Trong
lịch sử 95 năm gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, trước những thời khắc cam go,
Đảng ta và Bác Hồ luôn có những quyết định đúng đắn biến những thách thức cam
go thành thời cơ thuận lợi để dân tộc ta vượt lên và đi tới.
Những thành quả to lớn
mà đất nước và nhân dân ta đạt được kể từ khi có Đảng luôn gắn chặt với sự lãnh
đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, gắn chặt với tên tuổi lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Trong
lịch sử 95 năm gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, trước những thời khắc cam go,
Đảng ta và Bác Hồ luôn có những quyết định đúng đắn biến những thách thức cam
go thành thời cơ thuận lợi để dân tộc ta vượt lên và đi tới.
Từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc trở về Tổ quốc lãnh đạo phong trào cách mạng vào ngày 28.1.1941, nhiều
quyết định lịch sử của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau này là Hồ Chí
Minh đã có tác động trực tiếp, quyết định đến những thành công của cách mạng
Việt Nam.
Năm
1941, chiến tranh thế giới lần thứ 2 lan rộng, cả châu Âu tràn ngập khói lửa
chiến tranh. Tháng 9.1940, phát xít Nhật mở cuộc xâm lược Việt Nam.
Chẳng những không bảo vệ
nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp ở Đông Dương còn câu kết với phát xít Nhật
thống trị và đàn áp nhân dân ta; đặt nhân dân ta vào tình cảnh “một cổ hai
tròng”. Lúc này, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với phát xít, thực
dân trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Trên
cơ sở nhận định khả năng diễn biến của chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn
cứ vào tình hình cụ thể trong nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã họp Hội
nghị lần thứ 8 (tháng 5.1941) và quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của
cách mạng Việt Nam.
Đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tất cả các mục tiêu, lợi ích khác đều
phải phục vụ cho mục tiêu cao nhất là giành độc lập dân tộc; quyết định thành
lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp tất cả các lực lượng, giai tầng đoàn kết bên
nhau cứu nước, cứu giống nòi.
Quyết
định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và xem đây là nhiệm vụ trung tâm của
Đảng và nhân dân ta. Tất cả những quyết sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng
của toàn dân ấy đã thúc đẩy mạnh mẽ cao trào giải phóng dân tộc để khi thời cơ
đến vào năm 1945, cả dân tộc Việt Nam theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” đã vùng lên với sức mạnh “chuyển
núi, dời sông”, đập tan xích xiềng của hơn 80 năm nô lệ, lật nhào chế độ quân
chủ chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm trên đất nước ta, giành chính quyền về tay
nhân dân, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người
làm chủ vận mệnh của chính mình, là người chủ thật sự của đất nước.
Ngay
khi nước nhà vừa giành được độc lập, công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân
ta đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thử thách đó là nạn đói, nạn dốt,
ngân quỹ trống rỗng, nền độc lập chưa được các nước công nhận...; thù trong,
giặc ngoài.
Đặc
biệt, 20 vạn quân Quốc Dân đảng Trung Hoa với danh nghĩa Đồng minh vào tước vũ
khí quân Nhật tràn vào miền Bắc nhưng thực chất là để lật đổ chính quyền non
trẻ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu lập chính quyền tay sai bù nhìn để cai trị
dân ta. Ở miền Nam, được quân Anh hậu thuẫn, thực dân Pháp nổ súng quay trở lại
xâm lược nước ta sau khi đồng bào ở miền Nam mới được hưởng độc lập vỏn vẹn 21
ngày.
Trong
tình thế “nước sôi lửa bỏng”, vận nước “ngàn cân treo sợi tóc”; Hồ Chủ tịch
cùng Chính phủ và Trung ương Đảng ta đã kịp thời đề ra những quyết sách đúng
đắn: diệt giặc dốt, giặc đói; huy động tổng thể sức mạnh của nhân dân chống xâm
lược.
Để tập
trung lực lượng đánh đuổi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược ở miền Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã liên tiếp ký các điều khoản tạm thời nhân nhượng khi thì
với quân Tưởng, khi với Pháp để bảo vệ độc lập dân tộc.
Trong hoàn cảnh thù
trong, giặc ngoài bủa vây bốn phía, bằng thiên tài lãnh đạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, nền độc lập của dân tộc đã được giữ vững. Ngày 6.1.1946,
trước họng súng của quân thù, cử tri cả nước đã tham gia bầu cử Quốc hội khoá
đầu tiên và sau đó là sự ra đời của Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định đầy đủ cơ
sở pháp lý của chính quyền dân chủ nhân dân.
Những
quyết sách đúng đắn đó đã bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng đưa đất nước
vượt qua khó khăn, thách thức bước vào giai đoạn cách mạng mới với kết thúc
bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, giải
phóng nửa nước, đưa miền Bắc tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội làm
hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược sau này.
Trước
khi thực dân Pháp buộc phải ký kết hiệp định Genève (21.7.1954) về việc lập lại
hoà bình ở Đông Dương thì từ ngày 15.7.1954, tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá II), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ kẻ thù trực tiếp
của cách mạng Việt Nam là đế quốc Mỹ: “Mỹ là kẻ thù chính của hoà bình thế
giới, ta phải tập trung lực lượng chống đế quốc Mỹ”.
Thực
tế diễn ra không ngoài tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đế quốc Mỹ phá hoại
hiệp định Genève, hất cẳng Pháp, nhảy vào miền Nam, dựng lên chính quyền tay
sai tàn bạo ở miền Nam với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước tình cảnh
đồng bào và chiến sĩ ở miền Nam phải sống trong cảnh kìm kẹp, khủng bố gắt gao
của chế độ phát xít bù nhìn; Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ yêu cầu
bức thiết của cách mạng miền Nam là phải tiến hành đấu tranh vũ trang chống lại
sự đàn áp của kẻ thù.
Trước tình hình ấy,
Trung ương Đảng ra Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)
năm 1959 về con đường tiến lên của cách mạng miền Nam. Nghị quyết này là một bộ
phận hữu cơ trong đường lối cách mạng, đường lối chống Mỹ cứu nước của Đảng ta
được thông qua tại Đại hội lần thứ 3 năm 1960.
Đây là
một tháo gỡ quan trọng nhất tìm hướng đi đúng đắn nhất, phù hợp nhất cho cách
mạng miền Nam. Nghị quyết 15 đã chuyển chiến lược từ đấu tranh chính trị đơn
thuần sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực
cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù, chuyển từ thế thụ
động sang thế chủ động tấn công, tạo nên bước tiến nhảy vọt cho cách mạng miền
Nam đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đến toàn thắng.
Vào
những năm giữa thập kỷ tám mươi của thế kỷ XX, Đảng ta đã nhận ra những bất
cập, hạn chế của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nên đã khởi xướng và lãnh
đạo kiên trì công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước vượt qua những
thử thách gay gắt nhất và thu được những thành tựu to lớn trong công cuộc xây
dựng đất nước.
Nhìn
lại lịch sử dân tộc suốt chặng đường từ khi có Đảng, điểm lại những thành quả
vĩ đại mà dân tộc ta đạt được trong đấu tranh giải phóng đất nước cũng như xây
dựng đất nước trong hoà bình đều mang những dấu ấn của những quyết sách trên
tầm tư duy chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Những quyết sách là
những bài học sâu sắc đối với Đảng và nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét