Sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu rơi vào khủng hoảng và sụp đổ dẫn tới sự thoái trào trong phong trào cách mạng trên thế giới. Nhưng ở một góc độ khác, quá trình cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những thập niên cuối thế kỷ XX trở lại đây; những cuộc khủng hoảng liên tiếp của chủ nghĩa tự do tư bản chủ nghĩa và sự xuất hiện của cao trào cánh tả Mỹ - Latinh, trong đó có khuynh hướng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI... đã khẳng định phong trào cộng sản và công nhân thế giới cũng đang từng bước được phục hồi. Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay thì rất cần phải tiếp tục giữ gìn bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản theo quan điểm của Lãnh tụ vĩ đại V. I. Lênin trong lý luận về xây dựng đảng kiểu mới cách đây hơn một thế kỷ. Có thể khẳng định, quan điểm của Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân nói chung, bảo đảm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản nói riêng cho đến ngày nay vẫn có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi công tác xây dựng Đảng, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức.
Về bản chất giai cấp
công nhân, C. Mác và Ph. Ăng-ghen là những nhà lý luận tiên phong đã chỉ ra bản
chất cao đẹp của giai cấp công nhân-giai cấp vô sản. Trên cơ sở nghiên cứu nguồn
gốc ra đời của giai cấp công nhân gắn liền với sự hình thành và phát triển của
của nền đại công nghiệp và các cuộc cách mạng công nghiệp tư bản chủ nghĩa, các
nhà lý luận đã khái quát lên các đặc điểm của mang tính bản chất của giai cấp
công nhân: là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản
xuất hiện đại vào bậc nhất của loài người; là giai cấp có tính chất triệt để
cách mạng nhất; là giai cấp có tổ chức và kỷ luật cao nhất; là giai cấp có bản
chất quốc tế và bản chất dân tộc sâu sắc. Chính những đặc điểm ưu việt ấy mà
giai cấp công nhân được lịch sử lựa chọn giao phó sứ mệnh lịch sử toàn nhân loại
là lãnh đạo phong trào đấu tranh xoá bỏ ách áp bức bóc lột, đồng thời là chủ thể
lãnh đạo và thực hiện công cuộc xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và tương lai
là cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, sứ mạng lịch sử ấy của giai cấp công nhân chỉ
được thực hiện thành công thông qua sự lãnh đạo của đảng cộng sản - đây là điều
mang tính chất tất yếu và đã được lịch sử minh chứng. Như vậy, khi tìm hiểu về
bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản, chúng ta cần phải hiểu đảng cộng
sản là chính đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công
nhân, mang bản chất giai chất của giai cấp công nhân. Bản chất ấy là sự kết hợp
những tinh hóa của bản chất giai cấp công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Đảng
cộng sản đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp xông công nhân, nhân dân
lao động và cả dân tộc. Điều này chủ yếu do lợi ích giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và cả dân tộc là thống nhất. Bản chất giai cấp công nhân cũng là đặc
điểm quan trọng giúp phân biệt Đảng Cộng sản với các đảng phái chính trị đối lập.
Với việc lãnh đạo thành
công Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực tại
nước Nga Xô-Viết, V.I.Lênin đã kế thừa, bổ sung và phát triển học thuyết nói
trên của C. Mác và Ph.Ăngghen. Bên cạnh việc nhấn mạnh tính chất đúng đắn, giá
trị của học thuyết Mác đối với sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân, Lênin đã
chỉ rõ thêm vai trò của giai cấp công nhân đối với sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa và vạch ra sự khác biệt giữa giai cấp công nhân và đảng cộng sản. Tuy
Đảng là một bộ phận không thể tách rời giai cấp, song Đảng không phải là toàn bộ
giai cấp. Đảng cộng sản được hình thành từ những người cách mạng nhất, kiên
trung nhất, gương mẫu nhất và là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Là một
phần không thể tách rời của giai cấp, được sinh ra từ phong trào công nhân và
liên kết chặt chẽ với giai cấp, nhưng đảng không phải là toàn bộ của giai cấp.
Theo yêu cầu của V.I. Lê-nin: Đảng không nên bị đánh đồng với toàn bộ giai cấp,
mà chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, được lựa chọn từ những người
có cái nhìn sắc bén nhất và xuất sắc nhất, luôn ưu tiên lợi ích của giai cấp và
dân tộc. Nếu nhầm lẫn giữa Đảng với giai cấp công nhân có nghĩa là đã phủ định
vai trò của Đảng là đội tiền phong của giai cấp và vô hình chung đưa đến tiêu
diệt đảng. V.I.Lênin nhấn mạnh: “ Không được lẫn lộn Đảng, tức là đội tiên
phong của giai cấp công nhân với toàn bộ giai cấp”[1].
Quan điểm này của Lênin cho chúng ta phân định một cách rõ ràng giữa đảng cộng
sản và giai cấp công nhân mặc dù cùng giữ vai trò lãnh đạo song mỗi một chủ thể
đều có những vai trò và vị trí lãnh đạo riêng, khắc phục hiện tượng nhận thức
mơ hồ, mập mờ. Đảng cộng sản lãnh đạo giai cấp và lãnh đạo hệ thống chính trị
thông qua hệ thống chủ trương, quan điểm, cương lĩnh, đường lối, chính sách
cách mạng; giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua hành động, nghĩa là dùng trực
tiếp vai trò chủ thể, tiên phong, lãnh đạo nhân dân tham gia phong trào cách mạng
và hoạt động sản xuất thông qua đảng cộng sản. Tuy có sự khác biệt lớn về vai
trò lãnh đạo như vậy, nhưng bản chất của đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải
như một. Có thể nói đây là tiến bộ về lý luận, tư tưởng của V.I.Lênin so với
C.Mác - Ph.Ăngghen.
Một bước đột phá lý luận của V.I.Lênin
so với với C.Mác - Ph.Ăngghen còn ở chỗ: Lênin rất chú ý về phẩm chất và năng lực
của đảng cộng sản. Người nhấn mạnh rằng, muốn giữ vững sự lãnh đạo của đảng cộng
sản trước hết phải giữ vững bản chất giai cấp công nhân của đảng. Đảng cộng sản
cầm quyền trong một cơ chế xã hội mới ưu việt phải biết làm sao cho chính đảng
trở nên vĩ đại (như Lênin nói là “đảng kiểu mới “). Để được như vậy thì Đảng cần
phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; phải làm sao nhằm
đảm bảo đội ngũ của đảng luôn trong sạch, không có nơi ẩn náu cho lũ tha hoá biến
chất, xấu xa, thù địch. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng hết sức cần
thiết, tuy nhiên, không vì vậy mà lại dễ dàng chấp nhận những người không đủ tư
cách hay những phần tử không trung thực, mưu mô, xảo quyệt, bè phái, tham ô, hối
lộ, cơ hội, lũ tham nhũng, hối lộ, bọn bè phái chống đảng... vào hàng ngũ của đảng.
Người cũng nhấn mạnh rằng, công tác đảng viên phải được tiến hành dưới nhiều
hình thức như: kết nạp lại đảng viên, vận động ra khỏi đảng, khai trừ ra khỏi Đảng...
với những biện pháp cụ thể, mạnh mẽ, kiên trì, lâu dài...
Những quan điểm nói
trên của Lênin về bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản là những nhận thức
mới mẻ và đúng đắn, phù hợp với bản chất của Cách mạng Tháng Mười, hoàn toàn
đúng đắn với Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước tiến lên
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo đất nước, tuy có những
thời điểm không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm nhưng Đảng vẫn kiên quyết
nhìn thẳng vào sự thật, tự phê bình và phê bình, thường xuyên chỉnh đốn để Đảng
giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của mình. Nhận thức rõ đảng
viên giỏi thì Đảng mạnh, đảng viên kém thì Đảng yếu, vì vậy, nên Đảng ta chưa
bao giờ khinh suất, coi nhẹ công tác bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên. Để giữ vững,
tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, trước
hết, mỗi một đảng viên đều phải nắm vững và thực hiện đúng những nội dung thuộc
phạm trù “bản chất giai cấp công nhân của Đảng “ nói trên theo quan niệm của
Lênin. Bao gồm:
Một là, người đảng viên
phải có tính tiền phong, gương mẫu và giữ vững mục tiêu, lý tưởng của Đảng là
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng được hình thành và
phát triển từ các đảng viên - những người ưu tú được lựa chọn từ các giai cấp,
các tầng lớp lao động trong xã hội. Để Đảng ngày càng lớn mạnh, có đủ khả năng
lãnh đạo đất nước đòi hỏi người đảng viên phải phát huy tính tiền phong, gương
mẫu, luôn xông xáo đi đàu, tiên phong mở đường trước, không ngại khó khăn, gian
khổ, “đảng viên đi trước, làng nước
theo sau”. Người đảng viên khác quần chúng thông thường ở chỗ
“ưu tú”, cho nên, từng lời ăn tiếng nói, hành động đều phải trung thực, gương mẫu.
Đúng như Hồ Chủ tịch đã nói: “ Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên
trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người
có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người
ta bắt chước...”[2].
Trong tình hình hiện
nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm
túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn,
nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong Đảng và trong bộ máy chính quyền
lại càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống,
phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo, như lời
Bác dạy: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền”[3].
Bên cạnh đó mỗi đảng viên phải dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm;
nói đi đôi với làm, gắn bó mật thiết với nhân dân, dám đương đầu với khó khăn,
thử thách, quyết liệt trong hành động.
Tính tiền phong của Đảng
được biểu hiện qua lý luận cách mạng - chủ nghĩa Mác-Lênin. Nó là nhân tố cơ bản
tạo nên nền móng tư tưởng, kim chỉ nam dẫn đường, chỉ lối, dìu dắt cách mạng đi
đến thành công. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;... Đây chính
là nguyên tắc cơ bản, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững
chắc của Đảng Cộng sản Việt Nam, “không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”[4].
Người đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, học tập nâng cao năng lực, trình độ
mọi mặt, kể cả về lý luận. Không được ngại học chính trị vì đây là yếu tố hàng
đầu nhằm giúp mỗi đảng viên nắm chắc lý luận tiên phong. Cần xác định ngay từ động
cơ, mục đích học tập: học không phải chỉ để lấy văn bằng mà nhằm có năng lực
công tác được tốt hơn, thoả mãn đòi hỏi thực tế đề ra. Có hiểu rõ lý luận ta mới
vững vàng tư tưởng, lập trường không lung lay hay hoang mang dao động. Lý luận
vững vàng thì không ai có thể xuyên tạc, bắt bẻ và mới có đủ căn cứ để đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Thực tiễn
cho thấy, có không ít cán bộ, đảng viên vì ngại nghiên cứu lý luận cho nên hiểu
biết lý luận không thấu đáo, nắm bắt lý luận qua loa, đại khái nên lúc đối diện
với các luận điệu sai trái thù địch bị “đuối lý”, dễ hoang mang, dao động. Song
nắm chắc lý luận thì cũng phải áp dụng vào thực tiễn cách mạng thì mới đáp ứng
được theo quan điểm duy vật biện chứng, nghĩa là phải luôn linh hoạt tuỳ theo
điều kiện, hoàn cảnh thực tế nhưng phải bảo đảm nguyên tắc, không được chủ
quan, cảm tính và quan trọng hơn cả phải giữ được tinh thần xung kích, không ngại
khó, ngại khổ của một người đảng viên chân chính.
Hai là, người đảng viên
phải đề cao ý thức kỷ luật, nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng, lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển của Đảng;
Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, luôn coi sự nghiêm túc chấp hành kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước là
đạo đức cách mạng, là nhiệm vụ thường xuyên của từng đảng viên và mọi cấp uỷ đảng.
“Người đảng viên phải không ngừng nêu cao tinh thần gương mẫu, tính tự giác,
nghiêm túc thực hiện kỷ luật, quy định, có như thế mới tăng cường kỷ luật, kỷ
cương và qua đó sẽ phát huy dân chủ trong Đảng. Bên cạnh đó mỗi đảng viên kiên
quyết chống lại các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; không để người
thân lợi dụng chức vụ để trục lợi; có ý thức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng, gương mẫu chấp hành sự phân công và các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình;
công minh, công bằng trong đánh giá, sử dụng cán bộ”.[5]
Những hiện tượng cán bộ, đảng viên, trong đó có nhiều cán bộ lão thành cách mạng,
đảng viên kỳ cựu dao động, mất định hướng, nghi ngờ đối với sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, kiên định mục đích, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội tại Việt Nam; xuất hiện những đảng viên có hành động và lời nói tuỳ tiện,
trái ngược với chủ trương, đường lối, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam; cá biệt
có một số đảng viên phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi đưa chủ nghĩa Mác -
Lênin rời khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, xa rời mục đích, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, đòi liên minh chính trị, đa đảng cầm quyền. Những phần tử ấy làm ảnh hưởng
tới khối đoàn kết, sự trong sạch, vững mạnh của Đảng; làm giảm sút niềm tin yêu
của cán bộ, đảng viên và quần chúng vào Đảng, Nhà nước và chế độ; làm suy giảm
bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Mỗi đảng viên cũng cần thẳng thắn, kiên
quyết thể hiện tính kỷ luật, tính đảng ngay trong sinh hoạt đảng tại chi bộ. Mỗi
đảng viên cần nêu cao tinh thần và ý thức với những việc cần phải biết, cần
nói, cần làm, cần kiểm điểm, cần phê bình. Bên cạnh đó, mỗi đảng viên phải thực
hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kết luận số
01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện chỉ thị số
05-CT/TW của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”. Đặc biệt, trên không gian mỗi đảng viên phải có ý thức
cảnh giác, không tùy tiện share, comment những thông tin chưa kiểm chứng hoặc
những nguồn không chính thống. Nghiêm cấm việc lợi dụng ngôn luận, lợi dụng dân
chủ phát biểu bừa bãi, đi ngược lại quan điểm, chính sách, đường lối của Đảng.
Phải nắm rõ và chấp hành nghiêm túc, đầy đủ các nhiệm vụ và trách nhiệm của người
đảng viên.
Ba là, người đảng viên
phải phát huy tinh thần tính triệt để cách mạng.
Theo C.Mác “triệt để có nghĩa là xét sự vật đến
tận gốc rễ của nó. Nhưng gốc rễ đối với con người chính là bản thân con người”[6].
Vì vậy, đồng thời với việc nắm chắc những quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước thì đảng viên phải là người có tính tự giác, chủ
động, tích cực trong vận dụng lý luận cho phù hợp với thực tế; luôn nghiêm khắc
với bản thân, không bị dao động bởi các hiện tượng lệch lạc, tiêu cực, coi thường
kỷ luật Đảng; làm bất kỳ việc gì cũng phải khẩn trương, nghiêm túc, công bằng.
Đối với mọi nhiệm vụ được phân công, người đảng viên phải luôn hoàn thành đầy đủ,
lấy năng suất, chất lượng công việc làm thước đo năng lực làm việc và bình xét
thi đua. Triệt để cách mạng cũng có nghĩa là trước khi tiến hành mọi việc phải
thận trọng, kỹ lưỡng nhưng khi làm phải có thái độ dứt khoát, rõ ràng, minh bạch
và khi thực thi phải gắn với đôn đốc, kiểm tra, nhắc nhở kịp thời. Không nên có
thái độ chủ quan, lập trường lung lay, do dự, thậm chí tự mãn hoặc lạc quan quá
độ. Sự khiêm tốn, chân thành, trung thực của người đảng viên cộng sản cũng là một
biểu hiện của tính triệt để cách mạng, cảnh giác trước âm mưu và không để bị kẻ
thù lợi dụng, kiên quyết không được thoát ly chủ nghĩa xã hội ngay từ trong nội
bộ. Không cổ xuý cho những quan điểm phản động, sai trái, bị các lực lượng phản
động lợi dụng nói xấu Đảng, Nhà nước ta. Bên cạnh đó, mỗi đảng viên cần phải thực
hiện nghiêm túc các nguyên tắc, quy định của Đảng, những việc đảng viên không
được làm, trong đó có kỷ luật phát ngôn, tuyệt đối không để cán bộ, đảng viên đứng
ngoài sự quản lý của tổ chức.
Những hành vi vô tổ chức,
chống đối, không thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, kích động chia rẽ, bè
phái nội bộ Đảng.... cần phải bị xử lí nghiêm minh nhằm duy trì nghiêm kỷ luật
của Đảng. Bản thân từng cán bộ, đảng viên phải tự giác tìm tòi, học hỏi, luyện
rèn trí tuệ, bản lĩnh cách mạng, nâng cao “sức đề kháng” đối với những quan điểm
sai trái, thù địch, không được “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, vi phạm kỷ luật
Đảng, làm lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, làm mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ, dung
túng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm. Có như thế, kỷ cương, kỷ luật của Đảng
mới ngày càng phát huy tác dụng, củng cố, tăng cường uy tín, vai trò, vị thế của
Đảng, bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản cũng mới ngày càng được củng
cố và phát huy.
Bốn là, chú trọng phát
huy và thực hiện bản chất dân tộc và quốc tế của giai cấp công nhân.
Tổ chức đảng các cấp và
đảng viên phải gắn bó máu thịt với nhân dân, phấn đấu vì lợi ích của quốc gia,
dân tộc, chủ nghĩa xã hội và nhận thức rõ “lợi ích của quốc gia, dân tộc là cao
nhất và trên hết nhưng tôn trọng Hiến chương Liên Hợp quốc và Pháp luật quốc tế”.
Dù ở bất kỳ đâu, mỗi đảng viên cũng phải nhận thức rõ cần phải gìn giữ và phát
huy bản sắc dân tộc, không ngừng giữ gìn và quảng bá hình ảnh đất nước và con
người Việt Nam với bè bạn quốc tế để ngày càng tăng cường vai trò, uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế. Tăng cường các quan hệ, hợp tác với các quốc gia,
vùng, miền trên nền tảng nâng cao trình độ hiểu biết ngoại ngữ, luật pháp, am
hiểu về văn hoá truyền thống dân tộc, làm chủ công nghệ và khoa học kĩ thuật...
Là người đảng viên đảng
cộng sản phải có tinh thần và thái độ hợp tác, đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt với
các quốc gia trên thế giới với tinh thần bình đẳng, hữu nghị, cùng có lợi; kiên
quyết và cứng rắn đối với âm mưu thù địch, chống phá trên mọi phương diện, kể cả
việc hợp tác về kinh tế. Quyết không đánh đổi lợi ích của quốc gia, dân tộc với
lợi ích kinh tế trước mắt; không vì lợi ích cục bộ, lợi ích cá nhân để chà đạp
lên lọi ích của đất nước và người dân.
Trong bài viết của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: “Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến
lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu
của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”[7],
để từ đó xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, “xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[8].
Trong điều kiện ngày nay, để giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đòi hỏi mỗi đảng viên phải tìm học tập và vận dụng tốt lý luận của
V.I.Lênin về nguyên lý đảng kiểu mới, trong đó có khẳng định “bản chất giai cấp
công nhân của đảng”./.
[1] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 28, Nxb Tiến bộ, Mát
xcơva, 1979, tr.289.
[2] Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, H.2011,t.6, tr.16.
[3] Nguyễn Phú Trọng: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.329
[4] Nguyễn Phú Trọng, Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.29-30, 237-238, 211,
9-10.
[5] Nguyễn Phú Trọng: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 347.
[6] C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Tuyển
tập, NXB Sự thật, 1980, tập 1, tr.25
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 2011, tập 3, tr.219.
[8] Sách đã dẫn, tập 5,
tr.252.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét