Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, kiên
cường bất khuất; từ tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức đoàn
kết cộng đồng và ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách của con người
Việt Nam; là sự kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với
các thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây. Nếu như chủ nghĩa yêu nước là
nguồn gốc ra đời thì Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ yếu nhất
cho sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật - một trong những nội dung
cốt yếu trong kho tàng phong phú của hệ thống tư tưởng của Người - được hun
đúc ngay từ tuổi thiếu niên đến trước ngày Người ra đi tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc. Từ khi hình thành đến năm 1969, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật, trong đó có tư tưởng về hoạt động lập pháp, liên tục được Người
bổ sung và phát triển làm cơ sở lý luận, kim chỉ nam cho hoạt động xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta.
Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập
pháp được thể hiện qua quan điểm chính sau:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự bất khả xâm phạm của chủ
quyền quốc gia, tính thiêng liêng của độc lập dân tộc
Hồ
Chí Minh khẳng định bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là tất yếu, là tuyệt
đối và có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá trình cách mạng, chi phối đến các
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, đến mọi lĩnh vực hoạt động từ kinh tế
- xã hội đến chính trị, từ văn hóa đến khoa học, từ ngoại giao đến quân sự,
quốc phòng, an ninh… của quốc gia, dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, bảo vệ sự toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia là nhiệm vụ bắt buộc, là hành động tất phải thế, chứ
không thể khác, có chăng chỉ con đường, biện pháp, cách thức để bảo vệ được sự
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia ở mỗi một thời điểm khác nhau mà thôi. Tính nhất
quán đó xuất phát từ chính sự thiêng liêng của chủ quyền, lãnh thổ quốc gia với
một dân tộc, bởi đó không chỉ là bảo vệ những giá trị hiện hữu như vùng đất,
vùng trời, vùng biển - những thứ cha ông ta đã dày công xây dựng, gìn giữ và
truyền lại - mà còn là bảo vệ những giá trị văn hóa, tinh thần phong phú, đa
dạng, tốt đẹp có từ ngàn năm trên lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Độc
lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ
Chí Minh, Người khẳng định: Tự do cho đồng bào tôi,
độc lập cho tổ quốc tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì
tôi hiểu. Theo Hồ Chí Minh, độc lập, tự do dân tộc phải thực sự, hoàn
toàn, chứ không phải là thứ độc lập, tự do giả hiệu giống như "cái bánh
vẽ" mà chủ nghĩa đế quốc nêu ra. Độc lập dân tộc phải được biểu hiện trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, các quyền dân tộc, quyền con người
phải được thực hiện trên thực tế. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do
của Nhân dân. Người chỉ rõ: "Nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì".
Tư
tưởng của Người về chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc vẫn còn nguyên giá trị
cho đến hôm nay. Đây là cơ sở ý thức hệ quan trọng cho mọi hoạt động của cơ
quan nhà nước, cho ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân, là căn cứ, mục
tiêu và động lực của hoạt động lập pháp ngày nay. Có thể dễ dàng nhận thấy,
trong tâm thức mỗi người Việt Nam yêu nước vẫn còn vang vọng lời Bác dạy trong
bản Tuyên ngôn độc lập: "Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền
lực đều thuộc về nhân dân, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
"Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam" - đó là tư tưởng nhất
quán của Hồ Chí Minh. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân
ủy thác cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng
nhân dân có quyền kiểm soát đại biểu mà mình đã bầu ra. Người viết: "Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân
đối với đại biểu của mình". Người căn dặn: "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính
phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
thống trị của Pháp, Nhật".
Có
thể khẳng định rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh chữ “DÂN” được đặt vào vị trí tối thượng. Người
luôn căn dặn: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Mọi
việc lớn nhỏ đều nhằm làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân. Đem tài
dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân, bởi dân là
chủ thể, dân là thước đo chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc,
cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không
phải chân lý. Đối với Người, ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là
phục tùng chân lý.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về đề cao tính tối thượng của pháp
luật - Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.
Năm
1919, khi Hội nghị Hòa Bình Pa-ri họp tại Véc-xây, nhân danh nhóm người Việt
Nam yêu nước, Hồ Chí Minh - lúc đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, đã gửi đến Hội
nghị "Bản yêu sách của nhân dân An
Nam" gồm 8 điểm với các nội dung đòi cải cách nền pháp lý ở
Đông Dương, dành cho người bản xứ cũng được hưởng những đảm bảo về mặt pháp
luật như mọi người châu Âu, và đặc biệt, đòi "thay chế độ ra các
sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật".
Ba
năm sau, năm 1922, Yêu sách về quyền của người dân và chế độ pháp lý của Nhà
nước với Hiến pháp ở vị trí tối thượng được Người khái quát, nâng lên thành tâm
niệm linh thiêng, khắc khoải lòng người trong "Việt Nam yêu cầu ca":
"Bảy
xin Hiến pháp ban hành
Trăm
điều phải có thần linh pháp quyền".
Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thấy được mối quan hệ hữu cơ, máu thịt giữa quyền làm chủ
xã hội, quyền dân chủ, tự do của nhân dân với Hiến pháp và các đạo luật, thấy
được vai trò của Hiến pháp, của các đạo luật trong việc làm thay đổi tính chất
của một chế độ chính trị. Với Hồ Chí Minh, thần linh pháp quyền không mơ hồ, xa
xôi. Người đã nhận thức rằng, để xây dựng được Nhà nước pháp quyền, nơi mà mỗi
người đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, thì pháp luật phải có vị trí
tối thượng như thần linh. Đây được coi như một bản Cương lĩnh lập hiến dẫn dắt
con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, thành lập Nhà nước dân chủ nhân
dân, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ tự do và quyền làm chủ của nhân dân; là sợi
chỉ đỏ cho hoạt động lập pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của
nước ta.
Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu mục đích của pháp luật là
phải nhân đạo, nhân văn, vì con người
Với
lòng yêu nước thương dân vô hạn, Hồ Chí Minh luôn mong muốn xây dựng hệ
thống pháp luật nhân đạo, nhân văn vì nhân dân lao động, vì con người
sau khi đã giành được chính quyền. Với Người, pháp luật là do con người và
vì con người, không theo kiểu pháp luật độc tôn. Pháp luật phải có tính hài
hòa, giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người với công việc trên
nền tảng có lý, có tình.
Hệ
thống pháp luật mà Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng là sản phẩm của
chế độ có một "mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh
phúc cho mọi người… đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy".
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945,
Người yêu cầu: "Chúng ta phải có một Hiến pháp dân
chủ” và chính Người đã chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến
pháp năm 1959 với những nội dung thể hiện đậm nét tính dân chủ, vì con
người. Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc
năm 1950, Người chỉ rõ: "Pháp luật của ta hiện
nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta
là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ
rộng rãi cho nhân dân lao động". Như vậy, trong tư tưởng của Hồ
Chí Minh, pháp luật sinh ra không vì một cái gì khác hơn là vì dân. Đây là
nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước
ta từ khi giành độc lập cho đến tận hôm nay và mai sau.
Thứ năm, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng pháp luật quốc tế
Tôn
trọng pháp luật quốc tế là tầm nhìn rất xa và rộng của Hồ Chí Minh. Trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, Hồ Chí
Minh và Đảng ta luôn chủ trương đẩy mạnh mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với nhân
dân thế giới. Hồ Chí Minh nói: Đối với tất cả các nước
trên thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết tha mong muốn duy trì tình
hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng
hòa bình thế giới lâu dài. Lời Người nói đã diễn đạt đầy đủ nguyện vọng,
quan điểm và đường lối đối ngoại của Việt Nam lúc bấy giờ là duy trì tình hữu
nghị, sự hợp tác chân thành với tất cả các nước trên thế giới dù có chế độ
chính trị khác nhau, trên nguyên tắc bình đẳng và tương trợ lẫn nhau nhằm xây
dựng hòa bình trên thế giới. Quan điểm của Người là nền tảng tư tưởng cho đường
lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta và là cơ sở để các nước có chế
độ chính trị khác nhau trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với
Việt Nam. Đây chính là kim chỉ nam cho công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về đối ngoại và hội nhập của Việt Nam.
Thứ sáu, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm dân chủ trong quá
trình xây dựng pháp luật
Trong
xây dựng hệ thống pháp luật, Hồ Chí Minh rất chú trọng tính dân chủ. Theo
Người, muốn có được hệ thống pháp luật như vậy, sự tham gia của nhân
dân trong quá trình xây dựng pháp luật là điều kiện tiên quyết. Trong
tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Cách mạng tháng Tám thành công ta lập ra Chính phủ
mới với “pháp luật mới của nhân dân để chống kẻ địch trong và ngoài, và để giữ
gìn quyền lợi của nhân dân. Trong quá trình xây dựng Hiến
pháp năm 1959, việc bảo đảm sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào
xây dựng pháp luật được Người đặc biệt quan tâm. Để đảm bảo pháp luật thực sự
của nhân dân, trong quá trình xây dựng Hiến pháp, Hồ Chí Minh yêu cầu: "Bản Hiến pháp chúng ta sẽ thảo ra… phải tiêu biểu
được các nguyện vọng của nhân dân… Sau khi thảo xong, chúng ta cần phải trưng
cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như thế bản Hiến
pháp của chúng ta mới thật sự là một bản Hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân
chủ"
Hồ
Chí Minh nhận định: "phải nhận thức cho tốt và chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật"; "sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp luật" và
"dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật". Như vậy, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, xây dựng pháp luật phải hướng tới mục tiêu dân chủ, tiến bộ để
từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Từ
những luận điểm nêu trên, có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước, pháp luật nói chung, về hoạt động lập pháp nói riêng là tài sản tinh
thần quý báu phải được gìn giữ, bảo vệ và phát huy trong sự nghiệp
đổi mới và hội nhập, công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển nhanh
và bền vững để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN, góp phần củng
cố, tạo nền tảng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi
lên CNXH của Việt Nam. Học tập, làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong
đó có tư tưởng của Người về hoạt động lập pháp là trách nhiệm, nhiệm vụ trọng
tâm và quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, là mong mỏi, tâm huyết của toàn
thể nhân dân.
Qua
gần 76 năm xây dựng và phát triển của Nhà nước và sau 35 năm Đổi Mới, thế và lực của đất nước ta đã
ở một tầm khác. Đời sống của đại đa số người dân - chủ nhân của
đất nước có những thay đổi căn bản. Từ thôn quê tới đô thị đều mang
một diện mạo mới mà chúng ta khó có thể hình dung vào những năm
đầu của thời kỳ đổi mới.
Về
hoạt động lập pháp, cho tới nay, đại đa số các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội đều có văn bản tầm luật điều chỉnh với hơn 230 bộ luật
và luật đang có hiệu lực áp dụng. Chúng ta đã xây dựng được hệ thống pháp luật
tương đối ổn định, đồng bộ, thống nhất, có sự gắn kết chặt chẽ với việc thực
hiện các chỉ đạo, chủ trương của Đảng về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tạo nền tảng pháp lý bảo đảm quyền tự do kinh doanh, các quyền về an sinh
xã hội của công dân, cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư và phát triển các
lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm quyền, lợi ích của người dân và
doanh nghiệp; ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
bảo đảm an sinh xã hội... Những kết quả đó là thành quả của khát
vọng, ý chí vượt khó vươn lên, sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về hoạt động lập pháp để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ
sự nghiệp bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Mai Năm Mới (ST)