Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

Bàn luận về bản chất của chủ nghĩa xã hội qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 (ĐCSVN) - Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có tầm khái quát cao về lý luận, thực tiễn và những định hướng đặt ra cần bổ sung, phát triển tiếp tục làm rõ lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Ngày 16 tháng 5 năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết của Tổng Bí thư có kết cấu, cách tiếp cận nội dung rất cơ bản, hệ thống và khoa học, đã đặt ra và giải đáp một số nội dung: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì? Tôi rất tâm đắc với các nội dung thể hiện trong bài viết có tầm khái quát cao về lý luận, thực tiễn và những định hướng đặt ra cần bổ sung, phát triển tiếp tục làm rõ lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở phạm vi bài viết của mình chỉ góp phần tập trung bàn luận về bản chất của chủ nghĩa xã hội qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua. Ảnh minh họa. Ảnh: Việt Hà 

Thứ nhất, bài viết sử dụng phương pháp so sánh bản chất giữa chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa với chủ nghĩa xã hội. Theo đó chỉ rõ, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, những bất công xã hội và đời sống của đa số dân cư lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa chỉ là vì lợi nhuận của giai cấp tư sản. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Tổng Bí thư đã phân tích, khẳng định các cuộc khủng hoảng hiện nay chỉ làm trầm trọng thêm mâu thuẫn vốn có và không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa. Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa.

Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đó là yếu tố bản chất nhất để so sánh sự khác nhau giữa chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Hệ thống quyền lực ở các nước tư bản chủ nghĩa vẫn chủ yếu thuộc về giai cấp tư sản (thiểu số giàu có) và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của Nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản và quyền lực của Nhân dân lao động chỉ là lý thuyết.

Thứ hai, khẳng định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Tổng Bí thư đã khẳng định bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xây dựng dựa trên học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự vì lợi ích của Nhân dân lao động.

Thứ ba, bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ. Tổng Bí thư cho rằng đó là “sự sáng tạo của Đảng ta”, vì kinh tế thị trường là giá trị chung của nhân loại, chứ không phải là giá trị riêng của giai cấp tư sản và chủ nghĩa xã hội kế thừa giá trị nhân loại để phát triển hơn là hợp quy luật khách quan.

Thứ tư, về bản chất chính trị của xã hội XHCN mà Việt Nam xây dựng là xã hội của dân, do dân, vì dân và quyền lực thuộc về Nhân dân. Tổng Bí thư khẳng định: “Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân là chủ”. Hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản là: “pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân”. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.

Thứ năm, về bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là xã hội phát triển hài hòa, tiến bộ, công bằng vì con người. Trong bài viết Tổng Bí thư đã khẳng định ở những nước tư bản thường diễn ra: Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội… Còn ở nước ta thường xuyên đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa cho Nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Sự khác biệt rất cơ bản giữa bản chất xã hội của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với chủ nghĩa tư bản là: chúng ta không chạy theo kinh tế đơn thuần và bằng mọi giá mà luôn luôn gắn kết hài hòa với yếu tố xã hội, bảo đảm lợi ích chân chính của Nhân dân lao động. Sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Việt Nam chưa phải là nước giàu, đang ở giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng thu hẹp, bình đẳng và công bằng xã hội ngày càng được tăng cường. Hiện tượng cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm được xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Mỗi chính sách kinh tế của Đảng là gắn với chính sách xã hội, coi trọng và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vì một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn và vì khuyến khích Nhân dân làm giàu.

Trong xã hội con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Phát triển giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Chúng ta luôn luôn chăm lo thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam…

Thứ sáu, thực tiễn chứng minh bản chất ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng. Trong bài viết Tổng Bí thư đã đưa ra dẫn chứng thực tế, với kết quả “Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó đáng chú ý: Về kinh tế, trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Sau chiến tranh, Mỹ và các nước phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong gần 20 năm… Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Về xã hội, hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của Nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước).

Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng.

Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được Nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống Nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

Cuối bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đã nhận định: Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Đảng ta đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi…

Thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện tập trung ở giải trình bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Tổng Bí thư trong bài viết. Đó là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của Nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; kiên định với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực, uy tín để tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thành tựu mà đất nước đạt được trong 35 năm đổi mới đã chứng minh đường lối lãnh đạo của Đảng ta là đúng đắn, không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, tiếp tục chỉ đạo nhiệm vụ quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong đời sống. Những nội dung cơ bản của bài viết cần tiếp tục được nghiên cứu, luận giải, làm cơ sở cho quá trình quán triệt, tổ chức thực hiện. Đường lối, quan điểm của Đảng chỉ trở thành lực lượng vật chất khi được thâm nhập, quán triệt sâu sắc và tổ chức trong hoạt động thực tiễn ở mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Chúng ta tin tưởng rằng, với trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối lãnh đạo công cuộc đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng; khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hùng cường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của Nhân dân sẽ trở thành hiện thực.

                                                                                              Nguon: dangcongsan.vn

Hiệu quả từ việc nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật.

 Là đơn vị tàu chiến đấu mặt nước hiện đại của Quân chủng Hải quân, thời gian qua, Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân đã tập trung nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật. Với những giải pháp đồng bộ cùng cách làm sáng tạo, việc bảo đảm tốt công tác kỹ thuật đã góp phần nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của toàn Lữ đoàn; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong tình hình mới.

Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân là đơn vị chiến đấu được biên chế đa dạng về chủng loại tàu thuyền, xe, vũ khí, trang bị kỹ thuật. Tuy nhiên, qua nhiều năm khai thác, sử dụng, tuổi thọ, độ tin cậy, tính đồng bộ của nhiều phương tiện, vũ khí, trang bị kỹ thuật đã suy giảm. Mặt khác, các loại vật tư, linh kiện để thay thế, sửa chữa có tính chất đặc thù, đặc chủng cao; rất khó khăn trong việc bảo đảm và khai thác trên thị trường. Trước thực trạng đó, Đảng ủy, chỉ huy Lữ đoàn 167 đã chú trọng đẩy mạnh phong trào “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” trong toàn đơn vị; xác định đây là giải pháp quan trọng để thực hiện đột phá “xây dựng nền nếp chính quy kỹ thuật, làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật” và nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật của toàn Lữ đoàn.

Cán bộ chiến sĩ Tàu 380, Lữ đoàn 167 kiểm tra hệ thống pháo AK 630 trong "Ngày Kỹ thuật" .

Theo đó, hằng năm, phong trào “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” ở Lữ đoàn 167 đã được đông đảo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật hưởng ứng tích cực gắn với nhiều hình thức, biện pháp cụ thể, phù hợp như: phát động Hội thi mô hình học cụ; Hội thi "Kho trạm, xe máy tốt; lái xe an toàn"; Hội thi "Bàn tay vàng";… Cùng với đó là việc quan tâm, hỗ trợ kinh phí để nghiên cứu, triển khai các mô hình, sáng kiến và khen thưởng, động viên kịp thời các cá nhân, tập thể có sáng kiến mang tính ứng dụng cao. Đặc biệt, Lữ đoàn còn thành lập Tổ sửa chữa cơ động bao gồm những cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật có nhiều kinh nghiệm; thành lập Tổ tinh chỉnh tàu chính quy mẫu mực; triển khai áp dụng các sản phẩm sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đã được thông qua.

Cùng với đó, cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của Lữ đoàn 167 đã tích cực nghiên cứu, chế tạo thành công một số linh kiện, vật tư thường xuyên hư hỏng trong quá trình khai thác sử dụng. Các sáng kiến phong phú về nội dung có tính khả thi, thực tiễn cao; nội dung tập trung vào nâng cao chất lượng công tác bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật đáp ứng tốt yêu cầu bảo đảm kỹ thuật cho trang bị của đơn vị. Qua phong trào thi đua đã có một số sáng kiến cải tiến kỹ thuật cao như: Bo mạch điều khiển hệ thống điều hòa KЛИMAT125, 40Б; Cẩm nang sửa chữa Tua bin khí M15Э trên tàu 12418; Quy trình thay xăm khí; cẩm nang sửa chữa pháo AK-176; Thiết bị đo độ nghiêng của tàu. Thiết bị cảm biến tốc độ vòng quay, thiết bị vi xử lý; dùng để điều khiển việc cấp khí khởi động vào cho động cơ đề;…

Cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của Lữ đoàn 167 kiểm tra tình trạng kỹ thuật của thiết bị.

Được biết, chỉ tính từ năm 2019 đến nay, đơn vị có hơn 45 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được triển khai thực hiện hiệu quả, nhiều sáng kiến được lựa chọn tham gia thi cấp Vùng và Quân chủng kết quả cao. Đặc biệt trong năm 2019 Mô hình “Thiết bị huấn luyện bắn pháo cho trắc thủ tại bàn điều khiển ПУАРТ 76” của Đại úy Vũ Xuân Huy đạt giải A giải thưởng Nguyễn Phan Vinh và giải Ba giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội.

Theo đồng chí Thượng tá Phạm Tiến Dũng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 167, để công tác kỹ thuật đi vào thực chất, hiệu quả, thời gian vừa qua, Đảng uỷ chỉ huy Lữ đoàn đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo Phòng Hậu cần - Kỹ thuật và các cơ quan, đơn vị triển khai đồng bộ nhiều biện pháp gắn với thực tiễn của Lữ đoàn. Đồng thời, thường xuyên quan tâm động viên đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật nêu cao trách nhiệm, thực hiện tốt các nội dung công tác kỹ thuật.

Nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật góp phần bảo đảm cho Lữ đoàn 167 hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Đặc biệt, trước khi các tàu thực hiện nhiệm vụ đi biển, tổ sửa chữa của Lữ đoàn 167 đã phối hợp với đơn vị kiểm tra nắm tình trạng vũ khí, trang bị kỹ thuật, hệ động lực, thân vỏ tàu, vừa chủ động khắc phục những hỏng hóc trong thời gian cấp bách. Lữ đoàn cũng đã chủ động ban hành bộ tiêu chí tàu “Chính quy, mẫu mực” theo từng dạng tàu và tổ chức thực hiện tốt các tiêu chí. Đồng thời, tổ chức cho các đơn vị, các tàu thực hiện nghiêm giờ kỹ thuật trong ngày, ngày kỹ thuật trong tuần, tháng, quý; chế độ sấy, kiểm tra vũ khí, trang bị kỹ thuật;… Định kỳ hàng quý, Lữ đoàn tổ rút kinh nghiệm công tác bảo quản, kiểm sửa nhằm khắc phục những khâu yếu, mặt yếu còn tồn tại đồng thời xây dựng nền nếp công tác kỹ thuật chính quy, an toàn. Nhờ đó, trong năm 2023 vừa qua, 100 số tàu của Lữ đoàn 167 đã được Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân công nhận đạt tiêu chí “Tàu chính quy mẫu mực”; Lữ đoàn đã làm mới 720 tem nhãn, 623 xương sườn. Bảo quản, sơn sửa được 4.440 m2 mạn tàu và mặt boong.

Tuy điều kiện vật chất, kinh phí còn nhiều khó khăn, song đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của Lữ đoàn 167 đã tích cực, phát huy tinh thần trách nhiệm và năng lực sáng tạo để nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật. Qua đó, bảo đảm cho các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất của Lữ đoàn, trọng tâm là sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện chiến đấu, tuần tra, trinh sát bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng của Tổ quốc. Đồng thời, tạo cơ sở để Lữ đoàn 167 luôn là điểm sáng trong công tác kỹ thuật và phong trào “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật” của Vùng 2 nói riêng và Quân chủng Hải quân nói chung./.


Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp

 ác văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, sau khi hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta chuyển sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN). Nhưng thực tế, cho đến nay vẫn còn không ít người hoài nghi về tính tất yếu của sự quá độ này, thậm chí có ý kiến cho rằng, không cần sử dụng phạm trù thời kỳ quá độ hoặc nên lựa chọn một con đường khác. Bởi vậy, làm rõ tính tất yếu khách quan và nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN ở nước ta vẫn là một vấn đề lý luận và thời sự cấp bách trong hoàn cảnh hiện nay.

Đồng chí Nguyễn Đình Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy định kỳ tháng 5/2022. Ảnh: Duy Tiến

Khi phân tích những mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản và những đặc trưng của xã hội cộng sản, Các Mác đã chỉ ra rằng, từ xã hội TBCN lên xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN) là cả một thời kỳ lịch sử lâu dài, từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công CNCS. Trong quan niệm đó, thời kỳ quá độ được coi là một quá trình cải biên từ xã hội TBCN lên xã hội CSCN. Trên cơ sở thực tiễn của Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga và thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô, Lênin đã phát triển nhiều luận điểm mới cho rằng, từ CNTB lên CNXH có một thời kỳ lịch sử đặc biệt, đó là thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung thêm, các nước thuộc địa, nô lệ, tiền TBCN đặt trong chủ nghĩa Mác - Lênin có thể quá độ lên CNXH. Vì vậy, con đường quá độ từ CNTB lên CNXH và CNCS là một tất yếu khách quan của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội.

Nước ta đi lên CNXH là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới. Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biến cách mạng mà bất cứ quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua. Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu lịch sử. Bởi vì, thời đại chúng ta đang sống là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Đảng ta ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh năm 1930 đã khẳng định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta là độc lập dân tộc và CNXH. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, lại phù hợp với xu thế của thời đại.

Đảng ta ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh năm 1930 đã khẳng định mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta là độc lập dân tộc và CNXH. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, lại phù hợp với xu thế của thời đại.

Trong tác phẩm của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột TBCN; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển CNTB. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.

Rõ ràng, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta sẽ lâu dài và gian khổ, vì một chế độ này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái tiến bộ nhất định thắng. Nước ta lại là một nước nông nghiệp, công cuộc thay đổi xã hội cũ thành xã hội mới sẽ gian nan và phức tạp hơn đánh giặc, vì phải đấu tranh với kẻ địch nguy hiểm khác đó là nghèo nàn, đói khổ và lạc hậu.

 

Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới".

 
Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử nước ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng nghìn năm. Chúng ta phải cải biến quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ vang nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và đầy khó khăn nhất. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay, nước ta luôn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ngay cả trong điều kiện không còn hệ thống XHCN thế giới.

CNTB có vai trò lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã hội hóa lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu TBCN. Quá trình này diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ. Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định hướng XHCN. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức đầy đủ sự rút ngắn ở đây không phải là công việc có thể làm nhanh chóng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Tiến lên CNXH, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục; CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần”. Do đó, chúng ta không thể nóng vội tiến ngay lên CNXH mà còn phải duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong một thời gian tương đối dài.

Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp chúng ta khắc phục được những quan niệm đơn giản, duy ý chí về thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước đang phát triển. Đồng thời, chúng ta không ngừng tiếp thu có chọn lọc, tận dụng phù hợp với giá trị của nền văn minh nhân loại để hiện thực hóa con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.    

                                                                                                        Nguon: baodaklak.vn

Khỏe để sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ biển, đảo Tổ quốc.

 Thời gian qua, Lữ đoàn 167 (Vùng 2 Hải quân) đã đẩy mạnh phong trào rèn luyện thể lực, tập luyện thể thao rộng khắp trong toàn đơn vị. Hoạt động thể dục, thể thao không chỉ góp phần nâng cao sức khỏe của cán bộ, thủy thủ mà còn tạo dựng tinh thần lạc quan, hăng say học tập, huấn luyện, công tác cho bộ đội theo phương châm “Khỏe để sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ biển, đảo Tổ quốc”.

Cuối buổi chiều, trên sân thể thao trung tâm của Lữ đoàn 167, đông đảo cán bộ, thủy thủ đã ngay ngắn tập trung theo đội hình trung đội, sẵn sàng cho các bài huấn luyện ngoại khóa bổ sung như vượt hàng rào thép gai, vượt vật cản tường 1,1 m, chạy 100 m, nhảy xa, vượt vật cản Hải quân,… Sau các động tác khởi động theo quy định, những chiến sĩ trẻ tự tin thực hiện các nội dung rèn luyện thể lực một cách thuần thục, dứt khoát, bảo đảm an toàn luyện tập.

Được biết, đã thành nền nếp, hằng ngày, ở tất cả các sân chơi thể thao của Lữ đoàn 167, đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp đều cùng tham gia tập luyện, thi đấu với thủy thủ, chiến sĩ. Bên cạnh các môn thể thao phổ biến như bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông, đơn vị còn duy trì một số trò chơi thể thao quân sự trong giờ nghỉ, ngày nghỉ giúp hạn chế tình trạng “xả hơi” trong thời gian rảnh rỗi, ngăn chặn những nguy cơ dẫn đến vi phạm kỷ luật của bộ đội. Bên cạnh đó, các trò chơi thể thao quân sự còn giúp rèn luyện giác quan, ý chí quyết tâm giành chiến thắng và gắn kết tinh thần đồng đội.

Để phong trào rèn luyện thể lực, luyện tập thể thao có điều kiện lan tỏa sâu rộng, Lữ đoàn đã trích quỹ, đầu tư mua nguyên vật liệu, huy động công sức bộ đội tự gia công, thiết kế các trang thiết bị, hạng mục phục vụ nhu cầu tập luyện thể thao như: Sân tennis, sân bóng đá, sân bóng chuyền, khu tập thể lực, khu luyện tập vượt vật cản… Không chỉ duy trì luyện tập, các cơ quan, đơn vị còn thường xuyên tổ chức thi đấu giao lưu với nhau, với các đơn vị kết nghĩa.

Theo đồng chí Thượng tá Lê Đức Thảnh, Phó Lữ đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Lữ đoàn 167, xuất phát từ đặc thù của đơn vị tàu chiến đấu mặt nước hiện đại của Quân chủng Hải quân, rèn luyện thể lực, luyện tập thể thao là hoạt động không thể tách rời của huấn luyện chiến đấu tại Lữ đoàn. Việc tham gia chơi thể thao vừa để rèn luyện vừa là thời gian thư giãn. Đây cũng là dịp giúp đơn vị phát hiện những cá nhân có năng khiếu để bồi dưỡng, huấn luyện, xây dựng lực lượng nòng cốt tham gia hội thao các cấp.

Với sự quan tâm thường xuyên của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, phong trào rèn luyện thể lực, tập luyện thể thao đã và đang lan tỏa rộng khắp trong toàn Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân; trở thành “món ăn” không thể thiếu hàng ngày của mỗi cán bộ, thủy thủ, chiến sĩ. Hiệu quả tích cực từ phong trào đã góp phần nâng cao sức khỏe của bộ đội, bồi dưỡng tinh thần lạc quan, hăng say học tập, huấn luyện; nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của toàn Lữ đoàn.

Dưới đây là một số hình ảnh về hoạt động rèn luyện thể lực, tập luyện và thi đấu thể dục thể thao tại Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân với phương châm “Khỏe để sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ biển, đảo Tổ quốc”:

 Thi đấu bóng chuyền tại Lữ đoàn 167 (Vùng 2 Hải quân).
Hướng dẫn kỹ thuật xuất phát môn vượt vật cản hải quân.
Luyện tập vượt vật cản tường 1.1m.
Chiến sĩ trẻ Lữ đoàn 167 thi đấu nội dung chạy 100m. 
 Nỗ lực cán đích...
 Chiến sĩ luyện tập nội dung leo dây ngang.
Nỗ lực luyện tập nội dung vượt hàng rào thép gai.
Tích cực luyện tập nội dung nhảy xa. 
 Lực lượng Quân y luôn sẵn sàng để bảo đảm an toàn trong các giờ luyện tập và thi đấu thể dục, thể thao.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và chào mừng ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam có bài viết quan trọng "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Xuất phát từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, bài viết của Tổng Bí thư đặt ra nhiều vấn đề vừa trước mắt vừa cơ bản, lâu dài. Một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cốt tủy của bài viết là tác giả chỉ rõ dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác, Ăng-ghen, Lê-nin sáng lập, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội và định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nêu lên những gam màu chủ đạo như là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định "chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ðảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi". Một luận điểm căn cốt trong bài viết của người đứng đầu Ðảng ta là: "Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh".

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm cung cấp thêm những luận cứ khoa học để củng cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát triển một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, cùng nhịp bước với thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc ta.

Như chúng ta đều biết, các phong trào giải phóng dân tộc theo con đường phong kiến và con đường tư sản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều không giành được thắng lợi. Hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đó thiếu một giai cấp tiên tiến đủ sức lãnh đạo cách mạng, dẫn tới sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.

Trong khi các con đường cứu nước chưa tìm được lối ra, với lòng nồng nàn yêu nước thương dân, khát vọng giải phóng dân tộc, Nguyễn Tất Thành tự chọn con đường đi của mình. Thông qua tìm hiểu các con đường cứu nước khác nhau, khảo sát, hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận, đến tận các nước tư bản phát triển, sống trong phong trào công nhân và các dân tộc bị áp bức, nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới, cuối cùng sau mười năm tìm đường, Nguyễn Ái Quốc đã chọn giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định chỉ chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Nhớ lại con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lê-nin, Người nói "Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những cuộc cách mạng tư bản, tuy thành công nhưng không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, nhưng kỳ thực thì nó vẫn đi tước đoạt công nông, áp bức thuộc địa, nhân dân vẫn cực khổ, lo tính cách mạng lần nữa. Từ thực tiễn sống động đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".

Cần phải nhắc lại rằng 72 năm từ lúc thực dân Pháp xâm lược đến khi Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thời gian đủ để khảo nghiệm các con đường cứu nước. Trong các con đường đó có cả con đường tư sản với những gương mặt tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Nhưng như chính Phan Bội Châu đã tự nói về mình, "rằng đời tôi trăm thất bại mà không một thành công, là bởi tôi có lòng mà thật bất tài". Cái "bất tài" mà cụ Phan nói đến là cụ chưa nhận ra con đường tư sản không phù hợp với xu thế của lịch sử lúc bấy giờ, không hợp quy luật khách quan trong thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười. Phan Bội Châu nói đại ý rằng, hiện nay đã có người khác giỏi hơn chúng tôi nhiều đứng ra đảm đương công việc để làm trọn cái việc mà lớp chúng tôi không làm xong. Ðó chính là Nguyễn Ái Quốc. Nếu Nam Ðàn có Thánh thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ không phải là ai khác. Phan Châu Trinh cũng đặt kỳ vọng khi khẳng định Nguyễn Ái Quốc như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông. Nhắc lại sự kiện đó để chúng ta có cơ sở chắc chắn bác bỏ ý kiến cho rằng chúng ta đã chọn con đường đi sai.

Năm 1930, trong các văn kiện thành lập Ðảng, Hồ Chí Minh khẳng định "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Ðó chính là độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Một trong những vấn đề lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, với xã hội Việt Nam thuộc địa, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì, tức là độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.

Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam từ khi có Ðảng. Nhờ sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một đột phá lý luận rất cơ bản, thể hiện bản lĩnh, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta.

Cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ khẳng định tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa, phát triển, tiến bộ không ai ngăn cản được, mà còn sớm trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", đi đến khẳng định đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Người, chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do; là gắn với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ không có người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con. Chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, địa vị cao nhất là dân;...

Chủ nghĩa xã hội trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội do nhân dân làm chủ và là chủ, quyền lực thuộc về nhân dân; một xã hội vì con người, do con người; con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Ðảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo đảm tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội như vậy bao gồm phát triển kinh tế, văn hóa, đạo đức, xã hội và môi trường, cho hôm nay và mai sau. Với tầm nhìn khởi xướng sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, phát triển kinh tế đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, chữa bệnh, Hồ Chí Minh đặt nền móng cho phát triển bền vững khi Người chú trọng ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường với những quan điểm về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, quan tâm giáo dục tiểu học, thực hiện bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, phòng, chống bệnh tật, chăm lo sức khỏe cho bà mẹ và nhân dân, hợp tác kinh tế quốc tế, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Di sản Hồ Chí Minh đặt nền móng và là chỉ dẫn để Ðảng ta đề ra cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.

Hồ Chí Minh là một nhà lý luận - thực tiễn. Dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và hành động của Người luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, nhận thức đúng và hành động theo quy luật khách quan. Người đưa ra hệ giải pháp khoa học để thực hiện có hiệu quả mục đích của chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do điểm xuất phát thấp của một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học - kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ chúng ta không được chủ quan, nóng vội, duy ý chí; không giáo điều, bảo thủ; không rập khuôn, máy móc. Phải làm dần dần từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Tự lực cánh sinh kết hợp với học hỏi sáng tạo kinh nghiệm các nước, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Ðảng. Xây dựng và phát huy nhân tố con người có hàm lượng cao về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, bản lĩnh, tư duy đổi mới, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học - kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng, nhân văn, hướng đến các giá trị chân - thiện - mỹ. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội phải gắn kết chặt chẽ giữa xây cái đúng, cái tốt, cái đẹp với chống cái sai, cái ác, cái xấu, đặc biệt phải xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và những hư hỏng, bệnh tật khác.

Hồ Chí Minh là nhà tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn sâu sát, khoa học. Nhờ tư tưởng, đạo đức, phong cách và phương pháp của Người trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chỉ trong khoảng mười năm (1954 - 1964), miền bắc đã tiến những bước dài chưa từng có. Ðất nước, xã hội và con người đều đổi mới. Thành quả của chủ nghĩa xã hội không chỉ là mong ước tốt đẹp của dân tộc ta, mà đó còn là giá trị đích thực của chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên sức mạnh và nguồn cảm hứng to lớn đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng bè bạn quốc tế.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được hình thành, từng bước phát triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ 20, nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại. Qua 35 năm đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước đã tiến những bước dài chưa từng có, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Ðại hội XIII của Ðảng khẳng định: "Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Với tư cách là một nhà biện chứng, có tầm dự báo chiến lược thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước nhiệm vụ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là rất to lớn, nặng nề, khó khăn, phức tạp. Người coi đó là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Theo Người, muốn giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ đó, phải tập trung trước tiên là chỉnh đốn lại Ðảng với tư cách là Ðảng cầm quyền; giữ gìn sự đoàn kết trong Ðảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; thực hành dân chủ rộng rãi; thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Phải chăm lo công việc đối với con người, chú trọng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vừa hồng vừa chuyên. Cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Ðó cũng chính là những khía cạnh căn cốt mà Ðại hội XIII của Ðảng đề cập, được Tổng Bí thư nhấn mạnh trong phần cuối của bài viết theo tinh thần "Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững đã và đang được những nhà cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học".

                                                                                        Nguon: nhandan.vn

Nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên.

 Trung tâm Bảo đảm kỹ thuật, Vùng 2 Hải quân tổ chức Hội thi Báo cáo viên năm 2024. Thượng tá Lại Thế Công, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Trung tâm dự và chỉ đạo Hội thi.

Thí sinh tham gia phần thi thực hành thuyết trình theo đề cương đã soạn

Tham gia Hội thi có 30 thí sinh là bí thư, phó bí thư chi bộ, đảng bộ bộ phận, các đồng chí là cán bộ chính trị của cơ quan, đơn vị trong toàn Trung tâm. Hội thi có 3 phần thi: Phần thi chuẩn bị đề cương, thi nhận thức, thi thực hành thuyết trình và trả lời câu hỏi của Ban Giám khảo.

Cùng với việc đánh giá thực chất hoạt động tuyên truyền, khả năng thuyết trình, đây còn là dịp để các báo cáo viên gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng, làm cơ sở để tuyển chọn những thí sinh tiêu biểu tham gia Hội thi báo cáo viên cấp Vùng… Do đó, Ban tổ chức và Ban giám khảo Hội thi yêu cầu các thí sinh duy trì, chấp hành đúng các quy định, quy chế đề ra, bảo đảm đúng mục đích, ý nghĩa, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền cho cán bộ, chiến sĩ tại các cơ quan, đơn vị và toàn Trung tâm.

 Trao giải cho các thí sinh đạt giải cao trong Hội thi

Trung tá Nguyễn Trường Thiệp, Chính trị viên Trạm 96 cho biết: “Từ ý nghĩa quan trọng của Hội thi, tôi có bước chuẩn bị đề cương nghiêm túc và nỗ lực luyện tập nên đã hoàn thành tốt phần thi của mình. Qua Hội thi, tôi đúc kết nhiều kinh nghiệm làm cơ sở để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ báo cáo viên, tuyên truyền viên tại đơn vị”.

Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị, với tinh thần trách nhiệm và sự nỗ lực, quyết tâm cao, các thí sinh đã hoàn thành tốt các nội dung thi. Đặc biệt, trên cơ sở đề cương được chuẩn bị kỹ lưỡng, kết hợp minh họa bằng hình ảnh sống động và kỹ năng trình chiếu powerpoint; phần thi thuyết trình của các thí sinh được trình bày ngắn gọn, cô đọng, để lại ấn tượng sâu sắc cho Ban Giám khảo Hội thi.

Bế mạc Hội thi, Ban tổ chức đã trao 02 giải Nhất, 02 giải Nhì, 04 giải Ba và 02 giải Khuyến khích cho các thí sinh có kết quả cao. Đồng thời thành lập đội tuyển, tiếp tục ôn luyện và tham gia hội thi cấp Vùng năm 2024./.