Luận cứ phê phán quan điểm: "Chế độ một đảng lãnh đạo là nguyên nhân dẫn đến thoái hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên"
Bài viết tập trung đưa ra những luận cứ khoa học đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch cho rằng “chế độ một đảng lãnh đạo là nguyên nhân dẫn đến thoái hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên”. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục, đi đến chấm dứt các biểu hiện thoái hóa, biến chất trong đảng viên, cán bộ của Đảng.
Hiện nay, nhiều lý luận gia tư sản và các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội cho rằng: chế độ một đảng lãnh đạo là hệ thống khép kín, là chế độ độc tài, mất dân chủ, dẫn đến độc đoán, chuyên quyền và thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và các thành viên của hệ thống chính trị.
Thực chất của luận điểm trên đây là hoàn toàn phản khoa học, bộc lộ rõ động cơ, mục tiêu chính trị phản động, thù địch với chủ nghĩa xã hội. Sự “quan tâm” trên đây đối với họ hoàn toàn không phải vì “lo lắng” cho tình trạng thoái hóa, biến chất của của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các thành viên trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mà thực chất là muốn lợi dụng tình trạng đó để đi đến quy chụp, phủ định bản chất chế độ một Đảng Cộng sản lãnh đạo, tuyên truyền cổ xúy cho “đa nguyên”, “đa đảng”, “tư sản hóa” nền chính trị xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, chỉ trong chủ nghĩa tư bản mới có đa nguyên chính trị, đa đảng, bắt đầu từ khi có đấu tranh giữa vô sản và tư sản. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, trừ Đảng Cộng sản chân chính, còn lại các đảng phái chính trị khác về thực chất đều là các đảng tư sản đại diện cho quyền lợi của các tập đoàn tư bản khác nhau, đều mang bản chất của giai cấp tư sản, có chăng cái khác nhau giữa các đảng đó là sự phản ánh cái bản chất tư sản ấy ở những hình thức và mức độ không giống nhau mà thôi. Mặc dù cùng chung bản chất tư sản, nhưng do đại diện cho các tập đoàn tư bản khác nhau nên giữa các đảng tư sản có sự cạnh tranh gay gắt về quyền lợi, điều đó dẫn đến không thể có sự thống nhất chặt chẽ về tư tưởng và hành động. Để tranh thủ lôi kéo quần chúng, bảo vệ quyền lợi của tập đoàn mình, bên cạnh việc đấu tranh với các Đảng Cộng sản chân chính, các đảng tư sản cũng đấu tranh với nhau, tự “làm mới” mình. Song, dù có cố gắng đến đâu thì những nỗ lực đó của các đảng tư sản cũng không thể xóa bỏ được những “ung nhọt” xã hội, sản phẩm có tính lịch sử của cái tồn tại xã hội mà họ là người đại diện. Đó là tồn tại xã hội dựa trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, kéo theo đó tất yếu là một nền chính trị nhất nguyên tư sản. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”[1]. Đây chính là thực chất của cái gọi là “đa đảng, đa nguyên chính trị” trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
Xét ở phương diện thực tiễn lịch sử cụ thể, việc hình thành một đảng hay đa đảng lãnh đạo là do điều kiện lịch sử cụ thể của quốc gia dân tộc đó quy định và nó phản ánh quy luật vận động của chính lịch sử quốc gia dân tộc đó. Đảng Cộng sản chân chính được hình thành trên cơ sở sự kết hợp lý luận Mác - Lênin với phong trào công nhân. Lý luận và hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản là lý luận Mác - Lênin, đó là hệ thống lý luận cách mạng và khoa học nhất, là lý luận đúng đắn khi luận giải về quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người. Hơn nữa, như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho thiểu số giàu có”[2]. Vì vậy, trong thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa chỉ có duy nhất một Đảng Cộng sản lãnh đạo mới là hợp logic tất yếu, mới là đúng quy luật. Trong quá trình xây dựng và phát triển của mình, yêu cầu tất yếu đặt ra cho Đảng Cộng sản là phải thường xuyên tăng cường bản chất giai cấp công nhân để Đảng Cộng sản thật sự tiêu biểu cho lý luận cách mạng và khoa học; xứng đáng với sứ mệnh cao cả và vai trò tiên phong của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến, triệt để cách mạng và là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiêu biểu cho xu thế phát triển của thời đại mới.
Giai cấp tư sản và các đảng tư sản đã từng được coi là lực lượng chính trị tiên tiến khi nó đại diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chống lại chế độ phong kiến, giai cấp phong kiến nhưng nó trở nên lạc hậu, thậm chí là phản động khi chống lại giai cấp vô sản đại công nghiệp - đại diện cho phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, cho dù một đảng hay nhiều đảng tư sản thì thực chất cũng là chế độ nhất nguyên chính trị. Ngay cả các Đảng Cộng sản được phép hoạt động công khai cũng có nghĩa về cơ bản phải tuân thủ luật pháp tư sản, cũng nằm trong “khuôn khổ” chi phối của cái nhất nguyên tư sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam được ra đời trên cơ sở sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam vừa tuân theo quy luật chung, vừa có cái đặc thù riêng của điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc Việt Nam. Mặt khác, cơ sở xã hội - giai cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam không những tạo ra những mặt thuận lợi cho sự phát triển của Đảng mà còn dễ làm nảy sinh những khó khăn từ những nét đặc thù như tàn dư của xã hội cũ, dấu vết là thành phần xuất thân không phải là giai cấp công nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng. Từ ngày ra đời đến nay, Đảng ta đã lĩnh sứ mệnh, trọng trách lãnh đạo Nhân dân tiến hành đấu tranh chống đế quốc, phong kiến tay sai, đấu tranh chống các thế lực thù địch, chống đói nghèo, lạc hậu, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn đề cao vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đã thu được những kết quả to lớn. Nhờ đó, Đảng ta vẫn vững vàng với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của mình. Tuy nhiên, công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng có nơi chưa làm tốt, chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới đặt ra. Để vượt qua thử thách này, điểm chủ yếu, quyết định chính là sự nỗ lực chủ quan của mỗi tổ chức đảng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
94 năm trưởng thành và không ngừng lớn mạnh, Đảng ta luôn trung thành, kiên định, kiên trì những nguyên tắc, quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đồng thời, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam gắn liền với điều kiện cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ của dân tộc. Tuy nhiên, về mặt thực tiễn xã hội, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xuất phát điểm để chúng ta đi lên là rất thấp. Đây thực sự là những khó khăn to lớn và lâu dài trong quá trình Đảng lãnh đạo Nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn của Đảng đã chứng minh: chỉ có xây dựng các tổ chức, trước hết là tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh mới tạo được điều kiện cơ bản để xây dựng và phát huy sức mạnh của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng; đồng thời đấu tranh ngăn chặn, khắc phục sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ trong Đảng và bộ máy Nhà nước. Những lúc chúng ta chủ động, tích cực xây dựng các tổ chức, đấu tranh mạnh thì những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thoái hóa, biến chất giảm và được ngăn chặn. Nhưng nếu lơi lỏng thì những hiện tượng đó lại có biểu hiện diễn biến phức tạp, lây lan. Đó là vấn đề có tính quy luật.
Nêu ra những vấn đề trên để khẳng định rằng: bản chất của Đảng Cộng sản không hề có chỗ cho thoái hóa, biến chất mà thoái hóa, biến chất chỉ là những hiện tượng xã hội - lịch sử đi ngược lại bản chất của Đảng; chế độ một đảng lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn đến thoái hóa, biến chất. Xem xét hiện tượng thoái hóa, biến chất phải xem xét từ nguồn gốc tồn tại xã hội, với nguyên nhân trực tiếp từ trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, đảng viên trong rèn luyện, phấn đấu và trách nhiệm của từng tổ chức đảng cụ thể trong quản lý, giáo dục, sử dụng cán bộ, đảng viên. Nói như vậy không có nghĩa Đảng ta hoàn toàn không có trách nhiệm đối với hiện tượng thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Ngược lại, Đảng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm với tư cách là tổ chức lãnh đạo, giáo dục, quản lý, sử dụng cán bộ, đảng viên. Về lý luận và thực tiễn cho thấy, Đảng ta hoàn toàn có khả năng đấu tranh khắc phục và ngăn chặn, giải quyết các biểu hiện thoái hóa biến chất. Điều này phải được xem xét như một nội dung trong cuộc đấu tranh của những nhân tố tích cực để loại bỏ dần những hiện tượng tiêu cực trong quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Đó là cách xem xét khoa học, biện chứng và thực tiễn. Cách xem xét đó hoàn toàn khác về chất so với cách xem xét quy chụp, “đánh lộn xòng”, chiết trung, không có cơ sở khoa học, với dụng ý xấu của các thế lực thù địch khi cho rằng chế độ một đảng lãnh đạo là nguyên nhân gây ra hiện tượng thoái hóa, biến chất.
Chúng ta thừa nhận, trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên có chức, có quyền thì dễ phát sinh những hiện tượng lợi dụng chức, quyền thu vén cá nhân, dẫn đến thoái hóa, biến chất. Song không phải lúc nào và đảng viên nào cũng lợi dụng được chức quyền để thu vén cá nhân. Điều này còn phụ thuộc vào nhận thức, tư tưởng và động cơ của mỗi cá nhân, cùng với đó là ý thức trách nhiệm quản lý của từng tổ chức đảng, từng cơ quan, đơn vị. Cũng trong điều kiện như nhau nhưng kết quả rèn luyện, phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên khác nhau, có cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, song đa số cán bộ, đảng viên vẫn kiên định, vững vàng lập trường tư tưởng cách mạng. Từ đó, có thể khẳng định rằng, cơ sở của sự thoái hóa, biến chất không phải từ nội hàm của Đảng Cộng sản cầm quyền mà là từ những con người, tổ chức cụ thể. Để khắc phục thoái hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, vấn đề đặt ra không phải là thực hiện “đa nguyên”, “đa đảng” như các thế lực thù địch “đề xướng” mà ngược lại phải tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân và vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Chỉ khi có được nhận thức đúng vấn đề này, chúng ta mới thực sự hiểu sâu sắc vị trị, vai trò cũng như trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang của Đảng ta.
Nhận thức rõ căn bệnh nghiêm trọng này, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ rõ: “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi”[3]. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Đảng ta chỉ ra cụ thể: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái,… một bộ phận đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao… Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”[4].
Trong suốt các kỳ đại hội, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn đảng, phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tại Đại hội khóa XII, Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lựi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”[5]. Đi liền với đó, Đảng ban hành Nghị quyết số 04 - NQ/TW ngày 30/10/2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đáp ứng yêu cầu cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đồng thời, Đảng ta cũng xác định rõ “Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí”[6] theo phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Đến Đại hội XIII, Đảng ta tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII, đã đánh giá: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, được tiến hành toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nhiều vấn đề phức tạp được đặt ra và thực hiện từ những năm trước, nhưng hiệu quả còn thấp, trong nhiệm kỳ này đã có chuyển biến tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết quả cụ thể, rõ rệt. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và Nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn”[7].
Tuy nhiên, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””[8], “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”[9].
Trước tình trạng đó, Đảng ta đã xác định nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể nhằm đấu tranh ngăn chặn, khắc phục, đi đến chấm dứt các biểu hiện thoái hóa, biến chất trong đảng viên, cán bộ. Trong đó, trọng tâm là:
Thứ nhất, phải làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trước hết là cán bộ, đảng viên nhận thức đúng vị trí, vai trò và sứ mệnh lịch sử vĩ đại của Đảng ta, Đảng duy nhất đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng, lực lượng duy nhất có đầy đủ năng lực và điều kiện đáp ứng yêu cầu của lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đấu tranh cách mạng, chống tham nhũng, lãng phí, thoái hóa, biến chất; làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thấy rõ ý nghĩa, mục đích, yêu cầu và những thuận lợi, khó khăn cũng như tính chất gay go, quyết liệt của cuộc đấu tranh hiện nay. Trên cơ sở đó, xây dựng quyết tâm chính trị cao cho mỗi đảng viên, cán bộ và tổ chức đảng đồng tâm, hiệp lực, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Thứ hai, thường xuyên phổ biến, giáo dục và nghiêm chỉnh thực hiện Quy chế kiểm tra, giám sát trong Đảng; 19 điều quy định Đảng viên không được làm; phòng ngừa, ngăn chặn 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XII; quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy định 144-QĐ/TW ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật Khiếu nại, tố cáo; nội quy, quy chế, kỷ luật của mỗi cơ quan, đơn vị. Quán triệt và thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và Nhà nước về hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, tài chính, quản lý tài sản công, ngân sách, công quỹ. Bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm kê, kiểm soát, tăng cường giám sát của Nhân dân thông qua các cơ quan đại diện trực tiếp và gián tiếp đối với đảng viên, công chức, người có chức vụ, quyền hạn, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Mọi hoạt động kinh tế, tài chính, dịch vụ đều phải đảm bảo công khai, dân chủ và đúng nguyên tắc. Từng cấp có kế hoạch cụ thể, chu đáo quán triệt, giáo dục Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nhất là những nội dung về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; về phòng ngừa, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; về thực hành các chuẩn mực đạo đức cách mạng, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Từ đó có chương trình hành động, kế hoạch thực hiện cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn ở cơ quan, đơn vị mình.
Thứ ba, tích cực phòng ngừa và kiên quyết, kiên trì chống tham nhũng, lãng phí theo đúng tinh thần “xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ, công chức tham nhũng, không phân biệt chức vụ và địa vị xã hội, còn đương chức hay đã nghỉ việc. Thiết lập cơ chế khuyến khích, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng; đồng thời xử lý nghiêm những người bao che tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, ám hại người khác”[10]. Thực hiện các nội dung trên phải theo đúng các quy định, quy trình của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gắn với trách nhiệm cụ thể của từng tổ chức và cá nhân. Thực hiện chế độ trách nhiệm liên đới của người đứng đầu khi cơ quan, đơn vị mình để xảy ra vụ việc tham nhũng, lãng phí, thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên thuộc cấp quản lý. Đồng thời “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, truy tố, xét xử và xử lý nghiêm, đúng pháp luật các hành vi tham nhũng, lãng phí. Tăng cường giám sát và phòng chống tham nhũng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật”[11].
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức quần chúng trong đấu tranh chống tham nhũng, trực tiếp là trong tham gia xây dựng chi bộ, đảng bộ, xây dựng cơ quan, đơn vị, xây dựng và giám sát các hoạt động của cán bộ, đảng viên. Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của quần chúng cũng như của mọi cán bộ, đảng viên trong quản lý, sử dụng kinh tế, tài chính, tài sản, quỹ của cơ quan, đơn vị theo đúng pháp luật, quy chế chi tiêu của cơ quan, đơn vị, tổ chức. Từng cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức vụ, quyền hạn phải thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, nghĩa vụ của mình theo cương vị, trách nhiệm được phân công, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, hách dịch, cửa quyền đối với Nhân dân.
Thứ tư, chủ động, chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh,, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, thù địch, các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoàn thiện quy chế, quy trình về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm những cán nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, tán phát tài liệu có nội dung sai trái, thù địch trong Nhân dân. Tổ chức các diễn đàn trao đổi, đối thoại những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên quan đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tăng đồng thuận xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp của Việt Nam./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét