Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÁC PHONG CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ CHÍNH TRỊ


HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÁC PHONG CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ CHÍNH TRỊ.
 ĐTM 007/2019
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập và tổ chức, giáo dục rèn luyện Quân đội nhân dân Việt nam, Người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, đã để lại một kho tàng vô giá về xây dựng Đảng, xây dựng đường lối chính trị, đường lối quân sự, về tổ chức và chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân, trong đó những quan điểm của người về đội ngũ cán bộ chính trị, về hoạt động CTĐ,CTCT và  tác phong công tác của người cán bộ chính trị. Vì thế, việc nguyên cứu nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tác phong công tác của người cán bộ chính trị càng có ý nghĩa và giá trị thực tiễn sâu sắc đối với đội ngũ cán bộ chính trị trong giai đoạn hiện nay, mà còn mãi về sau.
Tác phong công tác của người cán bộ chính trị có vai trò quyết định đến chất lượng hoạt động CTĐ,CTCT, chất lượng xây dựng quân đội. Về vấn đề này V.I.Lênin đã khảng định: “ở đâu mà công tác chính trị trong quân đội, công tác của các chính uỷ làm được chu đáo nhất, thì ở đấy nói chung, trong số các chuyên gia quân sự ít thấy có khuynh hướng phản bội hơn cả; ở đấy có rất ít cơ hội cho họ thực hiện ý định của họ; ở đấy không hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân đội giữ được trật tự tốt hơn, và tinh thần của họ cũng cao hơn, ở đấy thu được nhiều thắng lợi hơn[1]. Hồ Chí Minh chỉ rõ tác phong công tác của người cán bộ cách mạng có vai trò vô cùng to lớn trong việc “động viên toàn thể nhân dân hăng hái thực hiện chính sách đã định[2]. Có tác phong công tác tốt “mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to lớn cuả nhân dân trong việc thực hiện mục đích chính trị, nâng cao khả năng hoàn thành nhiệm vụ[3].
Hồ Chí Minh cho rằng tác phong công tác của người cán bộ là thể hiện nhân cách của chính họ, tư cách của chính họ. Tác phong công tác không chỉ bao hàm nội dung phẩm chất bên trong tự mình của bản thân mỗi con người, mà nó còn bao hàm cả thái độ, cách ứng sử của người đó với những người xung quanh ,với công việc và khả năng hành động thực hiện các nhiệm vụ , cộng việc được giao. Nó là sự đan xen, hoà quyện vào nhau một chặt chẽ những yêu tố thuộc về phẩm chất và năng lực của người cán bộ. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát rất cụ thể về “tư cách người cách mệnh” trong các nội dung với mình với người, với công việc tác phong CTĐ,CTCT của người cán bộ chính trị trong quân đội, chính là tác phong của Đảng, mang những đặc tính của tác phong lãnh đạo của Đảng được vận dụng vào trong quân đội để xây dựng quân đội, xây dựng đảng bộ quân đội vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức. Chính vì vậy, tác phong công tác của người cán bộ chính trị còn mang những đặc chưng riêng của hoạt động quân sự, của điều lệnh, điều lệ quân đội.
Trong lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của dân tộc ta, trong những thời kỳ mà giai cấp phong kiến còn đóng vai trò lịch sử tiến bộ các thế lực phong kiến ngoại bang xâm lược, nhiều tướng lĩnh chỉ huy quân đội đã làm tốt công tác chính trị tư tưởng, có tác phong gần gũi, chan hoà, chăm lo đến binh sỹ động viên tinh thần tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng quân địch hung bạo và mạnh hơn rất nhiều lần. Vận dụng những nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững tư tưởng của V.I.Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Hồ Chí Minh khảng định rõ trong thư “hội nghị chính trị viên” tháng ba năm 1948: “tư cách của người chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, là bộ đội ấy tốt[4].
Người cán bộ chính trị là một bộ phận, một thành phần tất yếu của quân đội cách mạng được bắt nguồn từ sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với lực lượng vũ trang cách mạng. Ngay từ những ngày đầu mầm mống, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “về mặt chính trị cấp nào cũng có một người chính phái viên do đoàn thể cách mạng lựa chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm[5]. Đó là “người của Đảng cộng sản” trong quân đội nhằm mục đích cao nhất là giữ bản chất cách mạng của quân đội, người đảng viên cộng sản được Đảng giao nhiệm vụ chuyên trách công tác tư tưởng, công tác tổ chức của Đảng trong quân đội; người cán bộ chính trị phải là người tuyệt đối trung thành với mục tiêu lí tưởng của Đảng, kiên định vững vàng về chính trị, tiêu biểu về đạo đức cách mạng.
Trong “cuốn sách của chính trị viên” do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo biên soạn nêu rõ: chính trị viên phải nắm chắc con đường chính trị của Đảng, giác ngộ cách mạng sâu sắc, nhận thức cách mạng vững vàng, kinh nghiệm chính trị rõ ràng, người cán bộ chính trị là người giương cao ngọn cờ chính trị, tư tưởng của Đảng, quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng, không ngừng giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo và ảnh hưởng của Đảng trong mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống của đơn vị. Đó chính là tiêu chuẩn, là phẩm chất và năng lực của người cán bộ chính trị nhằm lãnh đạo đơn vị đi đúng con đường chính trị mà Đảng đã vạch ra. Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục cán bộ chiến sỹ quân đội nhân dân trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân. Lòng trung thành với Đảng, với tổ quốc, với nhân dân là thái độ trách nhiệm chính trị của người quân nhân cách mạng, mà ở người cán bộ chính trị phải vững vàng kiên định và được biểu hiện rõ nhất. Bác Hồ nói: “Riêng về các chú, chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc[6]. Thái độ trách nhiệm chính trị đã được thể hiện cụ thể trong việc hoàn thành xuất sắc mọi nhiện vụ chính trị của Đảng, của tổ quốc và nhân dân giao phó “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng[7]. Lòng trung thành với mục tiêu lí tưởng của Đảng còn được thể hiện trong mọi hoạt động cụ thể hàng ngày của người cán bộ chính trị, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chức trách của mình, tận tuỵ trong công việc và lợi ích tập thể, tất cả vì tiến bộ, thắng lợi thành công của đơn vị, của từng cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị. Trong cuộc vận động luyện quân lập công của quân đội ta đầu năm 1948, trong thư gửi hội nghị chính trị viên, Bác Hồ viết: “chính là một động lực to lớn trong cuộc vận động đó[8], và người cho rằng, người cán bộ chính trị phải thực sự là người tiêu biểu của động lực chính trị to lớn đó.
Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ chính trị phải tiêu biểu về lòng dũng cảm, ý chí ngoan cường gan dạ trong chiến đấu để động viên, cổ vũ bộ đội xông lên giết giặc lập công. Người rất quan tâm giáo dục đội ngũ cán bộ chính trị rằng: “Các đồng chí cán bộ của Đảng ở các cấp phải cố gắng tiến bộ hơn, để lãnh đạo bộ đội. Từ việc lớn đến việc nhỏ, cán bộ đều phải làm kiểu mẫu. Giữ gìn kỷ luật, học tập kỹ kỹ thuật, luyện quân lập công, xung phong chiến trận,... Cán bộ đều phải làm gương. Như thế là quân đội ta sẽ là một quân đội vô địch, và kháng chiến nhất định thành công[9].
Người cán bộ chính trị là người tiêu biểu về đạo đức cách mạng, mà theo Bác đạo đức cách mạng là: “nhận rõ phải trái. Giữ vững lập trường. Tân trung với nước, tận hiếu với dân[10], quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Trong buổi nói chuyện tại trường chính trị trung cấp quân đội, Bác Hồ đã phân tích về cần kiệm liêm chính chí công vô tư và chỉ rõ: “cần kiệm liêm chính của ta là đạo đức của người quân nhân cách mạng[11] và người yêu cầu mọi cán bộ chính trị “phải thực hiện đạo đức đó”
Người cán bộ chính trị là người cán bộ lãnh đạo, làm công tác lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh, năng lực lãnh đạo của người chính trị phải toàn diện cả về chính trị, quân sự, năng lực về tuyên truyền, tổ chức và xếp đặt kế hoạch hoạt động, giải quyết kịp thời những việc cấp bách, sinh hoạt tinh thần, vật chất của đội du kích, năng lực toàn diện đó giúp cho người “chính trị viên nhúng tay vào mọi việc để do đó mà dẫn dắt người khác. Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ phải đủ đức đủ tài có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai[12]. Năng lực của người cán bộ chính trị không chỉ bao hàm năng lực nhận thức và năng lực hành động thể hiện trình độ trí tuệ cao và trình độ tổ chức thực tiễn giỏi. Hồ Chí Minh yêu cầu: “người chính trị viên phải có rất nhiều tư cách lãnh đạo, rất nhiều năng lực. Công việc chính trị viên phức tạp chừng nào nào thì cân họ có đủ năng lực[13]”. Vì vậy, người cán bộ chính trị phải là người hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin; nắm chắc đường lối chính sách, quan điểm của Đảng; các nội dung nguyên tắc tiến hành công tác Đảng công tác chính trị; “phải học tư tưởng chiến lược, chiến thuật, học cách dậy bộ đội đánh giặc, học phương pháp chỉ huy chiến đấu[14], nắm vững  kỹ thuật.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, người cán bộ chính trị phải thực sự mẫu mực về phong cách, tác phong công tác, lời nói phải đi đôi với việc làm. Bởi vì, “người chính trị viên không phải là một ông quan suốt ngày ngồi bàn giấy viết thông báo, chỉ thị”[15] mà phải là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện nội dung, trong nhiều lĩnh vực với nhiều đối tượng khác nhau.
Người cán bộ chính trị với nội dung hoạt động chủ yếu là hoạt động lãnh đạo                                                                                                                  pháp công tác chủ yếu là giáo dục, thuyết phục, thông qua hoạt động hàng ngày mà tác động xây dựng nhân cách của từng con người, từng tập thể quân nhân, đảm bảo cho mõi quân nhân và tập thể quân nhân giữ vững bản chất cách mạng, trung thành với mục tiêu lí tưởng của Đảng, hăng hái thực hiện mọi  nhiện vụ. Do đó, phương tác phong hoạt động công tác Đảng công tác chính trị có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội và tác đông rất lớn đến hiệu quả thực hiện  nhiệm vụ của đơn vị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng: “chính trị viên phải làm kiểu mẫu trong mọi việc[16]. Làm kiểu mẫu với tư cách là người tiêu biểu, đại diện cho tinh thần và trí tuệ của Đảng, cho nên người cán bộ chính trị phải là người nắm vững nguyên tắc, giữ nghiêm kỷ luật; luôn luôn thận trọng, chặt chẽ nghiêm túc chính xác, công bằng, vô tư, độ lượng,.. chu đáo; luôn luôn thực hiện dân chủ bàn bạc, coi trọng giáo dục thuyết phục, cổ vũ lôi cuốn, nêu gương. Đồng thời người cũng thường xuyên yêu cầu trong phương pháp tác phong của người cán bộ chính trị phải luôn luôn thống nhất giữa lời nói với việc làm. Người nói: “chính tri viên lãnh đạo bằng lời nói chưa đủ, phải lãnh đạo bằng hành động nữa. Mình chủ trương cho đội làm việc gì thì mình phải làm trước, làm đúng, hết sức làm hơn ai hết. Từ những công việc nhỏ đến công việc to đều như thế, gặp lúc gay go nguy hiểm chừng nào thì người lãnh đạo càng phải xông pha, bước trước chừng ấy mới kéo người khác theo mình...[17].
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mọi cán bộ, đảng viên phải bằng chân lý lẽ phải để giáo dục quần chúng. Người nói: “chúng ta phải nghi tạc vào đầu cái trân lý này: dân rất tốt, lúc họ đã hiếu thì việc gì, khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cung không sợ. Nhưng trước hết phải tìm đủ mọi cách giải thích cho họ hiểu rằng: những việc ấy là vì lợi ích cho họ mà phải làm[18]. Với phương pháp giáo dục này, người cán cán bộ chính trị phải phân tích vấn đề một cách ngắn ngọn, súc tích, luận giải rõ ràng, chứng minh chặt chẽ; trình bày giản dị, cụ thể để bộ đội ai ai cũng hiểu một cách sâu sắc và tự giác tin theo. Người thường nhắc nhở cán bộ chính trị không được dựa vào quyền lực để bắt mọi người phải phục tùng mà phải tuyệt đối tuân thủ “giáo dục theo nguyên tắc tự nguyện, tự giác, giải thích thích thuyết phục, bàn bạc chứ không gò bó...”. đây là phương pháp giáo dục giữa lý và tình, giáo dục thuyết phục theo tinh thần hướng thiện, khêu gợi, thức tỉnh cái tốt, phát huy tính tích cực trong mỗi con người phát triển, để lấn át cái xấu cái tiêu cực. Để niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng , sự tất thắng của cách mạng được vững chắc, bên cạnh chỉ ra tính tất yếu của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đòi hỏi người chính trị viên trong quân đội “phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hết mình như một người bạn” đối với bộ đội . Theo Bác, tác phong này có một sức mạnh to lớn, nó có sức cảm hoá mạnh mẽ, thúc đẩy con người vươn lên cái tốt đẹp, “làm cho cái tốt năng nổ như hoa mùa xuân”, ngăn chặt thuyết phục cái sấu, cái ác làm cho nó bị thu hẹp và mất hẳn. Đó là cái đích của giáo dục.
Theo Hồ Chí Minh trong hoạt động công tác Đảng công tác chính trị người cán bộ chính trị trong quá trình tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị trong đơn vị mình phải luôn thể hiện tác phong quần chúng có nghĩa là phải được biểu hiện ra từ ý thức, tinh thần tôn trọng, thương yêu bộ đội, thương yêu con người, luôn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với đồng chí đồng đội. Người chỉ rõ là chính trị viên phải “thương yêu đội viên như người chị ”, “phải luôn luôn săn sóc đến đời sống vật chất của họ: ăn, mặc, ở, nghỉ, luyện tập, công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần phải săn sóc để nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hoá, phát triển văn hoá và đường lối chính trị trong bộ đội. Như vậy, người chính trị viên phải quan tâm bao quát, sâu sát đến tất cả các mặt hoạt động của đơn vị, đến đời sống vật chất tinh thần đến từng con người cụ thể, nắm chắc tình hình mọi mặt, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của bộ đội, để động viên dìu dắt, giáo dục huấn luyện họ, tức là phải thường xuyên quan tâm chăm sóc tới đời sống chiến sỹ.
 Tác phong quần chúng của người cán bộ chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ chính bản chất và ý nghĩa từ sự tồn tại của Đảng cộng sản, từ chính mỗi liên hệ máu thịt với nhân dân từ nhân dân mà ra vì nhân dân mà chiến đấu, mục tiêu chiến đấu của quân đội là vì tổ quốc vì nhân dân; xuất phát từ vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, quần chúng là người làm ra lịch sử, sáng tạo ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử là quần chúng nhân dân nhân chứ không phải cá nhân “ưu tú”, những vĩ nhân. Quần chúng nhân dân là lực lượng tham gia chủ yếu và là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Hồ Chí Minh khảng định: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, từ chính chính thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng hơn 70 qua của Đảng ta và trong xây dựng chiến đấu và trưởng thành của quân đội nhân dân Việt Nam như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dậy “dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Mọi hoạt động của người cán bộ chính trị phải luôn quán triệt quan điểm tư tưởng “lấy dân làm gốc”, dựa vào dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dù là đại đoàn trưởng, Trung đoàn trưởng, hay Tiểu đoàn trưởng cũng chỉ là những người đặt kế hoạch và điều khiển trận đánh, lúc ra trận việc đặt mìn phá lô cốt đều do tay anh em đội viên làm”, “cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì không làm gì được”.
 Phải sâu sát nắm tâm tư nguyện vọng, tình cảm của quần chúng. Hồ Chí Minh căn dặn: người đội trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người chị, người bạn của đội viên, chưa làm được như vậy là chưa làm hết nhiệm vụ. Cán bộ có thân đội viên như chân như tay, thì đội viên mới thân cán bộ như ruột thịt, cán bộ có coi đội viên như chân như tay, đội viên mới coi cán bộ như đầu như óc. Từ lời ăn, tiếng nói, niền vui nỗi buồn, quần áo nhất nhất phải biết rõ và hết sức chăm nom có đồng can cộng khổ với binh sỹ thì khi khó khăn đến mấy họ cũng xung phong đi đầu, dù có nguy hiểm đến mấy họ cũng vui lòng đi. Khi bảo đánh họ sẽ vui lòng đánh. Sự quan tâm tình thương yêu đối với  bộ đội là phải xuất phát từ chính tình cảm chân chính của con người, từ ý thức được vai trò chân chính của người chiến sỹ. Cán bộ chính trị là trung tâm đoàn kết trong nội bộ quân đội, đó là tình thương yêu như ruột thịt, đồng cam cộng khổ chia ngọt sẻ bùi. Nếu thiếu sự gần gũi lòng thương yêu, thiếu trách nhiệm thì người cán bộ chính sẽ dần tiến đến chỗ xa dời chiến sỹ, sinh ra quan liêu mệnh lệnh, thậm chí quân phiệt, sẽ không còn xứng đáng là người chị, người anh, người bạn của bộ đội.
Phải tin yêu tôn trọng bộ đội, phải kịp thời giải quyết mọi vướng mắc của cán bộ chiến sỹ trong đơn vị. Tin yêu tôn trọng bộ đội, lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của bộ đội là một trong những nội dung yêu cầu tác phong công tác của người cán bộ chính trị. Niềm tin yêu đó phải được dựa trên sự nhận thức sâu sắc về mục tiêu nhiệm vụ chiến đấu chung, về khả năng to lớn của người chiến sỹ, kết hợp với tình cảm đồng chí đồng đội, tình thương yêu đoàn kết gắn bó ruột thịt anh em, người cán bộ chính trị phải hướng dẫn, dìu dắt chiến sỹ để họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ với một niềm tin và ý thức trách nhiệm cao. Do đó người dậy rằng không chỉ làm việc hùng hục một mình mà phải chăm lo huấn luyện bộ đội về chính trị và về quân sự “để anh em tim tưởng vững, chính trị vững, kỷ luật khá, thân thể khoẻ mạnh thì nhất định thắng”;
Cần phải vừa giáo dục vừa học quần chúng chẳng những lãnh đạo quần chúng mà còn phải học quần chúng. Là người cán bộ lãnh đạo nhưng Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ chính trị phải khiêm tốn, không ngừng học hỏi quần chúng, nhân dân là ông thầy của chúng ta, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn, ngay trong tác phẩm “sửa đổi lề lối làm việc” Hồ Chí Minh chỉ rõ không chỉ học ở tuyên trường, học ở sách vở học ở bạn bè và học ở nhân dân.             
Tác phong dân chủ Là một tác một tác phong rất quan trọng đối với người cán bộ lãnh đạo của Đảng được chính người thực hiện và dầy công xây dựng đào tạo bồi dưỡng rèn luyện cho đội ngũ cán bộ Đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, và đặc biết là đối với người cán bộ chính trị trong quân đội. Tư tưởng Hồ Chí Minh được xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ chính trị phải có tác phong tập thể dân chủ, người vẫn thường nói: không một người nào có thể hiểu được mọi thứ, làm hết mọi việc, ngay đến như anh hùng lãnh tụ cũng vậy: “Đem xo công việc của cả loài người trong thế giới, thì những người đại anh hùng xưa nay cũng chẳng qua làm tròn một bổn phận mà thôi[19]. Người còn nhấn mạnh: “Dân chủ, sáng kiến hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo[20]. Vì trong thực tế, vẫn tồn tại một số cán bộ kém dân chủ, kéo theo tác phong chủ quan, quan liêu mệnh lệnh, xa dời bộ đội. Như vậy, tài trí của một người dù rằng đó là người lãnh đạo cũng không thể bao quát hết được mà cái chính cái quan trong nhất là phát huy và tổng hợp được trí tuệ của nhiều người, của tập thể. Trí tuệ tập thể sẽ được nâng lên gấp bội bởi sự thông minh, kinh nghiệm của người cán bộ lãnh đạo, thành sức mạnh mà không một cá nhân nào có được. Bác luôn nhắc nở chúng ta: trước khi làm phải có thảo luận cho kỹ để chủ chương cho đúng và đặt kế hoạch cho sát chính tác phong công tác tập thể dân chủ của người cán bộ chính trị luôn tạo ra được một không khí làm việc hoạt bát, phấn khởi, hăng hái và đầy sáng tạo. Trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc Hồ Chí Minh nhắc nhở người cán bộ lãnh đạo, người cán bộ chính trị rằng: “người cán bộ lãnh đạo muốn rõ ưu khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay sấu, không gì bằng khuyên cán bộ, mình mạnh dạn đề ra ý kiến và phê bình. Như thế chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng. Nếu cán bộ không nói năng không ý kiến, không phê bình, thậm trí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không giám nói, thế là mất dân chủ trong Đảng. thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng ấm ức, không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét chán nản[21],. trong hoạt động công tác lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ cách mạng phải xem xét hoàn cảnh kỹ càng” điều đó có nghĩa là làm việc cần phải đi sâu đi sát, điều tra nguyên cứu, nắm việc nắm người, nắm chắc tình hình cụ thể. Trước khi quyết định những vấn đề quan trọng cần phải thấu vấn đề, xem xét đối chiếu, so sánh để lựa chọn cho chính xác. Vì quyết định sai sẽ gây tổn thất cho đơn vị, cho quần chúng. Người nhắc nhở khi làm bất cứ việc gì cũng phải có mục đích rõ ràng, chương thình kế hoạch đặt ra phải sát hợp, nếu không thì việc gì cũng muốn làm, mà việc gì cũng không triệt để
Hồ Chí Minh yêu cầu bản thân người cán bộ Đảng viên phải có phẩm chất năng lực, phải ra sức học tập lí luận, biết khơi dậy mở rộng, nhưng phải tổng hợp khái quát mới sâu sát thực tế, không áp đặt.... đây là vấn đề có tính quy luật, thực tiễn đã chững minh. Phải biết lắng nghe ý kiến, tôn trọng ý kiến nguyện vọng của cán bộ chiến sỹ.
Người cán bộ chính trị làm việc cần phải có tác phong khoa học. Đây là một trong các yếu tố để cho thực hiện công tác đạt hiệu quả cao, thiết thực, cụ thể, sáng tạo. Tác phong khoa học của người cán bộ chính trị là một trong những nội dung đòi hỏi từ chính bản chất cách mạng khoa học của công tác đảng, công tác công tác chính trị, từ tổ chức biên chế hoạt động quân sự, từ đặc điểm tác động của công tác đảng, công tác chính trị.  Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ chính trị cần phải có tác phong làm việc khoa học nghĩa là phải có kế hoạch, chương trình, phải đi sâu đi sát, điều tra nguyên cứu, nắm việc nắm người, nắm chắc tình hình cụ thể, trước khi quyết định những vấn đề quan trong, cần hiểu thấu vấn đề, xem xét đối chiếu lựa chọn cho chính xác. Vì quyết định sai sẽ gây tổn thất cho đơn vị, cho bộ đội.
Người nhắc nhở khi làm bất cứ việc gì thì cũng phải có mục đích rõ ràng, chương trình kế hoạch đặt ra phải sát hợp, nếu không việc gì cũng muốn làm, mà việc gì cũng không triệt để. Người cho rằng kế hoạch một thì biện pháp phải mười, quyết tâm phải hai mươi, ba mươi, muốn lãnh đạo đúng thì phải thì phải tổ chức thi hành cho đúng” nếu chương trình kế hoạch có hay đến mấy, nhưng tổ chức thi hành không đúng, thiếu biện pháp thích hợp, bản thân lại thiếu quyết tâm hoặc không bám quyết tâm của bộ đội thì mọi chương trình kế hoạch không trở thành hiện thực. Hồ Chí Minh cho rằng người cán bộ chính trị phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp dưới, người còn lưu ý rằng: “Hiện nay, nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện, gửi chỉ thị sau đó họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hiện đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị mà công việc vẫn không chạy”.
Người đòi hỏi người cán bộ chính trị cần phải có tác phong cụ thể tỉ mỉ đã là “lãnh đạo phải cụ thể; phải kịp thời thiết thực, phải có trọng điểm và nắm điển hình”, “phải chân đi mắt thấy tai nghe, miệng nói tay làm, óc nghĩ. Phải hết sứ cẩn thận, mà nhanh nhẹn kịp thời làm đến nơi đến chốn”, cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể. Vì vậy, những người cán bộ mà làm cho có chuyện, làm lấy rồi, làm ít báo cáo nhiều... thì Người coi là những người rối trá với Đảng, có tội với Đảng.
Theo Hồ Chí Minh tác phong khoa học ở người cán bộ chính trị còn phải là “sau mỗi việc cần phải rút kinh nghiệm”, những kinh nghiệm này được tổng kết, được phổ biến, nhân rộng để cho mỗi cán bộ đảng viên mỗi đơn vị sẽ học được những kinh nghiệm hay, tránh được những điều dở, áp dụng những công việc cũ vào những công việc mới.
Theo Hồ Chí Minh người cán bộ chính trị nhất thiết phải có tác phong cần kiệm liêm chính, phải thực hiện nghiêm túc về cần kiệm liêm chính, vì đó là sự kế thừa và phát huy tác phong truyền thống đạo lí của dân tộc. Do đó, người cán bộ chính trị cần phải rèn luyện để tác phong cần kiệm liêm chính ăn sâu vào tiềm thức, ứng sử, và hành động của mình. Người cán bộ chính trị phải thấm nhuần đạo đức cách mạng và truyền thông của dân tộc. Theo Hồ Chí Minh: “đạo đức cách mạng là nhân, nghĩa trí dũng liêm. Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chì đồng đội,.. Nghĩa là ngay thẳng, không tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng ... Trí vì không có việc tư túi nó làm cho mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lí luận.Dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xem việc... Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm... Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài, v.v.[22] . Chỉ có như vậy mới phá bỏ “mảnh đất” nẩy sinh thói sâu, xoá bỏ nguồn gốc nảy sinh tồn tại hiện thoái hoá biến chất, chấn chỉnh, thúc đẩy được hành vi làm việc, nâng cao chất lượng công việc của bộ đội.
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh tác phong công tác không thể tách dời phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực hoạt động của người cán bộ. Chính phẩm chất năng lực quyết định đến phương pháp tác phong công tác. không thể có cán bộ có phẩm chất năng lực hạn chế lại có tác phong công tác đúng đắn được. Công tác của người cán bộ chính trị thực chất là công tác đối với con người xây dựng những con người và những tập thể mạnh, trong quân đội cách mạng với hoạt động của mình có tính nếu gương, luôn phải là một tấm gương sáng cho bộ đội học tập, nên tác phong công tác của người cán bộ chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng đến chất lượng chính trị bộ đội. Vì vậy, mỗi cán bộ chính trị trong quân đội cần ra sức phấn đấu, tự giác tu dưỡng và rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực phương pháp tác phong công tác để “xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân[23], là người chị người anh thân thiết của bộ đội như Bác Hồ đã căn dặn.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh luôn quan tâm thường xuyên quan tâm chăm lo đến giáo dục rèn luyện phong công tác của người cán bộ chính trị trong quân đội. Vì vậy, mọi cán bộ chính trị cần phải phấn đấu tự giác tu dưỡng rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm chất năng lực, tác phong công tác.
Suốt chặng đường dài tổ chức ra quân đội đến lúc đi xa, người luôn ân cần chỉ bảo, dậy dỗ, hướng dẫn đội ngũ cán bộ trong làm việc và chính cuộc đời của Bác là một bắng chứng sinh động về tác phong công tác đúng đắn. Với phẩm chất sáng ngời và trí thiên tài, Hồ Chí Minh đa giác ngộ cả dân tộc đứng lên làm cách mạng, đấu tranh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, trong suốt cuộc đời hoạt động đấu tranh cách mạng của mình Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương mẫu mực về sông chiến đấu lao động và học tập với phong thái ung dung tự tại, Hồ Chí Minh đến với mọi người một cách tự nhiên, bình dị tác phong đó có sức cuốn hút kỳ lạ làm cho quần chúng nhân dân đến người không một chút e ngại, cũng bình di tự nhiên như họ vẫn sống hàng ngày, tác phong quần chúng làm cho lãnh tụ, quần chúng hoà nhịp vào nhâu rong sự đồng cảm sâu sắc nhất. Từ đó mọi người có thể nói hết những suy nghĩ trăn trở của mình, còn người thì lắng nghe để có thể hiểu được nhịp đập của cuộc sông xung quanh. Trong công tác lãnh đạo của mình Hồ Chí Minh hết sức chú ý thực hiện và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng cũng như đối với quần chúng, phát huy tinh thần làm chủ của mọi người.
Như vậy, bằng chính tác phong của người, Hồ Chí Minh đã tạo ra một tấm gương sáng, đầy sức thuyết phục, giáo dục cho mọi cán bộ chiến sỹ noi theo, những tư tưởng quan điểm của người về tác phong công tác của người cán bộ chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam đa trở thành tiêu chuẩn , mực thước cho lớp lớp cán bộ chính trị trong quân đội.
Thực hiện lời chỉ dẫn của người các thế hệ cán bộ chính trị luôn ra sức học tập rèn luyện, có đóng góp to lớn vào sự lớn mạnh, trưởng thành, chiến đấu chiến thắng của quân đội ta.
Xứng đáng với lời dậy của Hồ Chí Minh trong suốt 60 năm qua đặc biệt trong cuộc đáu tranh chông hai kẻ thù để giành lại độc lập dân tộc thông nhất tổ quốc, đội ngũ cán bộ chính trị thực sự đã trưởng thành “thành linh hồn của quân đội” có bản lĩnh chính trị vững vàng là tấm gương tiêu biểu cho lòng dũng cảm, vì tinh thần xả thân quyên mình vì sự nghiệp cách mạng. Tuyệt đại đa số cán bộ chính trị đã xây dựng cho mình uy tín về mặt tinh thần, đã thực sự phát huy được vai trò lãnh đạo, giáo dục và đoàn kết tổ chức mọi quân nhân hành động theo yêu cầu của Đảng.





















[1] V.I.Lênin, Toàn tp, Nxb Tiến b, M.1979, t.39, tr.66
[2] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t.5, tr520
[3] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t5, tr.520
[4] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t.5, tr392
[5] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t3, tr472
[6] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t6, tr318
[7] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t11, tr350
[8] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t5, tr398
[9] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t5, tr349
[10] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t.7, tr.480
[11] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t6, tr321
[12] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t8, tr184
[14] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t6, tr319
[15] H Chí Minh v Xây dng lc lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, H.1995, tr55
[16] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t5, tr393
[17] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t6, tr
[19] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t.5, tr.256
[20] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t.5, tr.244
[21] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t.5, tr.280
[22] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000, t5,tr252-253 
[23] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t.12, tr.498

QUÂN ĐỘI THAM GIA ĐẤU TRANH CHỐNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG ĐẠO TIN LÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


QUÂN ĐỘI THAM GIA ĐẤU TRANH CHỐNG HOẠT ĐỘNG
LỢI DỤNG ĐẠO TIN LÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN HIỆN NAY  MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
ĐTM 006/2019
Những năm gần đây dưới chiêu bài đòi  “tự  do tôn giáo”, đòi “ độc lập”, “ tự trị” thực hiện phương châm “ thánh giáo hoá vùng đất Tây Nguyên” các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động lợi dụng đạo Tin Lành ở Tây Nguyên để phục hồi tổ chức phản động FULRO và xây dựng lực lượng " Tin Lành Đêga”, thành lực lượng chính trị đối lập với Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh để thành lập "Nhà nước Đêga độc  lập " ở Tây Nguyên,  làm suy yếu và tiến tới thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Công tác đấu tranh với hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng đạo Tin Lành chống phá cách mạng trên địa bàn Tây Nguyên là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Quân đội là một lực lượng trong hệ thống chính trị, tham gia đấu tranh chống hoạt động lợi dụng đạo Tin Lành của các thế lực thù địch là nhiệm vụ lâu dài và cấp bách hiện nay. 
 Quân đội tham gia đấu tranh chống hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng đạo Tin Lành trên địa bàn Tây Nguyên : là tổng hợp các hoạt động của các đơn vị và quân nhân, dưới sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất, phối hợp chặt chẽ với hệ thống chính trị và nhân dân sử dụng tổng hợp các cách thức,  biện pháp, kịp thời  phát hiện và đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng đạo Tin Lành chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc,  phá hoại thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa; góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng Tây Nguyên vững mạnh về chính trị, kinh tế, văn hoá và an ninh- quốc phòng,  bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Luận giải về nguồn gốc, bản chất, chức năng của quân đội C.Mác - Ph. Ăng ghen, Lê nin, trong các tác phẩm của mình bàn về chiến tranh và quân đội đã khẳng định:  Quân đội là tổ chức quân sự chuyên nghiệp, ra đời trong đấu tranh giai cấp, lấy đấu tranh vũ trang làm hoạt động chủ yếu nhằm thực hiện mục đích và bảo vệ lợi ích của Giai cấp - Nhà nước tổ chức và nuôi dưỡng nó.  Ph.Ăngghen viết: Quân đội là một tập đoàn có tổ chức gồm những người được vũ trang, được nhà nước đài thọ để thực hiện chiến tranh tấn công hoặc phòng ngự [1] . Khi đề cập đến vấn đề này. V.I. Lênin cũng nhấn mạnh: Cần có quân đội cách mạng để đấu tranh bằng quân sự và lãnh đạo quần chúng về mặt quân sự... Cần có quân đội cách mạng vì những vấn đề lịch sử vĩ đại chỉ có thể được giải quyết bằng vũ lực mà trong cuộc đấu tranh hiện đại thì tổ chức vũ lực có nghĩa là tổ chức quân sự [2]. Do hoàn cảnh lịch sử  cụ thể cho  nên  trước đây các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin  mới chỉ nhấn mạnh chức năng công cụ bạo lực, chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân, còn các chức năng khác hình thành từ bản chất giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội kiểu mới chưa được đề cập đến.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng các chức năng cơ bản của Quân đội ta là: đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân công tác. Những chức năng này có quan hệ tác động hỗ trợ lẫn nhau, bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Hồ Chí Minh giải thích: Tên đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền... vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.[3].  Như vậy, ngay từ khi mới thành lập, Quân đội ta đã có chức năng đội quân công tác. Hồ Chí Minh từng căn dặn: “ Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích không nên chỉ biết đánh. Biết đánh là cái tốt nhưng chỉ biết đánh mà coi nhẹ chính trị, kinh tế, tuyên truyền giáo dục nhân dân tức là chỉ biết có một mặt, vì đánh không tách rời được với chính trị và kinh tế”.[4] Là một lực lượng chính trị đặc biệt, Quân đội không chỉ làm nòng cốt cho sự nghệp quốc phòng mà còn phải thực hiện những nhiệm vụ khác được Đảng và Nhà nước giao phó. Chỉ thị 66 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Khoá VI chỉ rõ: Các lực lượng vũ trang làm tốt công tác quần chúng tại những vùng tín đồ...  Do vậy, tham gia đấu tranh chống hoạt động lợi dụng Đạo Tin Lành là thực hiện một trong những nhiệm vụ cơ bản thuộc chức năng đội quân công tác của Quân đội nhằm góp phần thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Mục đích quân đội tham gia đấu tranh chống hoạt động lợi dụng Đạo Tin Lành là chủ động phát hiện, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động lừa mỵ, lôi kéo, khống chế, kích động, quần chúng tín đồ Tin Lành gây rối chính trị, biểu tình bạo loạn cướp chính quyền  của các thế lực thù địch. Đánh bại các hoạt động gián điệp, xây dựng cơ sở ngầm, chính quyền ngầm, khung lực lượng vũ trang ngầm của địch trong quaàn chúng tín đồ Tin Lành. Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi khi có sự can thiệp vũ trang từ bên ngoài. 
Đấu tranh chống hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng Đạo Tin Lành trên địa bàn Tây Nguyên là một vấn đề cấp bách lâu dài, gay go, phức tạp.  Trong đó quân đội có vai trò to lớn: đập tan âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch; góp phần xây dựng, củng cố cơ sở chính trị vững mạnh đủ sức giữ vững an ninh chính trị, đối phó có hiệu quả với các hoạt động “biểu tình, bạo loạn” ngay từ cơ sở; Là lực lượng nòng cốt trong xây dựng, phát triển kinh tế  - xã hội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân  vững mạnh toàn diện; sẵn sàng chiến đấu, đối phó có hiệu quả với các thủ đoạn mới của kẻ thù trong mọi tình huống, bảo vệ đảng, chính quyền, bảo vệ cơ sở kinh tế - xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc .
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng, các đơn vị Quân đội đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên trực tiếp tham gia đấu tranh chống hoạt động lợi dụng Đạo Tin Lành là các đơn vị bộ đội chủ lực Quân đoàn 3, Trung đoàn 368, Trung đoàn 280, Sư đoàn 2 Quân khu V; các đơn vị làm kinh tế kết hợp quốc phòng như Binh đoàn 15, Binh đoàn 16; bộ đội địa phương và bộ đội Biên phòng các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.  Lực lượng Quân đội trên địa bàn Tây Nguyên có đủ khả năng, điều kiện cơ bản để tham gia với chính quyền và các ngành chức năng đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng đạo Tin Lành chống phá cách mạng. Những điều kiện đó là: có sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của tổ chức Đảng; có sự phối hợp, giúp đỡ, hỗ trợ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân địa phương;  có hệ thống tổ chức chỉ huy tập trung, thống nhất, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh; có truyền thống gắn bó máu thịt với nhân dân; có lực lượng tại chỗ đủ mạnh để bảo vệ dân, giúp đỡ dân ổn định và phát triển sản xuất. Có cơ sở vật chất – kỹ thuật, cơ sở hậu cần được thiết lập trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội an ninh - quốc phòng ở Tây Nguyên những năm qua.
Tuỳ từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, quân đội tham gia đấu tranh chống hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng đạo Tin Lành được tiến hành thông qua nhiều phương thức khác nhau:  thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để vạch trần tính chất phản động của “Tin Lành Đêga”, " Nhà nước Đêga"  trước quần chúng; thông qua hoạt động của các đội công tác cơ sở của Quân đội tiếp xúc trực tiếp với từng cá nhân, gia đình để đấu tranh với các luận điệu và thủ đoạn chống phá cụ thể của địch; thông qua các hoạt động kết nghĩa giữa các đơn vị với các tổ chức đoàn thể, quần chúng  tổ chức các hoạt động giao lưu  biểu diễn  văn hoá nghệ thuật dân tộc để lôi cuốn đồng bào tín đồ Tin Lành  vào các hoạt động lành mạnh; thông qua hình thức hoạt động trợ xây dựng cơ sở chính trị – xã hội, củng cố chính quyền vững mạnh; phối hợp với các tổ chức trong hệ thống chính trị sử dụng hàng ngũ chức sắc Tin Lành:  mục sư, truyền đạo, giáo phu … để đấu tranh làm thất bại, âm mưu và thủ đoạn móc nối với các phần tử phản động, cài cắm gián điệp, xây dựng căn cứ ngầm, lực lượng ngầm, khung chính quyền ngầm của địch.
Quân đội tham gia đấu tranh chống hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng đạo Tin Lành là một loại hình công tác khá phức tạp, mới mẻ nhưng là một yêu cầu khách quan mang  tính cấp bách, lâu dài và có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần to lớn vào việc giữ vững ổn định chính trị ở Tây nguyên, độc lập chủ quyền của Tổ quốc và chế độ  xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Danh mục Tài liệu tham khảo

1. Ph. ăng ghen (1875), “Quân đội”, C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập14, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, trang 11-69.
2. V.I Lênin (1905), “Quân đội cách mạng và chính phủ cách mạng”, V.I Lênin toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mác-xcơ-va, 1979, trang 373-383.
3. V.I .Lê nin ( 1979 ) “chủ nghĩa xã hội và tôn giáo ”  V.I .lê nin toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ , Matxcơ vaá1979, Tr 169- 175,
4.  Hồ Chí Minh (1944), “Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 507-508.







ĐẤU TRANH CHỐNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG TÔN GIÁO THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


ĐẤU TRANH CHỐNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG TÔN GIÁO THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, tế nhị và rất phức tạp, có quan hệ ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, đến sự ổn định về chính trị của mỗi quốc gia, khu vực và cả quốc tế. Giải quyết vấn đề tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng trong lãnh đạo quá trình xây dựng đất nước của Đảng cầm quyền.
I. NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay có 38 tổ chức, hệ pháI tôn giáo thuộc 13 tôn giáo, với 24 triệu tín đồ( chiếm 27% dân số cả nước), 83.000 chức sắc, 25.000 chức việc, 46 trường đào tạo chức sắc tôn giáo, gần 28.000 cơ sở thờ tự. Nước ta hiện có 6 tôn giáo lớn đã được Nhà nước cấp đăng ký hoạt động và công nhận tư cách pháp  nhân. Số lượng tín đồ của 6 tôn giáo lớn: Phật giáo hơn 13 triệu người; Thiên chúa giáo gần 7 triệu; Cao Đài trên 1 triệu người; Phật giáo Hòa hảo 1.392.067 người; Tin Lành 932.326 người; Hồi giáo 77.275 người. Đa số tín đò các tôn giáo là người lao động, chủ yếu là nông dân  trú trên địa bàn cả nước. Một bộ phận tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo cư trs ở các địa bàn chiến lược Tây Bắc 100.000; Tây Nguyên 400.000; Tây Nam Bộ 1,3 triệu.
Trong quá khứ và hiện tại, một số tôn giáo ở Việt Nam đã từng bị các thế lực xâm lược và thù địch lợi dụng phục vụ cho chính sách xâm lược thống trị và các mưu đồ khác của chúng. Thời gian qua ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều “ điểm nóng ” về tôn giáo, đằng sau các sự kiện đó chúng ta có đủ bằng chứng để khẳng định có bàn tay của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế. Do đó, vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo càng gắn chặt và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Quốc phòng -  An ninh của Việt Nam.
2. Nhận thức mới của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới quan trọng về nhận thức, quan điểm, nhiệm vụ, chủ trương, chính sách đối với tín ngưỡng tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển về nhận thức. Nghị quyết này có 2 luận điểm mang tính đột phá là: tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và tôn giáo có những giá trị văn hoá, đạo đức phù hợp với chế độ mới. Phải đặt 2 luận điểm này trong khung cảnh lúc đó ta mới hiểu rõ ý nghĩa. Đó là một thời điểm lịch sử đặc biệt các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, nhưng những quan điểm tả khuynh về tôn giáo vẫn còn chế ngự.
 Đặc điểm chủ yếu của giai đoạn ấy là, phê bình tôn giáo tập trung chủ yếu vào những vấn đề căn bản của thuyết vô thần mác-xít và các hình thái vô thần duy vật khác, ở Trung  Quốc đã có những dấu hiệu đổi mới đầu tiên với việc bàn luận về những đặc điểm tôn giáo ở Trung Quốc và khả năng thích ứng với chủ nghĩa  xã hội của tôn giáo (1982).
Với nước ta, 2 luận điểm trên đã nhanh chóng tạo nên sự đột phá nhận thức: không thể nhìn tôn giáo qua mệnh đề của Mác đã bị cắt xén và phiến diện “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Phải nhìn nhận tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của một bộ phận quần chúng, và nó hoàn toàn có thể đồng hành với chủ nghĩa  xã hội. Riêng luận đề mới mẻ về văn hoá tôn giáo đã khơi dây trực tiếp những suy nghĩ, hành động tích cực của quần chúng, người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo.
Khi các giá trị văn hoá đạo đức cuả tôn giáo được đặt trong khuôn khổ của văn hoá dân tộc, một mặt đã thừa nhận sự đa dạng của văn hoá dân tộc, mặc khác tạo ra thêm một con đường đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Khai thác tốt các giá trị văn hoá, đạo đức cuả tôn giáo là cách tốt nhất để cho nhiều tôn giáo thuận lợi hơn trong quá trình tìm về dân tộc.
Kể từ sau nghị quyết 24 nói trên, Đảng ta còn có nhiều văn kiện khác khẳng định và phát triển tư duy đổi mới về vấn đề tôn giáo, đặc biệt là chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII về công tác tôn giáo trong tình hình mới, một văn kiện quan trọng lần đầu tiên được đăng tải công khai trên báo nhân dân và hàng loạt báo khác và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, vấn đề tôn giáo được đưa ra bàn bạc, quyết định ở cấp Ban Chấp hành trung ương đó là văn kiện của Hội nghị Trung ương 7 (khoaIX) còn gọi là nghị quyết 25 (12/3/2004) với tên gọi về công tác tôn giáo, đến nay vẫn giữ vai trò định hướng cho công tác tôn giáo và cho cả bản thân đời sống tôn giáo.
Cần ghi nhận con số sau đây: từ 1990 đến 2003, đã có 13 văn kiện về các vấn đề tôn giáo gồm 2 nghị quyết, 2 chỉ thị, 9 thông báo. Trong đó Ban bí thư, ban hành một chỉ thị, 7 thông báo; Bộ Chính trị ban hành 1 nghị quyết, 1 chỉ thị và 2 thông báo; Ban Chấp hành Trung ương ban hành 1 nghị quyết.
Điều quan trọng hơn cả là, đến nay nhận thức về vấn đề tôn giáo của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có bước tiến khá dài. Một bầu không khí xã hội mới mẻ đã lan toả, ranh giới vô hình mà khắc nghiệt về sự phân biệt “lương, giáo” mà các thế lực đế quốc thực dân, phong kiến trước đây cố tình khoét sâu mâu thuẫn này đã đựơc gỡ bỏ căn bản, tạo nên những điểm sáng trong quan hệ đạo đời.
Sự đổi mới trong chính sách tôn giáo
Đây là bề nổi của sự vật và thật đáng chú ý, điều này ngaỳ càng bộc lộ rõ, tạo nên những chuyển biết hết sức sống động trong thực tiễn đời sống tôn giáo ở nước ta. Ngoài những quy phạm pháp luật chứa đựng trong các điều luật cuả các bộ luật (luật hình sự, luật tố tụng hình sự…) cho đến nay những văn bản có tính pháp lý cao nhất như các bản Hiến pháp, từ 1991 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản riêng về tôn giáo, tín ngưỡng.
Có thể xem Nghị định số69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng “Quy định về các hoạt động tôn giáo” là văn bản mở đầu.Năm 1993, Chính phủ ra Nghị định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan có tầm quan trọng bậc nhất về quản lý nhà nước về tôn giáo: Ban tôn giáo của Chính phủ.
 Sau đó là nhiều văn bản  đều có dấu ấn khác: Nghị định 26 ngày 19/4/1999 của Chính phủ “Về các hoạt động tôn giáo’’, Quyết định số 125/2003 ngày  18/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7(khoá IX) về công tác tôn giáo”.
Đặc biệt, tháng 7/2004, dư luận trong nước và quốc tế rất quan tâm đến sự kiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và được ban hành cũng như Nghị định của Chính phủ vừa ban hành mới đây(3/2005) “Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo’’.
 Về mặt vĩ mô, phải nói sự đổi mới mạnh mẽ của chính sách tôn giáo cũng được bắt nguồn từ tinh thần của Nghị quyết 24 nói trên. Trong đó, cũng là lần đầu tiên, công tác tôn giáo vốn được coi chủ yếu là công tác đánh địch lợi dụng, nay được coi chủ yếu là công tác vận động quần chúng (phạm trù công tác dân vận) với luận đề quan trọng: “Thực chất công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”.
Chúng ta đã có những bước tiến dài trong việc thể chế hoá các quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng của quần chúng và các hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Từ 1991 đến nay, chúng ta luôn thể hiện quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyễn XHCN trên lĩnh vực quản lí tôn giáo, bằng việc ban hành hàng loạt quy định, nghị định, chỉ thị, thông tư,…và đỉnh cao nhất là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể nói hàng loạt các văn bản pháp lí ấy đã thể hiện sinh động sự đổi mới về chính sách tôn giáo. Chúng tôi có khái quát vào một số điểm sau đây:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa nhà nước với các tôn giáo, là nói đúng hơn là các tổ chức tôn giáo  (giáo hội, hội thánh, ban trị sự, hội đồng giáo sứ..” đã được cải thiện căn bản theo hướng pháp quyền. Một mô hình Nhà nước thế tục mác-xít, về bản chất là nhà nước thế tục phi tôn giáo do Chủ tịch Hồ Chí Minh    sắc lệnh số 234 (1955), nay đã hiện ra rõ rệt. Mô hình này tỏ ra thích hợp với đời sống tôn giáo ở Việt Nam, được đông đảo đồng bào có đạo và quần chúng nói chung hoan nghên và bước đầu được thế giới nhìn nhận.  Trên cả 3 khâu: theo đạo, hành đạo và quản đạo đã được thể chế hoá và cơ bản đã phù hợp với thực tiễn.
Thứ hai, về mối quan hệ giữa “hoạt động tôn giáo” và “công tác tôn giáo” cũng được giải quyết tốt hơn. Mối quan hệ này vốn không hề đơn giản vì  các “hoạt động tôn giáo” vốn là lợi ít sống còn của các chủ thể tôn giáo, trong khi đó “công tác tôn giáo” lại là vấn đề thuộc phạm trù quản lý nhà nước. Nhà nước ta hiểu rõ những kinh nghiệm quá khứ, khi mà sự tương tác giữa 2 chủ thể “Hoạt động tôn giáo” và “Công tác tôn giáo” diễn ra không thuận lợi dẫn đến xung đột triệt tiêu lẫn nhau.  Trên  khía cạnh này, tư tưởng  Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng ta về sự khai thác các điểm tương đồng, đồng thuận xã hội có ý nghĩa lớn “giữ vững độc lập, thống nhất của tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thứ ba, vận dụng kinh nghiệm của lịch sử dân tộc và quốc tế về luật pháp tôn giáo, để sự thể chế hoá về quyền hạn và nghĩa vụ của toàn dân, trước hết là cộng đồng các tôn giáo ngày càng thích hợp hơn.  Đây cũng là nét mới trong chính sách tôn giáo của nhà nước ta hiện nay, trực tiếp tạo nên bầu không khí phấn khởi trong các chức sắc và tín đồ các tôn giáo.
Về mặt vi mô, nước ta có 6 tôn giáo chính “Phật giáo, công giáo, đạo tin lành, hồi giáo, cao đài và phật giáo hào hảo” mà việc quản lý mỗi tôn giáo đòi hỏi có những giải pháp riêng. 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những thành tựu rất đáng kể về mặt này.  Không chỉ đối với công giáo, phật giáo, những tôn giáo lớn có vị trí đặc biệt trong hệ thống tôn giáo ở nước ta, những chính sách đúng đắn cuả Nhà nước ta những năm gần đây với đạo Cao đài đã công nhận tư cách pháp nhân cho 10 tổ chức hệ phái; với phật giáo Hoà hảo cũng có những quyết sách mạnh dạn về cơ cấu tổ chức ban trị sự, với Hồi giáo cũng tương tự. Đặc biệt với những chính sách mền dẻo và cởi mở để giải quyết cơ bản “vấn đề Tin lành”, vấn đề tôn giáo nóng bỏng bậc nhất trong những năm gần đây ở nước ta.
Có thể nói sự đổi mới chính sách tôn giáo những năm gần đây đã đem lại hiệu quả to lớn trong việc góp phần quyết định tạo ra sự ổn định, bức tranh sinh hoạt tôn giáo ngày càng có nhiều điểm sáng. Tất nhiên, trong những năm qua và còn lâu dài, các thế lực thù địch vẫn luôn luôn tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống pháp cách mạng Việt Nam. Nhưng có thể nói xu hướng tôn giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là không thể đảo ngược.
Những vấn đề đặt ra trong việc đổi mới nhận thức và chính sách tôn giáo.
Thứ nhất, chúng ta đã thừa nhận tôn giáo còn là một thực tại xã hội, thậm chí nó có thể đồng hành với dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư duy lý luận của chúng ta phải tiến thêm một bước quan trọng khác, một luận đề có tính đột phá khác là, để tôn giáo “thực thể xã hội” ấy có thể thích ứng với chủ nghĩa  xã hội phaỉ tạo cho nó khả năng và quyền hạn “pháp lý nhân sự” tham gia tích cực hơn  một số lĩnh vực xã hội tích cực tham gia phát triển đất nước và thoả mãn như cầu đời sống tôn giáo. Tiền  đề lý luận khách quan là: trong bối cảnh toàn cầu hoá, hiện đại hoá, mọi tôn giáo đều có khuynh hướng trở thành : “tôn giáo xã hội”, thích ứng xã hội ngày càng cao. Văn kiện Đại hội X đã lưu ý chỉ ra rằng: “đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng cuả khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật” (13).
Nhu cầu xã hội của các tôn giáo hiện nay ngaỳ càng tăng trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và nó cũng không tách rời “quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường”.
Thứ hai, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước và các giáo hội.
Trong những năm qua chúng ta có rất nhiều thành tựu về vấn đề này do Đảng ta từ lâu đã biết dựa và tư tưởng Hồ Chí Minh nắm chắc đặc điểm dân tộc, yếu tố dân tộc của cách mạng Việt Nam tránh được phần lớn những sai lầm thiếu sót của khuynh hướng tả khuynh về vấn đề tôn giáo trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đặc biệt từ năm 1990 đến nay, lần đầu tiên Đảng ta đã chuyển vấn đề tôn giáo từ phạm trù nội chính, qua phạm trù công tác dân vận, tạo nên cục diện mới, được đồng bào các tôn giáo đó nhận, tạo nên bầu không khí phấn khởi thuận lợi hơn cho quan hệ nhà nước và các tổ chức tôn giáo. Hiện nay, vấn đề then chốt để tiếp tục đổi mới vấn đề tôn giáo là phải đặt mối quan hệ này trong vấn đề nhà nước pháp quyền, bình thường hoá và pháp  trị. Càng làm  tốt điều này, đời sống tôn giáo càng ổn định vững chắc và xây đắp hơn khối đại đoàn kết dân tộc.
Văn kiện Đại hội X có nói đến “các tôn giáo hợp pháp” và được pháp luật bảo hộ khi các tổ chức tôn giáo ấy “hoạt động theo pháp luật”. Đây là vấn đề rất quan trọng không chỉ ở góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền, mà còn đáp ứng đòi hỏi bức xúc: chỉ có làm tốt công tác hoàn thiện luật pháp tôn giáo mới có thể có điều kiện, phương tiện hữu hiệu làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
 Đối với Việt Nam hiện nay, trước khi nói đến một bộ luật về tôn giáo “các văn bản của Bộ Chính trị đã từng nói điều này” thì cấp thiết phải xây dựng, hoàn thiện hơn luật pháp nhân tôn giáo, các chế tài khác liên quan đến đời sống tôn giáo dù chúng ta đã có pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… có như vậy chúng ta mới có thể hoàn thiện mô hình nhà nước thế tục đã lựa chọn từ những năm đầu hoà bình lập lại sau hiệp định Giơ-ne-vơ (1954).
Thứ ba, việc ổn định đời sống tôn giáo và tạo thêm điều kiện cho các tôn giáo cống hiến khả năng xây dựng phát triển đất nước là không ngòai quy luật mà tư tưởng  Hồ Chí Minh chỉ ra: luôn luôn duy trì và phát triển xu hướng tôn giáo đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa  xã hội, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo trước hết bằng mục tiêu chung, điểm tương đồng giữa lý tưởng tốt đẹp vốn có cuả các tôn giáo với chủ nghĩa  xã hội.
 Khai thác những giá trị tích cực của các tôn giáo trước hết là các giá trị văn hoá và đạo đức, đồng thời luôn cảnh giác những âm mưu lợi dụng các tôn giáo và mục đích chính trị phản dân tộc và chống phá chủ nghĩa  xã hội.
Chúng ta đã từng trải qua những giai đoạn quá dài phương pháp nhận thức về công tác tôn giáo chưa đầy đủ, tả khuynh và nóng vội. Trong các nhận thức chưa đúng đắn ấy, có lẽ 3 nhận thức cơ bản sau đây vẫn còn ám ảnh ở một bộ phận quần chúng:
Thứ nhất, vì tôn giáo là sự “phản ánh ngược” của hiện thực và duy tâm nên nó hoàn toàn đối nghịch với khoa học và chủ nghĩa duy vật.
Thứ hai, vì tôn giáo luôn được hiểu, đồng nhất với mê tín nên nó là hệ ý thức lạc hậu, phải xoá bỏ.
Thứ ba, vì tôn giáo luôn luôn bị các thế lực phản động lợi dụng, nên tôn giáo thường đồng nhất với chính trị, ở đó không có chỗ cho “văn hoá” và giải quyết vấn đề tôn giáo là đấu tranh tư tưởng  chính trị, nhận thức và giải quyết vấn đề địch-ta.
Dưới ánh sáng đổi mới của Đảng ta trong nhận thức và hành động, chúng ta đã có những bước đột phá quan trọng. Tuy vậy, cũng chưa thể coi như “không còn vấn đề gì” trong lĩnh vực vốn rất phức tạp và nhảy cảm này.
II. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG AN NINH Ở VIỆT NAM THỜI KỲ MỚI
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng Nhà nước đối với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề tôn giáo được đại hội XII xác định:  “ Tiếp tục hoàn thiện chính sach, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo qui định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái qui định của pháp luật” ( 13).
Quan điểm này phù hợp với thực tiễn đời sống tôn giáo, cả trong những năm sắp đến. Vấn đề chỉ còn ở chỗ: các cơ quan, ban, ngành hữu quan tiếp tục có những chương trình phổ biến, giáo dục sinh động cho toàn Đảng, toàn dân đặc biệt là đội ngũ những người làm công tác tôn giáo trực tiếp, cần thấm nhuần hơn nữa các quan điểm này về công tác tôn giáo.
Hơn 30 năm đổi mới thành tựu đạt được trong thực hiện nhiệm vụ, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước của đồng bào có đạo, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng bào theo các tôn giáo được bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền được sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật. Nhà nước   quản lý bằng pháp luật đối với các hoạt động tôn giáo. hướng dẫn, giúp đỡ các tôn giáo xây dựng đường hướng hành đạo tiến bộ, gắ bó với dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, sống “tốt đời, đẹp đạo”.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực  thù địch chống phác cách mạng nước ta góp phần giữ vững sự ổn định đời sống chính trị – xã hội, củng cố Quốc phòng  - An ninh của đất nước.
 Hiện nay, cách mạng nước ta đang chuyển sang một thời kỳ mới trong bối cảnh đời sống chính trị quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp khó lường sự nghiêp cũng cố quốc phòng - an ninh của đất nước đứng trước nhiều thách thức mới trong đó có cả những thách thức về vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế các thế lực thù địch ráo riết lợi dụng tôn giáo gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề “nhân quyền”,  “ dân tộc” “dân chủ” thực hiện “ chiến lược diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta.
Đại bộ phận chức sắc tôn giáo có tinh thần yêu nước và cách mạng, yên tâm hành đạo, có ý thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; song vẫn còn một bộ phận chức sắc tín đồ có tư tưởng vọng ngoại, cơ hội, thái độ cực đoan, quá khích, gây tổn hại đến lợi ích dân tộc thậm chí có những hoạt động chống đối chính quyền gây tổn hại đến đời sống chính trị – xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay nếu Đảng Nhà nước không có một quan điểm và đường lối đúng đắn với những giải pháp phù hợp đối với vấn đề tôn giáo thì dễ bùng phát thành những mâu thuẫn xã hội khó kiểm soát được, dẫn đến xung đột tôn giáo với chính quyền đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định đời sống chính trị – xã hội; sức mạnh Quốc phòng – An ninh của đất nước.
Quan điểm, chủ trương, của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết các dân tộc; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc giữ vững ổn định chính trị củng cố Quốc phòng - An ninh; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Thực hiện thắng lợi mục tiêu trên đây Đảng ta xác định rõ quan điểm chỉ đạo công tác tôn giáo trong tình hiện nay:
a. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. đồng bào tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
b. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công đối với Tổ quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngương, tôn giáo; đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước; kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia

c. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là  điểm tương đồng để đoàn kết gắn bó đòng bào các tôn giáo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng tôn giáo trong thời kỳ mới phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và và thống nất đất nước, thực hiện tốt các chương trình, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng-  an ninh, làm cho đời sống vật chất và  tinh thần của nhân dân ta ngày cang được nâng cao.
d. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Tín đồ, chức sắc tôn giáo phân bố ở khắp mọi vùng, miền của trong cả nước . Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành.
Tiến hành công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo; trong đó đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt, cần được củng cố kiện toàn, nhất là địa bàn trọng điểm có đông đồng bào tôn giáo.
Nghị quyết 25/ NQ- TW chỉ rõ: “Công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo và đấu tranh chống việc  lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng”
e. Vấn đề theo đạo và truyền đạo.
 Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự ợp pháp theo qui định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo qui định của pháp luật.
Việc theo đạo và truyền đạo cũng như hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật, không được lợi dụng tôn giáotuyền truyền “ tà đạo”, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo, và các cách thức truyền đạo trái pháp luật, vi phạm các qui định của Hiến pháp và pháp luật.
2. Nhiệm vụ của công tác tôn giáo trong thời kỳ mới.
a. Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nân cao đời sống nhân dân trong đó có đồng bào tôn giáo.
b. Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo, đưa các hoạt động tôn giáo theo đúng chính sách và pháp luật, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, thực hiện tốt sự bảo hộ của Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo hợp pháp, đúng pháp luật; ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện các  hoạt động trái pháp luật,chống lại sự quản lý của Nhà nước.
c. Đảy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “ tốt đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước.
d. Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đè tôn giáo, dân tộc để phá hoạikhối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống chế độ.
e. Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp vớ đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền vè chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù dịchđối với tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo ở nước ta.
g. tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường công tác nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.
3. Giải pháp và chính sách đối với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
a. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn thể xã hội về vấn đề tôn giáo.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân;nhất là ddooid với chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo.
- Giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc; giúp các tôn giaos giữ đúng đường hướng hành đạo, gắn với dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, đan tộc và nhân dân; tạo sự thống nhất, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo để đấu tranh chống lại những hoạt đông mê tín, lợi dụng tôn giáo gây mất ổn định ở cơ sở.
b. Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.
- Thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở. Tăng cường công tác vận động quần chúng, đổi mới nội dung phương thức công tác dân vận, tổ chức hướng dẫn quần chúng tham gia mọi hoạt động ở cơ sở phù hợp với đặc điểm các tôn giáo và nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc ViệtNam và các đoàn thể nhân dân trong tuyên truyền, vận động tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hieenjcacs chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Tập trung củng cố và nâng cao hệ thống chất lượng chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn có đông đông bào theo tôn giáo.
c. Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo
- Chăm lo phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội cho nhân dân vùng đặc biệt khó khăn, quan tâm nâng cao đời sống đồng bào theo tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Hướng dẫn tín đồ, chức sắc các tôn giáo chấp hành và thực hiện nghiêm Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã  được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2004 và Luật tín ngưỡng tôn giáo đã được kỳ họp  thứ hai Quốc hội khóa XIV thông qua ngày18 tháng 11 năm 2016.
- Tăng cường cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo để kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối xâm phạm an ninh quốc gia.
4. Một số vấn đề cần chú ý khi tiến hành công tác  vận động quần chúng vùng tôn giáo.
Thường xuyên tổ chức quán triệt, phổ biến, học tập các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng Nhà nước về công tác tôn giáo trong tình mới. Nâng cao nhận thức, cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo về đặc điểm, giáo lý giáo lyaat, lễ nghi của từng tôn giáo để tiến hành công tác vận động quần chúng vùng tôn giáo đạt hiệu quả tốt.
Công tác tôn giáo phải thực hiện dưới sự lãnh đạo, quản lý điều hành của Cấp ủy, chính quyền địa phương; phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị  - xã hội trong triển khai thực hiện.
Tích cực đổi mới, nội dung, hình thức công tác dân vận vùng tôn giáo vùng sâu, vùng xa , biên giới phù hợp với đặc điểm của từng tông giáo, từng địa phương; quan tâm lợi  ích chính đáng của tín đồ các tôn giáo, bảo đảm quyền sinh hoatjtoon giáo bình thường đúng pháp luật. Phát huy vai trò của các chức sắc, chức việc, người có uy tín trong các tôn giáo tham gia vận động tín đồ thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; nhiệm vụ của địa phương, kiên quyết đấu tranh với mị hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chia rẽ, khối đoàn kết toàn dân tộc.Hướng dẫn tổ chức ton giáo, chức sắc, tín đò, nhà tu hành tham gia thực hiện xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục, từ thiện nhân đạo….đúng pháp luật của Nhà nước, phù hợp với chức năng và nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo.
Xử lý về đất đai, nhà ở sử dụng vào mục đích tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo đúng pháp luật, pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo chỉ thij1940/ CT của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với hội đoàn tôn giáo, thực hiện theo điều 19, 20 – Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Xử lý các vụ việc phức tạp vùng tôn giáo phải thực hiện dưới sự lãnh đạo của cấp Uỷ Đảng, sự điều hành của chính quyền địa phương.  Nắm vững  phương châm : dựa vào quần chúng tín đồ để giải quyết vấn đề tôn giáo; tích cực tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các chức sắc, chức việc tiến bộ. Phát huy vai trò tham mưu của các cơ quan chức năng để có các chue trương, biện pháp giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở, không để sự việc lây lan kéo dài, tạo sơ hở để các thế lực thù dịchđể các thế lực thù địch, những phần tử xấu lợi dụng tôn giáo gắn với “ dân chủ” “ dân quyền” thực hiện “ diễn biến hòa binh’, bạo loạn lật đổ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội, suy yếu sức mạnh quốc phòng – an ninh của đất nước.
KẾT LUẬN
Tôn giáo là vấn đề nhạy cảm ở tất cả các quốc gia, giải quyết vấn đề tôn giáo là nhiệm vụ phức tạp liên qua trực tiếp đến sự ổn định chính trị sự tồn vong của chế độ. Thực tiễn hiện nay cho thấy xung đột tôn giáo đã đẩy nhiều quốc gia đến chỗ nội chiến, xung đột chính trị giữa các quốc gia.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có tôn giáo nội sinh, có tôn giáo ngoại nhập. Giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình mới có tác động trực tiếp đến sức mạnh Quốc phòng – An ninh của đất nước; ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định chính trị; sự an nguy của chế độ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với những quan điểm chủ trương, giải pháp đúng đắn đã đoàn kết được đồng bào giữa các tôn giáo; đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo với đồng bào không có tôn giáo cùng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương đổi mới phát triển kinh tế, giữ vững ổn đinh chính trị; cũng cố Quốc phòng – An ninh; hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế; tranh thủ được thời cơ, vượt qua được thử thách đứng vững trước những biến cố chính trị to lớn của thời đại xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng phồn vinh hiện đại.
Tài liệu tham khảo
1.C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1993, T 17, tr 450.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1993, T 18, tr 718-719.
3. 4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.12, tr 172
5. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.12, tr 173
6.7. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.12, tr 174
8. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.7, tr 514-515
9. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.12, tr 171
10. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.37, tr 221