Kiên quyết bác bỏ luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc rằng việc Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại quốc phòng “bốn không” độc lập, tự chủ là lỗi thời, lạc hậu, làm hạn chế sức mạnh của đất nước
Những năm qua, quán triệt và “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại để bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”, Việt Nam đã tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, hiệu quả; trong đó nổi bật về lĩnh vực quốc phòng và luôn xác định đó là phương thức, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mang tính đột phá, tạo điều kiện và môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều mối quan hệ quốc phòng song phương được củng cố, đi vào chiều sâu, ổn định, vững chắc; nhất là quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nước bạn bè truyền thống. Hợp tác quốc phòng đa phương cũng có những bước phát triển thực chất, đóng góp quan trọng vào việc xây dựng lòng tin chiến lược, thúc đẩy xu thế hòa bình, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột quân sự. Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã thực sự trở thành trụ cột then chốt trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc; là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; là phương thức thực hiện các mục tiêu về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của quân đội trong thời bình. Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối ngoại quốc phòng với hơn 100 quốc gia, trong đó hầu hết là các đối tác chủ chốt (bao gồm 7 đối tác chiến lược toàn diện; 11 đối tác chiến lược; 12 đối tác toàn diện; 3 quốc gia có quan hệ đặc biệt); đã đặt 33 cơ quan Tùy viên quốc phòng thường trú tại các nước và tại trụ sở Liên hợp quốc; 52 nước đã đặt cơ quan Tùy viên quốc phòng, Tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam đã cử 516 lượt cán bộ, nhân viên tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại các phái bộ ở Nam Xu-đăng, Cộng hòa Trung Phi và trụ sở Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, tháng 2-2023, Việt Nam đã cử 76 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tham gia khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là lĩnh vực nhạy cảm, trực tiếp liên quan đến những vấn đề hệ trọng của đất nước, thường gắn kết với các lĩnh vực hợp tác khác và phụ thuộc vào mức độ quan hệ về chính trị, kinh tế với các đối tác. Lợi dụng điều đó, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước, những nhóm người tự xưng là “yêu nước”, “tâm huyết”, “lo lắng” với vận mệnh quốc gia - dân tộc đã nhiều lần gửi cái gọi là “thư ngỏ”, “kiến nghị”, viết bài tán phát với giọng điệu xuyên tạc, bóp méo đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam. Họ thường rêu rao rằng, việc Việt Nam theo đuổi đường lối đối ngoại quốc phòng trung lập, độc lập, tự chủ là “bảo thủ”, “trì trệ”, “tự mình cô lập mình”, là “đơn phương tách khỏi dòng chảy hội nhập của thế giới đương đại”; rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tất yếu tăng lên; thế nhưng, Việt Nam vẫn “khăng khăng thực hiện chính sách quốc phòng bốn không” là “đường lối sai lầm”, “đối sách nhu nhược”, “hành động tự trói”, đã lỗi thời, lạc hậu, đi ngược lại xu thế của thời đại. Họ ra sức xuyên tạc chủ trương không tham gia liên minh quân sự của Việt Nam là “tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước” và việc “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” tức là đã “từ bỏ bạo lực cách mạng trong bảo vệ Tổ quốc, xa rời phương pháp cách mạng mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã khẳng định”. Ngang nhiên hơn, họ còn dựng chuyện, cố tình quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước là “khơi mào cho hành động chạy đua vũ trang trong khu vực”, là để chống lại một nước thứ ba.
Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng với chính sách đối ngoại quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Theo họ, để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo, Việt Nam phải “thoát bên này”, “bài bên kia”; phải nhanh chóng trở thành đồng minh, liên minh, liên thủ với một số nước lớn chứ không thể trung lập “một mình một phe”. Gần đây, nhân cuộc xung đột Nga - U-crai-na, các đối tượng phản động với mưu đồ chống phá đã vội vã xuyên tạc chính sách đối ngoại của Việt Nam là “không dám thể hiện lập trường”, là “đối ngoại quốc phòng núp bóng”, “đu dây”, là hành động “tự sát”. Thậm chí, có người còn “bóng gió” đầy ẩn ý rằng, trong bối cảnh xung đột căng thẳng, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với Nga tức là đã “đi với nước này để chống nước kia”. Từ đó, họ kích động cách hành xử bạo lực với cộng đồng người Việt Nam tại Nga và U-crai-na. Trơ trẽn và phi lý hơn, thông qua việc này, họ đưa ra yêu sách đòi chúng ta thay đổi đường lối và chính sách đối ngoại quốc phòng.
Rõ ràng, những luận điệu trên là hoàn toàn bịa đặt, vô căn cứ, không đúng sự thật. Mục đích của các thế lực thù địch, phản động là xuyên tạc trắng trợn, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại quốc phòng “bốn không”, độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta, hòng hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng, đối ngoại; gây khó khăn cho Việt Nam trong việc củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại quốc phòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, họ gieo rắc tâm lý hoang mang, hoài nghi về tính đúng đắn của đường lối quân sự, quốc phòng, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, hòng gây chia rẽ đoàn kết quân - dân, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, suy giảm sức mạnh quốc phòng của đất nước. Âm mưu thâm độc hơn khi họ cố tình hướng lái người dân từ bỏ trách nhiệm, nghĩa vụ đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự, dẫn tới gián tiếp hoặc trực tiếp tham gia các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò chiến lược quan trọng của hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; thực hiện chủ trương tranh thủ tối đa và phát huy cao nhất các nguồn lực để tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước, xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn; cạnh tranh chiến lược và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn diễn ra gay gắt; xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ và các điểm nóng có chiều hướng gia tăng; các vấn đề về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ngày càng chuyển hóa, đan xen, tác động sâu sắc trên nhiều lĩnh vực..., sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới càng đòi hỏi chúng ta tăng cường hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng; xác định rõ chủ trương, giải pháp thực hiện với lộ trình và bước đi phù hợp. Theo đó, cần quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 34-CT/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”; Kết luận số 53-KL/TW, ngày 28-4-2023, của Bộ Chính trị, “về Chiến lược hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, “về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và Đề án xây dựng Trung tâm điều phối quốc gia về gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; trong đó, xác định rõ các cấp độ đối ngoại quốc phòng phù hợp và tương thích với mức độ quan hệ hợp tác với từng đối tác cụ thể. Tập trung thực hiện tốt ba khâu đột phá trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là: Một là, tiếp tục mở rộng đối ngoại quốc phòng song phương có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở các thỏa thuận đã ký kết; tập trung vào lĩnh vực hợp tác về nghiên cứu khoa học quân sự, hiện đại hóa quân đội, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước. Ưu tiên thúc đẩy quan hệ quốc phòng gắn bó mật thiết, ổn định, vững chắc với các nước Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, thúc đẩy hợp tác và giải quyết các vấn đề còn tồn đọng, củng cố đường biên giới hòa bình, ổn định; coi trọng quan hệ hợp tác với các nước ASEAN; củng cố, phát triển quan hệ quốc phòng với các nước lớn; tăng cường quan hệ đối ngoại quốc phòng với các nước bạn bè truyền thống và các nước đang phát triển. Hai là, tích cực, chủ động tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, trước hết là các cơ chế hợp tác quốc phòng do ASEAN giữ vai trò chủ đạo; tham gia các cơ chế đa phương về kiểm soát vũ khí hủy diệt hàng loạt, hoạt động chống khủng bố và các hoạt động khác phù hợp với điều kiện, khả năng của đất nước. Ba là, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô, tham gia hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, như quan sát viên quân sự, huấn luyện, diễn tập chung về ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, hoạt động hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ thảm họa, khắc phục hậu quả chiến tranh... đúng với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. “Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, tạo vành đai an ninh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”.
Quá trình thực hiện quán triệt phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc là bất biến; kiên định về nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, sáng tạo về sách lược; về quan điểm luôn khách quan, trung lập; về nguyên tắc phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc và độc lập, tự chủ; về biện pháp, cách làm cụ thể phải nhạy bén; kịp thời trao đổi, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm; nâng tầm tư duy, hành động chắc chắn, hiệu quả. Tích cực tạo lập thế trận giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại vững chắc dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương trong thực hiện hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng; tập trung vào hoạt động đối ngoại của lãnh đạo các cấp, các sáng kiến, đóng góp của Việt Nam tại các hội nghị, diễn đàn quân sự, quốc phòng đa phương, kết quả hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh, hỗ trợ nhân đạo, đối ngoại biên giới, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nắm chắc diễn biến tình hình, những yếu tố tác động đến hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, nhất là cạnh tranh chiến lược, xu thế tập hợp lực lượng của các nước lớn, tình hình Biển Đông, tình hình trên các tuyến biên giới và vùng biển Tây Nam, các thách thức an ninh phi truyền thống... để xây dựng đối sách, phương thức xử lý hiệu quả. Triển khai hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đồng bộ trên các lĩnh vực; tham gia đầy đủ, hiệu quả các cơ chế, khuôn khổ, cấu trúc, diễn đàn khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, thể hiện vai trò dẫn dắt ở một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh; đảm nhiệm tốt vai trò chủ trì các hoạt động trong khuôn khổ của ASEAN./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét