kiện đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu việc “định danh” một mũi giáp công mới, hết sức quan trọng trong lĩnh vực đối ngoại - đó là đối ngoại Đảng.

Suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đối ngoại Đảng luôn chủ động mở rộng quan hệ, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các chính đảng, các phong trào tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam; tạo nên mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn, kết thành sức mạnh tổng hợp, đưa các cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Bước vào giai đoạn đổi mới đất nước, đối ngoại Đảng phát huy vai trò chủ động, góp phần phá thế cô lập, bao vây, cấm vận; vượt qua những biến cố và sóng gió của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế trên thế giới; phối hợp hiệu quả trong việc tham mưu, đề xuất đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại. Đối ngoại Đảng có nhiều đóng góp quyết định trong việc duy trì và thúc đẩy môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; tranh thủ các điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Đối ngoại Đảng đã tạo nguồn sức mạnh mới, tạo thế đứng vững chãi cho nền ngoại giao nước ta với ba trụ cột (đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân); bổ sung, hỗ trợ hiệu quả, cùng nhau triển khai thắng lợi đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam.

3. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm đề ra phương hướng và các giải pháp cụ thể liên quan đến công tác đối ngoại Đảng. Đặc biệt, ngày 18-2-2019, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW, “Về tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại Đảng trong tình hình mới” là dấu mốc quan trọng thể hiện sự phát triển về tư duy lý luận, khẳng định vai trò quan trọng của đối ngoại Đảng. Chỉ thị nhấn mạnh, “tăng cường đối ngoại Đảng là định hướng chiến lược đối ngoại quan trọng hàng đầu” và “là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng làm công tác đối ngoại là nòng cốt”; đề ra nhiệm vụ mở rộng và đưa các mối quan hệ đối ngoại Đảng đi vào chiều sâu, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương, tranh thủ sự ủng hộ và tạo thêm sự hỗ trợ về mặt chính trị cho quan hệ nhà nước, cũng như đối ngoại nhân dân.

Tiến trình lịch sử cho thấy, công tác đối ngoại Đảng đã kế thừa, phát huy, nâng lên tầm cao mới truyền thống, bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam. Đó là cung cách ngoại giao đầy hào khí, giàu nhân văn, trọng lẽ phải, tôn trọng công lý và vì chính nghĩa. Đối ngoại Đảng giữ vai trò chỉ đạo, dẫn dắt nền ngoại giao nước nhà theo hướng hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước, văn hóa dân tộc, truyền thống ngoại giao Việt Nam với tinh hoa văn hóa và kinh nghiệm ngoại giao thế giới. Trong đó, luôn đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, tinh thần hòa hiếu, hữu nghị, dùng ngoại giao để đẩy lùi xung đột, nguy cơ chiến tranh; giải quyết bất đồng bằng phương pháp hòa bình; gắn với thực tiễn sinh động, mau lẹ của thế giới, đưa Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy của thời đại.

Trong hoạt động đối ngoại Đảng, Đảng ta luôn quán triệt nhất quán, xuyên suốt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ" để biết mình, biết người, luôn làm chủ tình thế; hiểu rõ vị trí địa chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ giữa các nước lớn và khu vực. Đặc biệt, coi trọng việc xử lý khéo léo quan hệ với các nước; luôn "biết mình, biết người", "biết thời, biết thế" để hành xử “đủ tâm” và “đúng tầm”; thực hiện "cương nhu kết hợp", "tùy cơ ứng biến",“dĩ bất biến, ứng vạn biến”… vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc.

Đối ngoại Đảng đã góp phần xây dựng và phát triển một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam": Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đó là: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Với bề dày truyền thống quý báu, công tác đối ngoại Đảng hiện nay đã có những bước tiến to lớn, đóng góp quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp cách mạng, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Công tác đối ngoại là một điểm sáng trong toàn bộ những thành tựu chung của đất nước”, và “ngành Ngoại giao đã đóng vai trò tiên phong trong thời bình, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước”./.



(Còn nữa).
Yêu nước ST.

Chữa “bệnh” “suy nhược” về tự phê bình và phê bình

Chúng ta đều biết, tự phê bình và phê bình là nguyên tắc, quy luật phát triển của Đảng, là “vũ khí sắc bén” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là giải pháp quan trọng, góp phần tạo sự đoàn kết, thống nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình chẳng những làm cho từng “tế bào” của “cơ thể” của Đảng luôn khỏe mạnh, dẫn dắt thành công sự nghiệp cách mạng của dân tộc mà còn không ngừng nâng cao uy tín, vị thế của Đảng, tạo sự gắn kết, bồi đắp niềm tin của Nhân dân với Đảng.

Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Điều đó cho thấy, Người coi trọng công tác tự phê bình và phê bình đến nhường nào.

Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta luôn coi tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, không phải là không còn tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc phải “căn bệnh”...“suy nhược” về tự phê bình và phê bình, chưa nhận thức đúng đắn, chưa thực sự coi trọng công tác này, còn trung dung, bàng quan, né tránh, thấy sai không đấu tranh, thấy đúng không bảo vệ. Nhận định về thực trạng này, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao.

Hậu quả của “căn bệnh” “suy nhược” về tự phê bình và phê bình là không nhỏ, nó chẳng những gây thụt lùi về nhận thức, ý thức chấp hành nguyên tắc của Đảng, thậm chí triệt tiêu ý chí đấu tranh mà còn dễ dẫn đến những “căn bệnh” khác như không trung thực, hình thức, đoàn kết giả tạo, trung bình chủ nghĩa, nguy hại hơn là có thể dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm giảm sút uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên...

Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, địa phương, đơn vị cần thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của đấu tranh tự phê bình và phê bình; duy trì thường xuyên, nền nếp, có hiệu quả đi đôi với đổi mới nội dung, hình thức tự phê bình và phê bình trên tinh thần thẳng thắn, chân thành, xây dựng, thực sự cầu thị, vì sự đoàn kết, thống nhất, lớn mạnh của tổ chức Đảng, đảng viên.

Song hành với đó, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, khắc phục triệt để tình trạng hình thức, chiếu lệ, một chiều, qua loa, đại khái, “dĩ hòa vi quý” trong đấu tranh tự phê bình và phê bình; động viên, khuyến khích, nhân rộng những cách làm hay, kinh nghiệm quý để lan tỏa, sử dụng hiệu quả “vũ khí sắc bén” này trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và Nhân dân luôn nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đóng góp ý kiến, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp cùng tiến bộ; thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, rèn luyện bản thân, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là tấm gương mẫu mực về tự phê bình và phê bình của Bác. Tích cực, chủ động, tiên phong, gương mẫu, dám nghĩ, dám làm, đề cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng, hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ; tham gia đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ các nguyên tắc tổ chức, xây dựng Đảng./.

Sưu tầm

VIỆT NAM KHÔNG “TỰ CÔ LẬP MÌNH” TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG!

     Đến nay, Việt Nam đã 4 lần công bố Sách trắng quốc phòng, trong đó công khai chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, nhằm mục tiêu tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận một cách vô căn cứ!

Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng, bảo vệ chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.
Việt Nam là đất nước luôn phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược từ bên ngoài và đã phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, khát khao được sống trong hòa bình, độc lập; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là mong muốn, thiện chí và quan điểm nhất quán trong chính sách quốc phòng của Việt Nam.

Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực phản động, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, nhóm người tự xưng là “người yêu nước”, “tâm huyết” với vận mệnh quốc gia-dân tộc đã gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị”, viết bài tán phát với những giọng điệu xuyên tạc, bóp méo đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam. Chúng cho rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các quốc gia luôn có mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau, trong khi đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và chính sách quốc phòng “4 không” (không liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) là “bảo thủ, lỗi thời”, “tự mình cô lập mình”, “tự trói tay, chân mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc thì Việt Nam mới giữ vững được chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc.

Có thể thấy mục đích sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch là nhằm dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng, đối ngoại. Đồng thời, kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong xã hội vào khả năng bảo vệ đất nước của quốc phòng Việt Nam, tính đúng đắn của đường lối quân sự, quốc phòng, đối ngoại của Đảng; từ đó gây chia rẽ, mâu thuẫn nội bộ, làm giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, đối ngoại; cấp độ cao hơn là từ chối thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hoặc tham gia vào các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Soi rọi vào lý luận và thực tiễn đều cho thấy, những luận điệu trên của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng của nước ta:
Về lý luận: Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “dựa vào sức mình là chính”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”; kết hợp chặt chẽ sức mạnh nội lực của đất nước với sức mạnh quốc tế để củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của sức mạnh nội lực, của mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Người nói: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”; “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Đồng thời, Người căn dặn, phải luôn “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp”; phải đặc biệt coi trọng xử lý khéo léo quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng và các nước lớn, vì lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc. 

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Đồng thời: Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc.

Chiến lược quốc phòng Việt Nam năm 2018 xác định: Xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra; tham gia tích cực, trách nhiệm, hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (LHQ) và những vấn đề liên quan của cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 chỉ rõ, cùng với chủ trương “4 không”, Việt Nam: “Tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”.

Đồng thời, Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược; sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại...". Đồng thời: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng những biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”. 

Về thực tiễn: Trong những năm qua, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng đã đề ra, trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên LHQ); đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực.

Đặc biệt, gần 10 năm qua, Việt Nam đã triển khai hơn 530 cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ tại các phái bộ và trụ sở LHQ ở New York (Hoa Kỳ). Việc tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả vào hoạt động gìn giữ hòa bình thế giới của Việt Nam đã được LHQ ghi nhận và đánh giá cao, để lại những ấn tượng tốt đẹp với chính quyền, người dân nước sở tại và bạn bè quốc tế. Hình ảnh chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam, phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới được lan tỏa rộng rãi, ghi dấu ấn tích cực và đậm nét trong lòng nhân dân, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, được bạn bè quốc tế trân trọng, quý mến.

Mặt khác, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt hiện nay, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, Việt Nam kiên định chính sách “4 không”, thêm bạn, bớt thù; tăng đối tác, giảm đối tượng, xử lý hài hòa quan hệ với các nước; thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược là lựa chọn đúng đắn, phù hợp nhất. Trong bất luận hoàn cảnh nào, Việt Nam cũng không chọn bên mà chọn lẽ phải, chính nghĩa.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, rõ ràng là những minh chứng đầy đủ, khách quan, thuyết phục nhất, thể hiện rõ mong muốn, thiện chí: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận. Đồng thời cũng vạch trần âm mưu đen tối của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.

Theo đó, để đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, làm rõ tính đúng đắn của chính sách quốc phòng Việt Nam ở cả trong nước và quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; huy động tối đa các nguồn lực để tăng cường sức mạnh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, phát huy vai trò “tiên phong” trong kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước./.
Yêu nước ST.

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG BIỆN PHÁP HÒA BÌNH - CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG ĐÚNG ĐẮN CỦA VIỆT NAM!

     Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay!

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết
Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.
Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới. 

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay./.
Ảnh: Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 19 tại Singapore ngày 11-6-2022.
Yêu nước ST.