Thứ Hai, 14 tháng 4, 2025

Phát huy vai trò đấu tranh trên không gian mạng

 

Có thể khẳng định hoạt động của lực lượng nòng cốt đấu tranh trên không gian mạng đã góp phần quan trọng trong việc phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi sự tác động tiêu cực, tư tưởng xấu xâm nhập vào đơn vị. Từ đó góp phần củng cố, giữ vững và xây dựng nền tảng tư tưởng chính trị vững chắc, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang.

Bám sát các hoạt động thông tin trên không gian mạng, khi phát hiện có tin, bài, ảnh, video clip nội dung xấu độc, theo chỉ đạo, định hướng của cấp trên, lực lượng nòng cốt trên đã vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh như: Đấu tranh công khai, trực diện; đấu tranh ẩn danh; đấu tranh kỹ thuật; chia sẻ tin, bài, ảnh, video clip có nội dung tích cực trên mạng mạng xã hội. Hình thức đấu tranh chủ yếu thông qua các bình luận, chia sẻ những bài viết có nội dung tích cực, viết bài phản bác lại các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam.

Các thành viên thuộc lực lượng đấu tranh trên không gian mạng đã chủ động đăng tin, bài, bình luận, chia sẻ những thông tin tích cực, thể hiện quan điểm, thái độ đấu tranh kiên quyết đối với các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đảm bảo an toàn, không để lộ, lọt thông tin bí mật quân sự.

Sau Đại hội XIII của Đảng, chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, dự báo các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tiếp tục tăng cường hoạt động tấn công chia rẽ nội bộ, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng bằng các thủ đoạn, phương thức ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhất là trên Internet, mạng xã hội.

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả trong nhận diện, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng, cần tập trung chỉ đạo, định hướng các cơ quan, đơn vị tích cực chia sẻ, lan tỏa các tin, bài về những thành tựu sau hơn 30 năm đổi mới.

Chủ động lan tỏa, chia sẻ ngân hàng dữ liệu thông tin phục vụ công tác truyền thông tích cực để khẳng định vai trò nòng cốt, đi đầu của Quân đội tham gia đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội trên Internet, mạng xã hội.

Tăng cường công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch trên không gian mạng

 

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển bùng nổ của mạng Internet, các mạng xã hội toàn cầu,... đã tạo điều kiện để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng để tăng cường các thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng các sự kiện chính trị như: Công tác chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng; công tác phòng, chống tham nhũng; các vụ việc nhạy cảm, phức tạp được dư luận xã hội quan tâm; công tác phòng, chống Covid-19; vấn đề Biển Đông, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo… để phát tán các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, công kích, hạ thấp uy tín các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng...

Trong hoạt động phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, việc tuyên truyền xuyên tạc, đăng tải các thông tin xấu độc trên không gian mạng là hoạt động phổ biến nhất hiện nay. Với đặc tính lan tỏa nhanh, mạng Internet đang là phương tiện nguy hiểm nhất, có khả năng mở rộng phạm vi, tác động nhanh nhất, gây tác hại trên diện rộng hơn bất cứ hình thức tuyên truyền nào khác. Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã triệt để lợi dụng đặc tính này và thiết lập hàng nghìn trang web, blog và mạng xã hội cho mục đích tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, phá hoại nội bộ ta; lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, khai thác thông tin trên báo chí chính thống từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống để hư cấu, xuyên tạc, thổi phồng, bóp méo sự thật, lấy hiện tượng quy kết thành bản chất, đăng tải thông tin thật giả lẫn lộn. Chính vì vậy công tác định hướng trong việc đưa thông tin tích cực, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch trên không gian mạng đang là đòi hỏi cấp thiết cần phải làm hiện nay.

Thời gian qua, thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Ban Chỉ đạo 35 tỉnh Lạng Sơn đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Thường xuyên quán triệt học tập, nghiên cứu và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng một cách nghiêm túc, đồng bộ; thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân; chủ động nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội; định hướng tuyên truyền có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết kịp thời những vụ việc phức tạp, khiếu kiện đông người, các vấn đề nảy sinh từ cơ sở nhằm ổn định tình hình, không để phát sinh thành ''điểm nóng'' để các thế lực thù địch có cơ hội lợi dụng xuyên tạc, chống phá; chủ động nắm tình hình địa bàn, kịp thời tuyên truyền thông tin chính thống để định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận, ủng hộ của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tăng cường huy động cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên thường xuyên chia sẻ, bình luận những thông tin tích cực, đồng thời phản bác các quan điểm sai trái, không đúng sự thật đăng trên các trang mạng xã hội, góp phần định hướng dư luận, làm ổn định tình hình trước những sự kiện, sự việc được nhiều người quan tâm trên mạng xã hội... góp phần tích cực giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đấu tranh vẫn còn những hạn chế, chưa ngăn chặn được triệt để các thông tin xấu, độc trên không gian mạng. Để tăng cường công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch trên không gian mạng, trong thời gian tới, Ban Chỉ đạo 35 của tỉnh cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là: Tập trung xây dựng, phát triển lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch từ tỉnh đến cơ sở. Tổ chức kiện toàn thành viên Ban Chỉ đạo 35, nhóm chuyên gia, lực lượng tham mưu giúp việc và đội ngũ cộng tác viên toàn tỉnh... bảo đảm mọi công việc được thực hiện xuyên suốt.

Hai là: Các đồng chí thành viên Nhóm Chuyên gia 35 cần chủ động thực hiện các nhiệm vụ được giao; thường xuyên theo dõi, nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trên internet; tích cực viết tin, bài, kịp thời đấu tranh, phản bác, vô hiệu hóa hoặc làm giảm thiểu tác hại của các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, bịa đặt trên internet, mạng xã hội.

Ba là: Lực lượng 35 toàn tỉnh tăng cường phối hợp, tham mưu triển khai thực hiện tốt việc tổ chức kết nối lực lượng; thường xuyên đăng tải, chia sẻ các thông tin chính thống, tích cực trên các phương tiện thông tin truyền thông, internet, mạng xã hội, nhất là đăng tải, chia sẻ những thông tin tích cực, đồng thời huy động lực lượng tham gia fanpage và group “Lạng Sơn 35” của Ban Chỉ đạo 35 cấp tỉnh và các trang, nhóm của cấp mình; tham gia các hoạt động đấu tranh, phản bác có hiệu quả thông tin xấu, độc, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên toàn địa bàn, trước mắt tập trung đấu tranh bảo vệ thành công kết quả Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và công tác chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng…

Tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng để giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong giai đoạn hiện nay

 

Trong giai đoạn hiện nay, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hiện nay, không ít đảng viên có khuynh hướng xa rời chính trị, chạy theo những giá trị vật chất, lợi dụng chức quyền và cương vị công tác để tham nhũng, nhận hối lộ, làm giàu bất chính. Một bộ phận không nhỏ cán bộ sống buông thả, thực dụng, xa hoa, hưởng lạc, coi đồng tiền là trên hết; tình trạng tham nhũng trong cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, trở thành vấn đề nhức nhối của Đảng, của toàn xã hội, làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải coi trọng công tác phòng, chống tham nhũng; xem đây là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; phải cam kết về sự liêm khiết và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng một cách có hiệu quả.

Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện chặt chẽ hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, không tạo ra kẽ hở để cho những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thoái hóa, biến chất lợi dụng thực hiện hành vi tham nhũng, lãng phí.

Thứ hai, thực hiện tốt công tác cán bộ. Một mặt, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là gốc của mọi công việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Mặt khác, tham nhũng lại chủ yếu do người có chức vụ đã lợi dụng quyền hạn để trục lợi, tham nhũng, diễn ra ở “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp”.

Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Đây là nhân tố quan trọng bảo đảm thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ gìn sự trong sạch về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên, ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, tiêu cực, góp phần quan trọng để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.

Thứ tư, Đảng phải nêu gương. Các tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải tiên phong, gương mẫu trong đạo đức và lối sống, kết hợp hài hòa giữa lợi ích riêng và lợi ích chung; khi lợi ích riêng mâu thuẫn với lợi ích chung thì phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Đây là nhân tố góp phần tạo nên uy tín của cán bộ, uy tín của Đảng với nhân dân và góp phần bảo đảm vị thế cầm quyền của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Nếu Đảng không vững vàng về chính trị, không chặt chẽ về tổ chức, không trong sạch về đạo đức, lối sống thì không thể đủ năng lực, uy tín để lãnh đạo cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, và “muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Các cơ quan cung cấp thông tin báo chí cần quan tâm chú ý nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

 

Chỉ đạo đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, phóng viên, biên tập viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Xây dựng nền tảng xuất bản mở và đa nền tảng. Ứng dụng các công cụ hỗ trợ quản lý vận hành báo có tính liên thông cao, ví dụ: Nhân sự, công việc, tính hiệu quả cần được liên kết chặt chẽ, lấy công nghệ làm nền tảng, lấy công nghệ làm phương tiện, lấy công nghệ làm công cụ dự báo.  Bám sát việc phát triển công nghệ của toà soạn với hoạt động chuyển đổi số chung của Chính phủ và doanh nghiệp để đồng bộ trong chuẩn giao tiếp về thông tin.

Cần chú trọng xây dựng tốt công tác kỹ thuật, công nghệ trong đấu tranh mạng

 

- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các đơn vị quản lý và doanh nghiệp; nghiên cứu, định hướng trong việc xây dựng bộ lọc và có cơ chế cập nhật khi có yêu cầu để các doanh nghiệp thực hiện; kịp thời ngăn chặn truy cập, chia sẻ, tạm ngừng hiển thị nội dung trên mạng internet khi phát hiện thông tin vi phạm.

- Chuẩn bị các phương án kỹ thuật, công nghệ phù hợp để có thể chủ động ngăn chặn các thông tin vi phạm trong trường hợp khẩn cấp với quyết tâm, thống nhất cao và sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet.

Cần có giải pháp về cơ chế, chính sáchtrong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các âm mưu thủ đoạn, quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

 

Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, đảm bảo môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch, kịp thời bổ sung, xây dựng các văn bản mới và xây dựng cơ chế chính sách về thông tin điện tử cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng hiệu quả quản lý, bổ sung các chế tài xử lý sai phạm nghiêm khắc hơn.

- Tổ chức họp định kỳ, đột xuất nhằm định hướng, chấn chỉnh kịp thời hoạt động của các trang mạng xã hội trong nước.

- Xây dựng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển, tạo ra những “đơn vị tiên phong” đủ mạnh để cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.

- Nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát, kiên quyết xử lý thông tin sai phạm trên mạng. Đối với các trường hợp vi phạm nhiều lần, mức độ nghiêm trọng có thể xem xét rút giấy phép; tăng cường hướng dẫn, phối hợp với Sở TTTT các địa phương và các đơn vị chức năng có liên quan xử lý hoạt động sai phạm về thông tin điện tử trên mạng.

Một số giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các âm mưu thủ đoạn, quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

 

Do đặc thù phát triển quá nhanh của công nghệ, của các dịch vụ, nội dung thông tin trên mạng nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, chưa cụ thể hóa, bao quát hết các đối tượng và hoạt động cần quản lý, hành vi sai phạm, chế tài xử lý chưa bảo đảm tính răn đe. Trong khi đó, quy trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực này theo quy định hiện hành mất khá nhiều thời gian, dẫn đến việc quy định vừa sửa đổi, bổ sung xong đã bắt đầu lạc hậu, gây khó khăn cho công tác quản lý. Vì vậy, để kịp thời ngăn chặn, đập tan âm mưu của các thế lực thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam cần nghiên cứu, vận dụng thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần có giải pháp về cơ chế, chính sách: Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, đảm bảo môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch, kịp thời bổ sung, xây dựng các văn bản mới và xây dựng cơ chế chính sách về thông tin điện tử cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng hiệu quả quản lý, bổ sung các chế tài xử lý sai phạm nghiêm khắc hơn.

- Tổ chức họp định kỳ, đột xuất nhằm định hướng, chấn chỉnh kịp thời hoạt động của các trang mạng xã hội trong nước.

- Xây dựng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển, tạo ra những “đơn vị tiên phong” đủ mạnh để cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.

- Nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát, kiên quyết xử lý thông tin sai phạm trên mạng. Đối với các trường hợp vi phạm nhiều lần, mức độ nghiêm trọng có thể xem xét rút giấy phép; tăng cường hướng dẫn, phối hợp với Sở TTTT các địa phương và các đơn vị chức năng có liên quan xử lý hoạt động sai phạm về thông tin điện tử trên mạng.

Thứ hai, cần chú trọng xây dựng tốt công tác kỹ thuật, công nghệ: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các đơn vị quản lý và doanh nghiệp; nghiên cứu, định hướng trong việc xây dựng bộ lọc và có cơ chế cập nhật khi có yêu cầu để các doanh nghiệp thực hiện; kịp thời ngăn chặn truy cập, chia sẻ, tạm ngừng hiển thị nội dung trên mạng internet khi phát hiện thông tin vi phạm.

- Chuẩn bị các phương án kỹ thuật, công nghệ phù hợp để có thể chủ động ngăn chặn các thông tin vi phạm trong trường hợp khẩn cấp với quyết tâm, thống nhất cao và sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet;

Thứ ba, xây dựng đầu mối tiếp nhận, quy trình xử lý tin giả trên mạng xã hội: Bộ Thông tin và Truyền thông, các Sở Thông tin và Truyền thông tại các địa phương sẽ là đầu mối thực hiện việc xử lý đối với các hành vi tung tin giả của các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.

          Việc xác định tin giả cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành có liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao, đặc biệt trong việc nhận diện và xác định tin giả theo từng lĩnh vực, đối tượng ảnh hưởng đối với các vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội... Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân bị ảnh hưởng trực tiếp cần chủ động tập hợp, cung cấp các tài liệu, chứng cứ để các cơ quan chức năng xác lập hành vi của các đối tượng tung tin giả.   

Thứ tư, cần tuyên truyền rộng rãi, nâng cao nhận thức: Các cơ quan chức năng tiếp tục chủ trì, phối hợp với các cơ quan báo chí & truyền thông liên quan triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cho người sử dụng về các quy định của pháp luật có liên quan nội dung thông tin trên mạng.

- Tăng cường việc tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu với các thế hệ học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh nhằm cung cấp, trao đổi thông tin về những mặt tích cực và tiêu của Internet để thế hệ trẻ biết sàng lọc trước các luồng thông tin xấu độc. 

- Đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tuyên truyền, cần coi mạng xã hội cũng là một kênh truyền thông tương tự như báo, đài, truyền hình để tiến hành các hoạt động tuyên truyền. 

- Đối với các ban, ngành hoạt động tiếp xúc với người dân nhiều thì càng cần coi mạng xã hội cũng như Internet là một kênh quan trọng và cần có kế hoạch truyền thông của riêng mình. Cần khuyến khích các cơ quan nhà nước bên cạnh website của mình cần mở thêm một kênh thông tin giới thiệu về chuyên ngành và lĩnh vực mình quản lý, qua đó tiếp cận và minh bạch thông tin với người dân.

- Xây dựng và phổ biến rộng rãi bộ quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội đối với người sử dụng internet tại Việt Nam, thúc đẩy hình thành văn hóa ứng xử, chia sẻ thông tin lành mạnh, lên án, tẩy chay hành vi đi ngược lại lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia trên mạng internet. Triển khai các hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến kỹ năng sử dụng internet an toàn và hiệu quả.

Thứ năm, phát triển mạng xã hội do doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp dịch vụ: Hiện nay tại Việt Nam, một số mạng xã hội của nước ngoài như Facebook, Youtube vẫn đang chiếm phần lớn thị trường, chính vì vậy trong ngắn hạn, các giải pháp quản lý và tuyên truyền vẫn cần tiến hành đối với mạng xã hội này. Tuy nhiên về dài hạn, Việt Nam cần có những mạng xã hội tương đương, có khả năng thay thế hoặc cạnh tranh được với Facebook tại Việt Nam và do doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp dịch vụ. Do đó, cần có các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy mạng xã hội trong nước phát triển. 

Thứ sáu, các cơ quan cung cấp thông tin báo chí cần quan tâm chú ý nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Chỉ đạo đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, phóng viên, biên tập viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Xây dựng nền tảng xuất bản mở và đa nền tảng. Ứng dụng các công cụ hỗ trợ quản lý vận hành báo có tính liên thông cao, ví dụ: Nhân sự, công việc, tính hiệu quả cần được liên kết chặt chẽ, lấy công nghệ làm nền tảng, lấy công nghệ làm phương tiện, lấy công nghệ làm công cụ dự báo.  Bám sát việc phát triển công nghệ của toà soạn với hoạt động chuyển đổi số chung của Chính phủ và doanh nghiệp để đồng bộ trong chuẩn giao tiếp về thông tin.

Thứ bẩy,  Ban Chỉ đạo 35 của Ban Tuyên giáo Trung ương cần phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông hoàn thiện các văn bản chỉ đạo và quy chế, các tình huống trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.  Ban Chỉ đạo 35 cần chủ động phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy bám sát thực tiễn, kịp thời dự báo những tư tưởng không tích cực, những vấn đề nổi cộm tại các địa phương, chú ý đến việc bảo vệ nhân quyền của các giáo hội …; chủ động cung cấp thông tin với các nước, các tổ chức quốc tế về những nội dung quan điểm nhận thức chưa đúng về công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam

Thứ tám, các cơ quan báo chí cần lựa chọn những người có vị thế, uy tín trong xã hội có nhiều bài viết, nêu gương trong việc đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Tùy theo tính chất nhiệm vụ và khu vực Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức các lớp tập huấn của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí và những phóng viên chủ chốt, tích cực trong việc viết bài, phản ánh không chỉ trên báo mà còn các phương tiện trên  mạng xã hội với những cách làm sáng tạo để kiên quyết đập tan các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.

Trong năm 2021 và những năm tiếp theo, các cơ quan báo chí cần chủ động tuyên truyền về Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII; chú trọng vào việc tuyên truyền các ngày lễ kỷ niệm trong từng năm như: Ngày thành lập Đảng, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; Quốc khánh 2/9; Cách mạng Tháng Tám thành công; ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam./.

Một số giải pháp về phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta hiện nay

 

Để phòng chống “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta hiện nay, cần làm tốt những giải pháp cơ bản sau:

Một là: Thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ.

Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ là yếu tố cơ bản, then chốt tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội và từng đơn vị; đồng thời, giữ vai trò định hướng thúc đẩy hành động và hành vi tích cực của bộ đội, V.I. Lênin đã từng khẳng định: “Thắng lợi hay thất bại của cuộc chiến tranh phụ thuộc vào tâm trạng của người cầm súng đang đổ máu trên chiến trường”. Do đó, sức mạnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta đều bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc với bản lĩnh chính trị vững vàng. Đó là niềm tin sắt đá vào con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn, niềm tin tất thắng vào mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội đã tạo nên sức mạnh vĩ đại trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Quân đội và Nhân dân ta.

Hơn nữa, vấn đề cốt lõi của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là thực hiện “chiến thắng không cần chiến tranh”. Chúng đã tập trung phá hoại về chính trị, tư tưởng của Quân đội ta. Do đó,  phải nâng cao bản lĩnh chính trị cũng cố và giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ là tất yếu trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Yêu cầu bản lĩnh chính trị của bộ đội hiện nay là kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, có niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa và thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Phải luôn nhạy bén về chính trị, ứng xử kịp thời và đúng đắn các vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của quân đội và từng đơn vị. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm tư tưởng sai trái và phản động, các biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng, hoài nghi, dao động, lơ là mất cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ.

Để nâng cao bản lĩnh chính trị, cũng cố và giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng trong quân đội, trước hết phải tăng cường và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong mọi tình huống, đặc biệt trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị. Xây dựng bản lĩnh chính trị, cũng cố và giữ vững trận địa chính trị tư tưởng cho bộ đội phải triệt để quán triệt vào trong quá trình giáo dục huấn luyện để nâng cao tri thức và hiểu biết toàn diện cho cán bộ, chiến sĩ; phải gắn chặt thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và các mặt công tác khác. Trong đó, nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị là vấn đề rất quan trọng. Giải quyết tốt giữa toàn diện và trọng điểm, hết sức coi trọng các khu trọng điểm.

Nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác giáo dục, phải coi trọng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục lý luận chính trị, cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác những thông tin cho bộ đội. Đồng thời, quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng và các mối quan hệ xã hội của cán bộ, chiến sĩ trong từng đơn vị và giải quyết kịp thời đúng đắn, dứt điểm những diễn biến chính trị, tư tưởng phức tạp, những vấn đề mới nảy sinh, tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Hai là: Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, xây dựng mọi phương án chiến đấu, luyện tập thành thạo các phương án không để bị động, bất ngờ khi có tình huống xảy ra.

Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, luyện tập và thành thạo các phương án chiến đấu là một trong những nhân tố bảo đảm cho các đơn vị trong quân đội đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Đồng thời, đây còn là giải pháp trực tiếp đánh bại âm mưu thủ đoạn của kẻ thù hòng phá hoại quân đội về tổ chức, làm suy giảm khả năng chiến đấu, vô hiệu hóa sức mạnh chiến đấu của quân đội ảnh hưởng trực tiếp đến yếu tố chính trị, tư tưởng của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng tổ chức đảng là then chốt. Duy trì chặt chẽ đơn vị theo nền nếp chính quy và các chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm đơn vị luôn nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Ba là: Thường xuyên củng cố và phát huy vai trò các tổ chức, quản lý chặt chẽ đơn vị về mọi mặt thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình”.

Phòng chống “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của cả hệ thống chính trị, trước hết là ở các đơn vị cơ sở trong quân đội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng địa bàn, trực tiếp tiếp xúc với các thành phần xã hội và tiến hành công tác vận động quần chúng, đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của địch, đồng thời cán bộ, chiến sĩ cũng là những đối tượng mà địch chú ý tác động phá hoại; kẻ địch thường lợi dụng những kẽ hở, khâu yếu, điểm yếu của ta, những địa bàn, đơn vị có những vấn đề phức tạp, bộc lộ những yếu kém để chọn làm điểm đột phá, từ đó phát triển chống phá ta trên phạm vi rộng hơn.

Trước hết, đối với tổ chức đảng, cấp ủy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng nội bộ trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đơn vị thực hiện nhiệm vụ, coi đây là yếu tố then chốt quyết định đến thắng lợi của nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình”. Phải thường xuyên quán triệt, giáo dục làm cho mọi tổ chức đảng, đảng viên nhận thức sâu sắc nhiệm vụ, xây dựng tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí quyết tâm làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch.

Thường xuyên kiện toàn cấp ủy, chi bộ, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tăng cường công tác kiểm tra, bảo đảm cho nghị quyết của tổ chức đảng được thực hiện thắng lợi. Chăm lo xây dựng và phát huy vai trò tính tiền phong của đội ngũ đảng viên, thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ phòng chống “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, chỉ huy các cấp ở đơn vị cơ sở cả về số lượng và chất lượng, thể hiện ở các khâu từ lựa chọn, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí đúng người, đúng việc, phát huy vai trò tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Đặc biệt coi trọng bồi dưỡng nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường tư tưởng kiên định, kinh nghiệm tổ chức chỉ huy, nhất là trong lúc khó khăn, gian khổ, phức tạp để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống.

          Phát huy vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên và Hội đồng quân nhân là nơi tập trung mọi cán bộ, chiến sĩ trong các phong trào hành động cách mạng, thực hiện nhiệm vụ, phát huy dân chủ, tinh thần đoàn kết, tính chủ động trong việc ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch.

Bốn là: Phối hợp với địa phương và các đơn vị bạn xây dựng địa bàn vững mạnh, an toàn, kịp thời ngăn chặn và đập tan khi có tình huống bạo loạn xảy ra.

Xây dựng cơ sở vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong tình hình hiện nay, là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh là một nhiệm vụ của các đơn vị quân đội, là một nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phòng chống “Diễn biến hòa bình” và trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng đối với Quân đội ta.

Để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống “Diễn biến hòa bình” của địch có hiệu quả, thì một trong những biện pháp quan trọng là phải không ngừng tăng cường đẩy mạnh các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, nhằm tạo cơ sở chính trị, tinh thần cho quá trình thực hiện nhiệm vụ, phát huy sức mạnh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi người trong và ngoài đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hào bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng đối với quân đội bằng nhiều thủ đoạn vô cùng tinh vi, xảo quyệt. Do đó, thực hiện đồng bộ những giải pháp trên sẽ góp phần phòng, chống và làm thất bại âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng trong Quân đội ta, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay./.

Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch ở Việt Nam hiện nay

 

1. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ là giải pháp đầu tiên, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trong đó lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là rất quan trọng. Đây là giải pháp nền tảng chi phối, chỉ đạo các giải pháp khác trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, tiếp tục nâng cao hiệu quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nêu cao trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, người đứng đầu các cấp nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Kết hợp chặt chẽ công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền, xây dựng tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh.

2. Kết hợp chặt chẽ công tác lãnh đạo đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với lãnh đạo đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

Kết hợp công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” với đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ luôn đòi hỏi Đảng phải có biện pháp, cơ chế kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo của hai công tác này. Trong lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, phải thấy rõ mối quan hệ của nó với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” và coi đó là yêu cầu, nội dung và biện pháp quan trọng hàng đầu để tìm ra giải pháp làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”. Và ngược lại, trong đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, phải thấy rõ mối quan hệ của nó với “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, cái này đan xen, bện chặt vào cái kia, tác động, chi phối lẫn nhau. Vì vậy, phải coi đó là yêu cầu có tính nguyên tắc để có biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

3. Tăng cường đổi mới mạnh mẽ công tác lãnh đạo của Đảng; thực hiện nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong tình hình mới

Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”; đồng thời, thực hiện nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, đủ hiệu lực của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, của cấp ủy các cấp đối với công tác này.

Duy trì nghiêm và phát huy hiệu quả cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, có tư duy mới và biện pháp lãnh đạo phù hợp. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy dân chủ, tạo động lực trong công tác đấu tranh. Tăng cường bồi dưỡng tri thức lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh giai cấp, dân tộc; nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng; sắp xếp, kiện toàn Ban Chỉ đạo 94 các cấp tinh gọn, hiệu quả; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận và phổ biến kinh nghiệm về lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình” cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để họ không mắc mưu địch.

4. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, của cán bộ, đảng viên trong lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong tình hình mới.

Đề xuất được giải pháp mới nhằm phát huy vai trò của tổ chức đảng, cấp ủy đảng các cấp, của cán bộ, đảng viên với việc chủ động lãnh đạo thực hiện chương trình, kế hoạch đấu tranh đã xác định. Tiếp tục thúc đẩy các Ban Chỉ đạo phòng, chống “diễn biến hoà bình” các cấp hoạt động có kế hoạch, “chuyên nghiệp” và thực thi hơn, tránh mắc “bệnh” thành tích. Có cơ chế phối hợp giữa các tổ chức, các lực lượng, khắc phục những bất cập, chồng chéo trong công tác lãnh đạo. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, phải tích cực, chủ động, tiên phong trong cuộc đấu tranh này.

5. Quan tâm chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; làm cho dân no, dân yên, dân tin yêu Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa

Đây là giải pháp hỗ trợ trực tiếp, rất hiệu quả; phục vụ đắc lực cho công tác lãnh đạo đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; là thực lực sức mạnh và ưu thế của chế độ ta. Vì vậy, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho nhân dân; xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm cho chế độ xã hội luôn luôn ổn định, được đổi mới và phát triển. Cùng với đó, thực hiện tốt giải pháp này là góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; không để “khoảng trống chính trị” để các thế lực thù địch lợi dụng, xâm nhập chống phá cách mạng Việt Nam.

Tóm lại, âm mưu cơ bản, xuyên suốt và lâu dài của các thế lực thù địch là dùng “diễn biến hòa bình” để xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” là yêu cầu khách quan - mệnh lệnh của cuộc sống.

Thực tiễn Đảng lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” thời gian qua đạt được nhiều kết quả quan trọng cả về nhận thức và thực tiễn lãnh đạo; song còn có hạn chế nhất định. Nhận diện đúng âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” và tính chất nguy hiểm, tác hại to lớn của nó để đề xuất các giải pháp “xây” và “chống” sao cho hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các thế lực thù địch sử dụng “trăm phương ngàn kế” để chống phá ta, đó là ý muốn chủ quan của chúng; còn chúng có thực hiện được mưu đồ đen tối ấy hay không quyền quyết định là của chúng ta./.

Báo chí đi đầu trong đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch

 

Ngay từ khi ra đời, báo chí cách mạng Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, là một phương tiện truyền thông không thể thiếu trong thực tiễn cuộc sống của nhân dân. Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, báo chí luôn là lực lượng tiên phong, là công cụ sắc bén, hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Để góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phát huy hơn nữa vai trò của báo chí trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị tư tưởng trong thời gian gian tới, báo chí cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:

Thứ nhất, quán triệt và thực hiện tốt quan điểm của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước tình hình mới. Trước hết, các báo cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 22/CT-TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trong tình hình mới, Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”...

Trên cơ sở nhận thức đúng, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, các tổng biên tập với đội ngũ phóng viên, biên tập viên nhằm bảo đảm cho tờ báo của mình hoạt động đúng định hướng, đúng Luật Báo chí, đúng tôn chỉ, mục đích, góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong công chúng và bạn đọc.

Thứ hai, bám sát định hướng của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương; Ban Tuyên giáo Trung ương, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và nắm vững chức năng, nhiệm vụ được giao để xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức lực lượng đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phản bác quan điểm sai trái một cách sắc sảo, hiệu quả trên tất cả các loại hình báo chí và trên không gian mạng.

Thứ ba, chủ động xây dựng lực lượng “phản ứng nhanh” chuyên trách, nòng cốt, chuyên sâu, để khi cần thiết có thể mở các chiến dịch tuyên truyền, đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch trên các phương tiện truyền thông và trên không gian mạng, bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, chế độ XHCN ở Việt Nam.

Thứ tư, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, tổng biên tập, ban biên tập báo. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng trong cơ quan báo chí. Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, phóng viên, biên tập viên. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ chất lượng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên của báo.

Tóm lại, tình hình hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, thông tin nhiều chiều, các thế lực thù địch tạo sự nhiễu loạn thông tin hòng làm cho quần chúng nhân dân mất phương hướng. Vì vậy, báo chí phải tích cực, chủ động, nhạy bén đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, chế độ XHCN ở Việt Nam.

Một số kinh nghiệm về lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Kinh nghiệm thứ nhất, thường xuyên nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng cho tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân ở các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, xác định là nhiệm vụ cần thiết, cấp bách trong lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam. Đây là mặt trận tư tưởng mang ý nghĩa quyết định nhất đối với việc đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Kinh nghiệm thứ hai, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng cầm quyền thật sư đoàn kết, thống nhất, trong sạch vững mạnh là nhân tố quyết định thắng lợi trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.

Kinh nghiệm thứ ba, xây dựng mối quan hệ máu thịt hữu cơ sống còn giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân trong phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.

Kinh nghiệm thứ tư, nền kinh tế đất nước ổn định, phát triển bền vững là sức đề kháng tốt nhất của xã hội trước âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.

Kinh nghiệm thứ năm, lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân là công cụ sắc bén chuyên chính có hiệu quả với kẻ thù trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bao loạn lật đổ, chống phá Việt Nam.

Kết quả lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩatrên lĩnh vực chính trị.

 

Một là, đã làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ, phát triển và làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội Việt Nam. 

Hai là, đã vô hiệu hóa các luận điệu và hoạt động phá hoại tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị; bảo vệ thành công các quan điểm, tư tưởng đổi mới của Đảng. 

Ba là, góp phần củng cố giữ vững niềm tin vào thắng lợi của cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân; đã gắn chặt “xây” với “chống”, lấy “xây” làm chính. 

Bốn là, đã làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam về tổ chức, về công tác cán bộ; hệ thống chính trị của Việt Nam không ngừng được xây dựng và phát triển. 

Năm là, đã chủ động xây dựng bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo; tổ chức lực lượng và các điều kiện bảo đảm cho công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Sự ra đời và hoạt động hiệu quả của Ban Chỉ đạo 94 Trung ương, Ban Chỉ đạo 609 của Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Chỉ đạo 213 Trung ương về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật; Ban Chỉ đạo 94 Đảng ủy Công an Trung ương; Ban Chỉ đạo 94 Quân ủy Trung ương và các Ban Chỉ đạo 94 trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh 86, Lực lượng 47, cơ quan thường trực, lực lượng nòng cốt, lực lượng chuyên sâu, lực lượng tham gia đấu tranh ở từng cấp đã góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch

 

Lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam là một bộ phận quan trọng, nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách của công tác tư tưởng, văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; góp phần quan trọng vào việc giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc tác hại vô cùng to lớn của âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch đã làm cho chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tạm thời lâm vào thoái trào và chính nó đã và đang gây không ít khó khăn, cản trở công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới của các nước chủ nghĩa xã hội còn lại, trong đó có Việt Nam và Cu Ba.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu kỹ bản chất, âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá các nước xã hội xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu và tìm ra được những nguyên nhân chủ yếu làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu mất quyền lãnh đạo, chế độ xã hội chủ nghĩ bị sụp đổ. Về nguyên nhân chủ quan: Một là, Đảng Cộng sản biến chất, nội bộ mất đoàn kết và chia rẽ sâu sắc. Hai là, Đảng Cộng sản từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện cải tổ, cải cách đất nước, xây dựng xã hội “dân chủ” kiểu phương Tây. Ba là, không thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang và làm trong sạch các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Về nguyên nhân khách quan, nổi lên hai điểm chính: Một là, chủ nghĩa đế quốc và một số nước phương Tây hỗ trợ đắc lực cho lực lượng đối lập chống đối trong nước chống phá Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội củ nghĩa; thực hiện “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Hai là, lợi dụng thời điểm khó khăn, đời sống nhân dân không được đảm bảo, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và bộ máy nhà nước, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã lôi kéo, mua chuộc, tập hợp được một bộ phận đông đảo quần chúng đứng về phía họ để chống Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Từ nhận thức trên, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “diễn biến hòa bình” là một nguy cơ của cách mạng Việt Nam; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một nhiệm vụ cấp bách của cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc, diễn ra quyết liệt trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội; là công cuộc giữ nước của cả hệ thống chính trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, gồm tổng thể hoạt động đối nội, đối ngoại về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quốc phòng, an ninh,...được tiến hành bằng hệ thống giải pháp đồng bộ, khả thi vừa mang tính cấp bách trước mắt vừa là vấn đề cơ bản, lâu dài; kết hợp giữa phòng ngừa, ngăn chặn và răn đe, trừng trị với việc tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

Đây là cuộc chiến đấu trong thời bình, một “cuộc chiến không bom rơi, đạn nổ, không tiếng súng” nhưng vô cùng gay go, quyết liệt và phức tạp, giữa dân tộc Việt Nam kiên cường trong chống giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập dân tộc và đi theo con đường chủ nghĩa hội với “lũ giặc nội xâm”, đang tìm “trăm phương nghìn kế” để phá hoại công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” là nhất quán và được khẳng định là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài gắn chặt với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được thể hiện qua các kỳ đại hội và các hội nghị Trung ương kể từ khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới (1986) đến nay.

Sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tại Hội nghị Trung ương Ba khóa VII, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Nâng cao cảnh giác cách mạng, chống “diễn biến hòa bình”. Vạch trần những âm mưu thâm độc và những luận điệu chiến tranh tâm lý. Quản lý chặt chẽ các cuộc hội thảo, các dịch vụ thông tin, ngăn chặn việc lợi dụng diễn đàn và các cơ hội để thu thập tin tức tình báo, truyền bá các quan điểm thù địch và lối sống tư sản”1. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng xác định 4 nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam, đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ tham nhũng và các tệ nạn xã hội; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Hội nghị Trung ương Tám khóa IX, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Ngăn chặn, đẩy lùi mưu toan “diễn biến hòa bình”, nguy cơ can thiệp quân sự và xung đột vũ trang, xâm hại chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta”. Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”. Hội nghị Trung ương Tám khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới khẳng định: “Chủ động đấu tranh với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Không để hình thành tổ chức chính trị đối lập dưới bất kỳ hình thức nào”. Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định 4 nguy cơ vẫn tồn tại, “có mặt diễn biến phức tạp như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. 

Những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch tiếp tục được khẳng định trong văn kiện Đảng qua các kỳ đại hội, hội nghị Trung ương ở các khóa tiếp theo; đồng thời, được bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hóa trong thực tiễn lãnh đạo công tác đấu tranh này.    

Từ quá khứ đến hiện tại: Khởi đầu một kỷ nguyên mới

 Trong bối cảnh toàn cầu hóa và những thách thức mới của thế kỷ 21, việc nhìn lại chặng đường lịch sử hào hùng của Đảng không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn giá trị của sự lãnh đạo mà còn tạo động lực để xây dựng một tương lai tươi sáng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đây là lúc toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân cần chung tay, tận dụng bài học từ quá khứ để định hướng một kỷ nguyên phát triển bền vững và thịnh vượng cho đất nước và hiện tại Việt Nam đang đứng trước thời điểm lịch sử mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Trong suốt gần 95 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định vai trò là ngọn cờ lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc vượt qua muôn vàn thử thách để đạt được những thắng lợi vĩ đại. Từ khi ra đời (3-2-1930), Đảng đã đoàn kết toàn dân tộc, lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945) và đưa đất nước đi qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ để giành độc lập, thống nhất. Trong thời bình, Đảng tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo, khởi xướng công cuộc Đổi Mới (1986), đưa Việt Nam từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nền kinh tế năng động, có vị thế trên trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và những thách thức mới của thế kỷ 21, việc nhìn lại chặng đường lịch sử hào hùng của Đảng không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn giá trị của sự lãnh đạo mà còn tạo động lực để xây dựng một tương lai tươi sáng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đây là lúc toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân cần chung tay, tận dụng bài học từ quá khứ để định hướng một kỷ nguyên phát triển bền vững và thịnh vượng cho đất nước và hiện tại Việt Nam đang đứng trước thời điểm lịch sử mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

1. Quá khứ vẻ vang: Hành trình xây dựng và lãnh đạo dân tộc

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930)

Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930 trong bối cảnh đất nước chìm trong khủng hoảng và mất chủ quyền dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Sự ra đời của Đảng là kết quả tất yếu của sự giao thoa giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam. Sự xuất hiện của Đảng đánh dấu bước ngoặt quan trọng, mở ra con đường giải phóng dân tộc khỏi áp bức và bóc lột. Vai trò của Hồ Chí Minh là yếu tố quyết định trong việc xây dựng nền tảng tư tưởng, tổ chức và mục tiêu cách mạng của Đảng.

Hồ Chí Minh đã tìm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, qua đó đề ra con đường cách mạng vô sản phù hợp với tình hình đất nước. Với cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, Đảng xác định nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ đế quốc và phong kiến, đưa dân tộc tới độc lập, tự do.

Những cột mốc lịch sử quan trọng

Một là, lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ trong 15 năm từ ngày thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám 1945, đánh đổ ách thống trị thực dân, phong kiến, giành lại nền độc lập dân tộc. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 có sức mạnh xoay chuyển thời cuộc. Đây là một quyết định mang ý nghĩa lịch sử. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện “long trời lở đất”, một dân tộc “rũ bùn đứng dậy” đập tan xiềng xích nô lệ, giành độc lập dân tộc, đưa đất nước bước vào một kỷ nguyên mới. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, đánh dấu bước chuyển mình của Việt Nam từ một nước thuộc địa sang một quốc gia độc lập.

Hai là, vai trò trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thống nhất đất nước (1954 -1975). Sau khi giành độc lập, Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với những thách thức lớn trong công cuộc bảo vệ thành quả cách mạng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Hiệp định Giơ-ne-ve được ký kết, chấm dứt sự hiện diện của thực dân Pháp tại Việt Nam, đánh dấu thắng lợi đầu tiên của một dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống lại cường quốc thực dân làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, tạo cơ sở căn bản và quyết định, chấm dứt thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp tại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung.

Tuy nhiên, đất nước bị chia cắt, miền Nam Việt Nam rơi vào sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Trong suốt 21 năm tiếp theo (1954-1975), Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975. Thắng lợi này không chỉ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước mà còn khẳng định ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam trước những kẻ thù hùng mạnh nhất. Trong bài “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới” - Tổng Bí thư Tô Lâm viết là “Giai đoạn 1954 - 1975” và không đặt tiêu đề, đó là đặt trong tổng thể thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ; còn đặt trong tổng thể tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam thì từ năm 1954 đến năm 1975 là thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà hoặc là thời kỳ tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược.

Ba là, thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh và bước đầu hội nhập (1975-1986). Sau năm 1975, đất nước đối mặt với những khó khăn chồng chất. Hậu quả chiến tranh để lại nặng nề trên mọi phương diện: kinh tế kiệt quệ, xã hội bất ổn, và cơ sở hạ tầng bị phá hủy nghiêm trọng. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn này bằng tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường.

Năm 1986, tại Đại hội VI, Đảng khởi xướng công cuộc Đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt quan trọng, mở ra kỷ nguyên mới cho sự phát triển của đất nước, đồng thời thể hiện tầm nhìn và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.

Từ hành trình xây dựng và lãnh đạo dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc kết nhiều bài học quý báu:

Lòng kiên định với mục tiêu và lý tưởng cách mạng. Sự kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là kim chỉ nam giúp Đảng dẫn dắt đất nước vượt qua mọi thử thách.

Tinh thần đoàn kết toàn dân. Đoàn kết là cội nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Đảng luôn biết phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh của nhân dân với sự lãnh đạo sáng suốt để đạt được thắng lợi.

Tinh thần đổi mới và sáng tạo. Đảng không ngừng đổi mới tư duy, từ phương thức lãnh đạo đến chính sách phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và hội nhập với thế giới. Công cuộc Đổi mới năm 1986 là minh chứng rõ nét cho tinh thần này.

Phát huy giá trị truyền thống kết hợp với hiện đại hóa. Việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống, đồng thời tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, đã giúp đất nước vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.

Hành trình xây dựng và lãnh đạo dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam là một câu chuyện về lòng yêu nước, ý chí kiên cường và tinh thần đổi mới không ngừng. Với những bài học quý báu từ quá khứ, Đảng đã và đang tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Từ những nền tảng cách mạng vững chắc, Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với khát vọng vươn mình trở thành một quốc gia hùng cường, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. Hiện tại: Đổi mới và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng

Công cuộc Đổi mới (1986) và những thành tựu nổi bật

Một là, chuyển đổi kinh tế từ kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử với việc khởi xướng công cuộc Đổi mới. Đây là quyết định chiến lược nhằm thoát khỏi những khó khăn, khủng hoảng kinh tế kéo dài trong giai đoạn trước, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Quá trình đổi mới được thực hiện đồng bộ trên nhiều lĩnh vực, từ cải cách thể chế kinh tế, mở cửa thị trường đến đổi mới tư duy lãnh đạo. Chính sách "mở cửa" và khuyến khích đầu tư nước ngoài đã đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư quốc tế. Đến nay, cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã có sự chuyển dịch tích cực, với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng gia tăng. Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, GDP Việt Nam đạt khoảng 8 tỷ USD, xếp thứ 9/10 trong khối ASEAN. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2023 ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. 

Hai là, thành tựu về tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân

Những thay đổi trong chính sách kinh tế đã mang lại thành tựu nổi bật. Từ một quốc gia nghèo nàn, thiếu lương thực vào những năm 1980, Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hiệp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực..

Xóa đói, giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt, quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng đất nước. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xóa đói giảm nghèo đã được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng qua nhiều thời kỳ, ngày càng sâu rộng, toàn diện hơn. Trong giai đoạn 2016-2022, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo theo các quan điểm, chủ trương của Đảng như: Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 và chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, giai đoạn 2021-2025. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (6 chiều về việc làm; y tế, giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin). Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong công tác xóa đói giảm nghèo.

Bên cạnh đó, đời sống xã hội được nâng cao rõ rệt. Hệ thống y tế và giáo dục được đầu tư mạnh mẽ, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trung bình cao. Mạng lưới an sinh xã hội được mở rộng, đặc biệt chú trọng đến các nhóm yếu thế và vùng sâu, vùng xa, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau trên hành trình phát triển.

Ba là, tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã xác định rõ vai trò của hội nhập quốc tế như một chiến lược quan trọng để phát triển kinh tế và nâng cao vị thế đất nước. Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào năm 1995, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 và tham gia các hiệp định thương mại tự do quan trọng như CPTPP, EVFTA và RCEP.

Việc tham gia các tổ chức quốc tế không chỉ mở ra cơ hội tiếp cận các thị trường lớn mà còn thúc đẩy cải cách trong nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, các hoạt động này góp phần khẳng định vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bốn là, đẩy mạnh ngoại giao đa phương và nâng cao vị thế quốc gia

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã xây dựng một nền ngoại giao năng động, linh hoạt, với phương châm "làm bạn với tất cả các nước". Đất nước đã đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc hai lần (2008-2009 và 2020-2021), góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề quốc tế như hòa bình, an ninh và phát triển bền vững.

Các hoạt động ngoại giao đa phương như tổ chức APEC 2017, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều tại Hà Nội năm 2019 đã nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Những thách thức hiện nay

Một là, cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng và bảo vệ chủ quyền quốc gia

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, Việt Nam vẫn đối mặt với không ít thách thức. Một trong những vấn đề nổi bật là cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục rườm rà và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Phòng chống tham nhũng cũng là nhiệm vụ hàng đầu nhằm xây dựng bộ máy lãnh đạo trong sạch, minh bạch, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng.

Bên cạnh đó, việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, đặc biệt là tại Biển Đông, đặt ra yêu cầu cao về chiến lược và sự thống nhất trong hành động giữa các lực lượng.

Hai là, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững

Biến đổi khí hậu là thách thức lớn đối với Việt Nam, một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ nước biển dâng và thiên tai. Đảng đã đề ra chiến lược phát triển bền vững, chú trọng giảm phát thải khí nhà kính, phát triển năng lượng tái tạo và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.

Đồng thời, sự phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống của người dân. Đây là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững trong tương lai.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển. Từ một nền kinh tế nghèo nàn, Việt Nam đã vươn lên trở thành một quốc gia năng động, đầy triển vọng, với vị thế ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo trong kỷ nguyên mới, Đảng cần đối mặt và vượt qua các thách thức hiện nay, từ cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng đến ứng phó với biến đổi khí hậu. Với lòng tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam hoàn toàn có thể hiện thực hóa khát vọng trở thành một quốc gia phát triển, giàu mạnh và bền vững trong tương lai.

3. Khởi đầu một kỷ nguyên mới: Tầm nhìn và định hướng của Đảng

Bước vào kỷ nguyên mới, Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức đòi hỏi sự lãnh đạo toàn diện, sáng tạo và đổi mới của Đảng. Với tầm nhìn dài hạn đến năm 2030 và 2045, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đặt mục tiêu phát triển kinh tế mà còn khẳng định vai trò dẫn dắt trong xây dựng một quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập toàn cầu và bảo tồn những giá trị truyền thống. Để tạo nền tảng cho “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, nhằm hiện thực hóa mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao", trước mắt phải “dồn lực” để hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết XIII của Đảng.

Một là, định hướng phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn 2045

Mục tiêu lớn nhất mà Đảng đặt ra là Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.

Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Đến năm 2045, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Chuyển đổi số được xem là đòn bẩy quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế hiện đại hóa. Theo kế hoạch, đến năm 2030, kinh tế số sẽ đóng góp 30% GDP, với trọng tâm là xây dựng hạ tầng số, cải thiện năng lực cạnh tranh và tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch, hiệu quả. Các ngành công nghiệp chủ chốt như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo và dịch vụ tài chính kỹ thuật số đang được định hình như những mũi nhọn để Việt Nam không chỉ bắt kịp mà còn vươn lên trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hai là, củng cố và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ rằng để đạt được những mục tiêu lớn, việc củng cố và đổi mới sự lãnh đạo là yếu tố then chốt. Trước hết, Đảng cần xây dựng và duy trì một tổ chức vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Những giá trị cốt lõi như kiên định với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh thần đoàn kết toàn dân phải tiếp tục được bảo vệ và phát huy. Đồng thời, Đảng cần đổi mới tư duy lãnh đạo, tránh rập khuôn và cứng nhắc, nhằm thích nghi với những thay đổi nhanh chóng của bối cảnh toàn cầu.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trẻ, có năng lực và tầm nhìn, là nhiệm vụ cấp bách. Các chính sách đào tạo thế hệ lãnh đạo trẻ cần tập trung vào việc nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo và khả năng ứng dụng công nghệ mới. Đảng cũng khuyến khích sự tham gia tích cực của giới trẻ trong các hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội, xem đây là lực lượng kế thừa quan trọng trong quá trình phát triển đất nước.

Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức.

Đồng thời, đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực. Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục là ưu tiên hàng đầu trong việc củng cố niềm tin của Nhân dân. Một Đảng trong sạch, minh bạch và kiên quyết xử lý các hành vi sai trái sẽ tạo nên sức mạnh nội lực để lãnh đạo đất nước tiến xa hơn.

Ba là, sự gắn kết giữa truyền thống và hiện đại

Kỷ nguyên mới đặt ra yêu cầu không chỉ đổi mới mà còn bảo tồn những giá trị truyền thống quý báu. Đảng luôn nhấn mạnh rằng quá trình hiện đại hóa không thể tách rời khỏi việc kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc. Những giá trị văn hóa truyền thống, tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững.

Tuy nhiên, sự gắn kết này không chỉ dừng lại ở việc bảo tồn mà còn phải được thực hiện một cách sáng tạo. Đảng khuyến khích việc tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiến bộ của thế giới, từ đó làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc và tăng cường khả năng hội nhập quốc tế. Các lĩnh vực như nghệ thuật, giáo dục, và khoa học công nghệ đều cần có sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại để không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà còn tạo dấu ấn trên trường quốc tế.

Kỷ nguyên mới mở ra những cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng. Tầm nhìn đến năm 2030 và 2045 là kim chỉ nam, thể hiện khát vọng và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân trong việc đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc. Với các định hướng rõ ràng, chiến lược phát triển toàn diện và sự đổi mới không ngừng, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục là hạt nhân chính trị, lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thách thức, viết tiếp những trang sử vẻ vang trong hành trình hội nhập và phát triển.

Trong hành trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết định giúp đất nước vượt qua thử thách và đạt được những thành tựu to lớn. Từ khi ra đời vào năm 1930, Đảng đã lãnh đạo dân tộc qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng, đặc biệt là trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, Đảng tiếp tục lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước trong bối cảnh chiến tranh tàn phá nặng nề. Với sự lãnh đạo sáng suốt, Đảng đã đưa đất nước từng bước vượt qua khó khăn, khôi phục nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và khẳng định vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Kể từ Đại hội VI năm 1986, khi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ từ một nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Những chính sách kinh tế đúng đắn, sự quyết đoán trong xử lý các vấn đề quan trọng như phòng chống tham nhũng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Đảng không chỉ duy trì vai trò lãnh đạo đất nước mà còn đổi mới cách thức lãnh đạo, đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước.

Những thành tựu đã đạt được không thể thiếu sự đóng góp của từng cán bộ, đảng viên và người dân. Để đưa đất nước tiến lên trong kỷ nguyên mới, mỗi người dân, mỗi đảng viên cần phải nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng đã chỉ ra những mục tiêu lớn và hướng đi rõ ràng cho sự phát triển, nhưng để thực hiện thành công những mục tiêu đó, sự tham gia tích cực của toàn xã hội là điều không thể thiếu. Mỗi cán bộ, đảng viên phải là tấm gương mẫu mực trong công việc và cuộc sống, gương mẫu trong việc chấp hành các quy định của Đảng và Nhà nước, đồng thời phải luôn nỗ lực hết mình trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách của đất nước.

Mỗi người dân, với trách nhiệm công dân, cũng cần nỗ lực đóng góp vào sự phát triển chung, từ việc tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, đến việc bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao văn hóa cộng đồng. Chỉ khi toàn thể xã hội đồng lòng, cùng chung sức thực hiện mục tiêu chung, chúng ta mới có thể xây dựng được một kỷ nguyên mới, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, mạnh mẽ và vững vàng trong mọi thách thức.