Thứ Năm, 18 tháng 8, 2022

NGÀY 16-8-1945: QUỐC DÂN ĐẠI HỘI TÂN TRÀO, TIỀN THÂN QUỐC HỘI VIỆT NAM ĐÃ ĐƯỢC TRIỆU TẬP TẠI TÂN TRÀO


Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội Tân Trào, tiền thân của Quốc hội Việt Nam đã được triệu tập tại Tân Trào. Đây là dịp để những người đại biểu nói lên tiếng nói của tầng lớp mình, quyết định tương lai của đất nước, cũng là hình thức tập dượt để chuẩn bị ra đời Quốc hội trong những năm tháng tiếp theo.
Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu Trung, Nam, Bắc, đại biểu kiều bào ở nước ngoài, đại biểu các đảng phái chính trị, các đoàn thể nhân dân, các dân tộc và tôn giáo... Đại hội đã quán triệt đường lối của Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Đại hội thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh là:
1. Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập.
2. Võ trang nhân dân. Phát triển quân Giải phóng Việt Nam.
3. Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tùy từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo.
4. Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ.
5. Ban bố những quyền của dân cho dân: Nhân quyền; Tài quyền (quyền sở hữu); Dân quyền: Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền;
6. Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân.
7. Ban bố luật lao động; ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm.
8. Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở quốc gia ngân hàng.
9. Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hóa mới.
10. Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ.
Đại hội còn quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa. Quốc ca là bài "Tiến quân ca" và cử ra Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ủy ban giải phóng dân tộc giao quyền chỉ huy cho Ủy ban khởi nghĩa toàn quyền hành động.
Đại hội Quốc dân Tân Trào đã thể hiện được sự đoàn kết nhất trí và ý chí quyết thắng của cả dân tộc trong mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
QĐND
VTTĐ.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 18/8:


“Hỡi đồng bào yêu quý!
Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh trong “Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa”, Người viết ngày 18 tháng 8 năm 1945.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình quốc tế, khu vực, trong nước, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh và Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng đã không ngừng lớn mạnh, cao trào kháng Nhật cứu nước đã phát triển mạnh mẽ, nhất là sau cuộc đảo chính Nhật – Pháp dẫn đến sự thất bại của quân đội Nhật. Thực hiện Lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi quân và dân cả nước tiến hành tổng khởi nghĩa để giành chính quyền. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, quân và dân cả nước đã đồng loạt biểu tình, đánh chiếm các công sở của địch và giành thắng lợi, đến cuối tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng được thành lập trong cả nước, ngày 02 tháng 9 năm 1945 Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; nhân dân ta từ địa vị nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước. Mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập và tự do.
Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cách đây 77 năm, song giá trị lý luận và thực tiễn vẫn vẹn nguyên, để Đảng, Nhà nước, quân đội vận dụng trong nhận định, đánh giá tình hình, xác định đúng đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam; khơi dậy và phát huy tốt sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại… để lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chủ động nghiên cứu, nắm chắc, đánh giá, dự báo tình hình một cách khách quan, toàn diện, khoa học, biện chứng để tham mưu kịp thời với Đảng, Nhà nước có đối sách xử lý hiệu quả các tình huống, mang lại hiệu quả cao trong thực hiện nhiệm vụ, hạn chế tối đa thương vong cho bộ đội trong chiến đấu và tuyết đối không để bị động bất ngờ. Luôn biết khơi dậy và phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, kết hợp với sự giúp đỡ của nhân dân, của bạn bè quốc tế để tạo nên sức mạnh tổng hợp, đảm bảo cho quân đội hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và văn bản cho biết 'ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CHỦ TỊCH Há CHÍ MINH'
44
3 bình luận
17 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

 NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH HIỆU QUẢ VỚI CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH MỚI !


-----

Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và sự trưởng thành, lớn mạnh không ngừng của Đảng, đặc biệt là “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” sau hơn 35 năm đổi mới đất nước là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Song yếu tố giữ vai trò quyết định hàng đầu là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với đường lối chính trị độc lập, tự chủ, luôn kiên định, lý tưởng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. 


Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những biến động to lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, tác động đến mọi lĩnh vực và mọi quốc gia, dân tộc. Triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự bùng nổ của internet – mạng xã hội và những khó khăn, thách thức của đất nước ta, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội phản động ráo riết, đẩy mạnh hoạt động chống Đảng và Nhà nước ta.


Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khẳng định: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân…”.


NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ


Để đấu tranh hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, trước hết chúng ta cần nhận diện thấu đáo những âm mưu, thủ đoạn chống phá. 


Thứ nhất,nội dung, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, thâm độc, xảo quyệt.


Nhằm kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong và tạo dựng “ngọn cờ” xây dựng, quy tụ lực lượng, các thế lực phản động, thù địch luôn tìm mọi “mưu ma chước quỷ” móc nối, xâm nhập vào nội bộ của ta, tìm cách phân hóa tổ chức, lôi kéo, mua chuộc các phần tử thoái hóa biến chất, bất mãn, cơ hội chính trị. Trong tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, để tăng thêm hiệu ứng của các thông tin sai trái, chúng chú trọng tập hợp, trích dẫn các ý kiến trái chiều, đi ngược chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với những “nhãn mác tự phong” như “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, “tâm huyết, trách nhiệm vì nhân dân”… Đây là chiêu bài chống phá từ bên trong kết hợp với bên ngoài nhằm từng bước làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.


Chúng triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội, nhất là vào những thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước để phát tán thông tin xuyên tạc, chống phá, bằng nhiều chiêu thức mới với phương châm “hư hư, thực thực”, “mưa dầm thấm lâu”, “nói nhiều rồi sẽ tin”…, núp dưới những chiêu bài “góp ý”, “kiến nghị, đề nghị”, “thư ngỏ”…


Cùng với phủ nhận, hạ bệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, chúng còn trắng trợn bịa đặt, vu cáo Đảng, Nhà nước và các cơ quan pháp luật “vi phạm tự do, dân chủ, nhân quyền”; kích động gây dư luận xấu, tạo mâu thuẫn xã hội; gửi thư kiến nghị đến các tổ chức nhân quyền thế giới yêu cầu can thiệp vào tình hình nội bộ Việt Nam; triệt để tán dương, cổ vũ các hành động, hành vi trái pháp luật của những phần tử chống đối; tạo dựng các video clip, phóng sự có giao diện giống của Đài Truyền hình Việt Nam và một số báo, đài địa phương để “dẫn dụ” tâm lý tò mò của nhiều người…


Dưới sự hậu thuẫn của một số tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các thế lực thù địch lập ra các hội, nhóm, tổ chức tự xưng, xây dựng kế hoạch, đầu tư kinh phí cho tổ chức, bộ máy, trang thiết bị và hệ thống “chấn rết” hòng kêu gọi, phát động những “phong trào” chống phá toàn diện, mọi lúc, mọi nơi khi có điều kiện. Chúng đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức “xã hội dân sự” và “phản biện xã hội”, liên thông, kết nối với các “hội”, “đoàn”, “nhóm” nhằm thúc đẩy “đấu tranh bất bạo động” theo xu hướng cách mạng màu…


Bằng những hình thức tinh vi, chúng triệt để lồng ghép những quan điểm sai chống phá thông qua tổ chức các “hội thảo khoa học”, diễn đàn, sinh hoạt hội, nhóm; cài cắm lực lượng – núp bóng các tổ chức phi chính phủ và dưới danh nghĩa “hỗ trợ nhân đạo” đi đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để tuyên truyền mị dân, kích động, lôi kéo người dân vào những mưu đồ đen tối; truyền đạo, lập đạo trái phép, tuyên truyền mê tín dị đoan; dùng các “mồi nhử” kinh tế; giả danh cán bộ để lừa dối, tán phát các luận điệu sai trái, phản động.


Thứ hai,chúng tập trung, quyết liệt chống phá trên mặt trận chính trị, tư tưởng; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.


Chúng tìm mọi cách phủ nhận bản chất cách mạng khoa học, nội dung cơ bản và giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác- Lênin, coi tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt nam, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin. Bịa đặt, vu cáo Đảng, Nhà nước ta “du nhập chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam gây ra chiến tranh, nội chiến tương tàn”, “trung thành quá lâu với chủ nghĩa Mác – Lênin”, “tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho đất nước chậm phát triển, nhân dân nghèo đói”. Chúng xuyên tạc, bôi nhọ cuộc đời, sự nghiệp, cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rêu rao rằng “Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải nhà tư tưởng mà chỉ là nhà hoạt động thực tiễn nên không có tư tưởng Hồ Chí Minh”…


Hòng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chúng tập trung xuyên tạc những đặc điểm, đặc trưng, mô hình xã hội mà chúng ta đang xây dựng; phủ nhận thành quả qua hơn 35 năm đổi mới của đất nước; xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng và thành tựu phát triển kinh tế đất nước ta; cổ súy, tung hô việc phát triển nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa…  


Đặc biệt, lợi dụng sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ các cấp bị xử lý theo Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước, chúng quy chụp bản chất chung của cán bộ, đảng viên là tham nhũng, tha hóa, biến chất, “bán nước, hại dân”, hòng tạo dựng nhận thức sai lệch, hoài nghi, dao động, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Từ đó, gieo rắc ngờ vực, chia rẽ nội bộ, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với uy tín, vai trò lãnh đạo Đảng và sự quản lý của Nhà nước; ca tụng, khuếch đại chủ nghĩa tư bản mà chúng cho là “thiên đường của tự do, dân chủ, nhân quyền”.


Việc Đảng, Nhà nước ta đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực bị chúng “vin” vào để thổi phồng sai lầm, khuyết điểm; bịa đặt, vu cáo Đảng ta “đấu đá, thanh trừng nội bộ”; đơm đặt, bôi nhọ danh dự, uy tín của các lãnh đạo cấp cao…


Chúng mượn danh “dân chủ, nhân quyền, tự do, tín ngưỡng tôn giáo” để xuyên tạc, tạo các điểm nóng, kích động bạo động; kêu gọi “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”; cổ súy lối sống thực dụng, phản động, bạo lực, khuếch đại cái gọi là “tự do, dân chủ, nhân quyền” của phương Tây; rêu rao, công kích nền báo chí cách mạng của Việt Nam thiếu “tự do ngôn luận, tự do báo chí”; truyền bá các sản phẩm văn học, âm nhạc, báo chí phản động, kích động hận thù…


ĐỂ ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÓ HIỆU QUẢ


Để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh, phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục chú trọng thực hiện đồng bộ những giải pháp cơ bản sau:


Một là, không ngừng giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.


Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục quán triệt và triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Thường xuyên giáo dục, quán triệt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục tiêu, quan điểm và các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và phát huy vai trò của hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chủ động đấu tranh phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái, thù địch; tăng cường niềm tin vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng…


Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.


Quan tâm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng để không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc cho cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Theo đó, đẩy mạnh tuyên truyền đồng bộ trên hệ thống truyền thông, báo chí, internet, mạng xã hội về những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tinh thần của toàn xã hội; xây dựng niềm tin khoa học vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước… Đổi mới mạnh mẽ, khoa học, hiệu quả nội dung, chương trình giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân, phù hợp với từng đối tượng, bậc học; hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng cập nhật kiến thức lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên. Cung cấp kịp thời những thông tin nhằm nhận diện đúng các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong tình hình mới, qua đó tăng cường sức đề kháng, nâng cao cảnh giác và tinh thần chủ động trong đấu tranh…


Việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với công tác tổ chức, cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh; nói và làm đúng theo quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; tôn trọng và phát huy lịch sử, truyền thống của dân tộc, của Đảng và của địa phương; bồi đắp phẩm chất đạo đức, lối sống, tri thức – năng lực, kiến thức văn hóa – xã hội…


Ba là, tăng cường nghiên cứu, dự báo, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý những phần tử cơ hội, phản động chống Đảng, Nhà nước.


Xây dựng, thiết lập hệ thống luận cứ, luận điểm khoa học thuyết phục. Tăng cường các giải pháp công nghệ, kỹ thuật để phát hiện sớm, ngăn chặn từ “gốc” nguồn phát tán thông tin sai trái, thù địch, phản động. Chú trọng xây dựng, phát triển các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh phù hợp, sát thực tiễn. Tuyên truyền sâu rộng về những thành tựu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các định hướng, nhiệm vụ chính trị, kinh tế – xã hội của đất nước, của địa phương… 


Nghiên cứu ban hành sâu rộng, thường xuyên các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và các quy định cụ thể hóa việc tuyên truyền, quán triệt, học tập lý luận chính trị, lịch sử truyền thống, phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống mới xã hội chủ nghĩa, gương người tốt, việc tốt… Thường xuyên đặt hàng nghiên cứu các đề án, đề tài, chuyên đề về đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” và những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…


Nghiên cứu xây dựng Luật thể chế hoạt động báo chí đúng tôn chỉ mục đích, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Quy định chế tài xử phạt nghiêm minh, kịp thời, đủ sức răn đe đối với hoạt động báo chí, thông tin, nhất là thông tin trên internet – mạng xã hội. Chú trọng thông tin, đăng tải về người tốt, việc tốt; các chuyên trang, chuyên mục về đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, vạch trần bản chất phản động, phản khoa học các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá, phản động… Nghiêm cấm các hành vi triển lãm, trưng bày, xuất bản, in ấn, tán phát các ấn phẩm, tài liệu có nội dung kích động chống phá chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, xúc phạm lãnh tụ, danh nhân, xuyên tạc sự thật; xúc phạm, vi phạm thuần phong mỹ tục…


Các cơ quan chức năng nghiên cứu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và quản lý hiệu quả hoạt động văn hóa nghệ thuật, biểu diễn; sâu sát trong định hướng tuyên truyền đối với các cơ quan báo chí, truyền thông; xây dựng cơ chế, thiết lập chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, truyền thông, báo chí; thiết lập cơ chế, quy chế, chế tài chặt chẽ, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với những tổ chức, cá nhân vi phạm.


Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.


Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo, quản lý trong chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết – quy định về trách nhiệm nêu gương, về những điều đảng viên không được làm, về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ngăn chặn, đẩy lùi và kiên quyết xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Tăng cường kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh của cấp trên đối với cấp dưới. Thực hiện tốt công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá – rút kinh nghiệm, đề ra các giải pháp hiệu quả, sát thực tiễn; kịp thời khen thưởng, động viên, nhân rộng các tập thể, cá nhân điển hình, gương người tốt, việc tốt.


Phát huy tốt vai trò của Ban Chỉ đạo 35, cơ quan giúp việc của cấp ủy các cấp, lực lượng chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác tư tưởng, lý luận và đội ngũ chuyên gia đầu ngành.


Thường xuyên nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện thể chế pháp luật trên tất cả các lĩnh vực quản lý xã hội. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức có đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Ban hành các cơ chế quản lý quyền lực hiệu quả và quan tâm chế độ đãi ngộ để cán bộ, đảng viên, công chức toàn tâm, toàn ý thực hiện nhiệm vụ theo chức trách. Thể chế hóa và quản lý có hiệu quả mạng xã hội theo Luật An ninh mạng; kịp thời rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với thực tiễn. Tăng cường quản lý nhà nước về truyền thông – báo chí, nhất là thông tin trên internet và mạng xã hội; kịp thời điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện pháp chế, hệ thống quản lý nhà nước, pháp luật về chủ quyền và quy phạm pháp luật cho báo chí, truyền thông, internet, mạng xã hội… 


Đa dạng hóa nội dung, hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Có kế hoạch, kịch bản chặt chẽ, bài bản để đấu tranh trực diện, công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội – internet; tổ chức “chiến dịch truyền thông” thống nhất, đa dạng, rộng rãi, có sự phối hợp đồng bộ của nhiều lực lượng để tăng tính hiệu quả và sức lan tỏa./.

ST


Thượng tướng Ngô Minh Tiến thăm, động viên Đội tuyển “Đột phá đặc biệt”

Thượng tướng Ngô Minh Tiến thăm, động viên Đội tuyển “Đột phá đặc biệt” Sáng 17-8 (theo giờ địa phương), đoàn đại biểu cấp cao Quân đội nhân dân Việt Nam do Thượng tướng Ngô Minh Tiến, Phó Tổng tham mưu trưởng làm trưởng đoàn đã đến thành phố Sergiev Posad, cách thủ đô Moscow khoảng 70km để thăm, động viên các lưu học sinh quân sự Việt Nam tham gia Cuộc thi “Đột phá đặc biệt” trong khuôn khổ Army Games 2022 tại LB Nga; đồng thời tham dự lễ khai mạc nội dung này. Trò chuyện với các thành viên Đội tuyển “Đột phá đặc biệt”, Thượng tướng Ngô Minh Tiến biểu dương tinh thần chủ động, tích cực tập luyện của đội tuyển trong những ngày vừa qua; yêu cầu đội tuyển tiếp tục hoàn tất công tác chuẩn bị, đảm bảo sức khỏe thể chất và tinh thần tốt để khi bước vào thi đấu đạt kết quả cao. Thượng tướng Ngô Minh Tiến cũng lưu ý toàn đội phải chấp hành nghiêm các quy định của ban tổ chức và bảo đảm an toàn trong suốt quá trình thi đấu. Trước đó, Thượng tướng Ngô Minh Tiến và đoàn Việt Nam đã đến dự Lễ khai mạc Cuộc thi “Đột phá đặc biệt” tại thành phố Sergiev Posad. Phát biểu tại buổi lễ, Thượng tướng Ngô Minh Tiến bày tỏ tin tưởng cuộc thi sẽ được tổ chức thành công, an toàn tuyệt đối và chúc các đội tuyển thi đấu đạt kết quả tốt. Tham gia Cuộc thi “Đột phá đặc biệt” tại Army Games 2022 có 10 đội tuyển, bao gồm: Nga, Belarus, Campuchia, Armenia, Abkhazia, Mali, Congo, Zimbabwe, Tajikistan và Việt Nam. Các đội tuyển sẽ trải qua 3 phần thi với tên gọi: Vận chuyển cơ động, Người bảo vệ đáng tin cậy và Vùng an toàn. Năm nay là năm đầu tiên Đoàn QĐND Việt Nam cử đội tuyển tham gia Cuộc thi “Đột phá đặc biệt” trong khuôn khổ Army Games. Thành phần của Đội tuyển Việt Nam gồm 12 học viên quân sự đang học tập tại Học Viện không quân Zhukovsky ở thành phố Voronezh, phía Nam thủ đô Moscow. Theo kết quả bốc thăm, Đội tuyển “Đột phá đặc biệt” của Việt Nam sẽ thi đấu vào các ngày 19, 22 và 25-8. Nguồn: Báo QĐND

Những người lính vẽ bản đồ

Những người lính vẽ bản đồ Từ những ngày đầu đất nước mới giành độc lập, bước chân của cán bộ, chiến sĩ Phòng Bản đồ (nay là Cục Bản đồ), Bộ Tổng Tham mưu (BTTM) Quân đội nhân dân Việt Nam đã vượt biết bao rừng sâu, núi thẳm, điều tra thông tin, số liệu mặt đất, trên biển, trên không, vẽ nên dáng hình Tổ quốc, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh (QPAN), đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn. Hoạt động đó ẩn chứa biết bao nhọc nhằn, gian khổ, nhưng được tiến hành một cách âm thầm, lặng lẽ, ít ai biết đến. "Đôi mắt" của quân đội Trên bàn làm việc của Đại tá Trần Ngọc Diễn, Phó cục trưởng Cục Bản đồ đầy ắp văn bản, tài liệu. Vừa thấy chúng tôi, anh Diễn hồ hởi cho biết: “Ngay từ đầu năm, chúng tôi đã khẩn trương rà soát toàn bộ hệ thống văn bản, đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật quản lý hoạt động đo đạc và bản đồ quốc phòng bảo đảm phù hợp với Luật Đo đạc và bản đồ. Cục cũng tham mưu với thủ trưởng Bộ Quốc phòng xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật, tiêu chuẩn, định mức thuộc lĩnh vực đo đạc, bản đồ quốc phòng và địa hình quân sự (ĐHQS)”. Những con số khô cứng và hóc búa được các chiến sĩ bản đồ cụ thể hóa từ thực tế địa hình khắp các vùng, miền từ biên giới đến hải đảo xa xôi. Để rồi từ những con số đó lại chính là tư liệu quan trọng về địa hình, thổ nhưỡng, thảm thực vật, kết cấu sự bố trí của thiên nhiên, giúp các bộ, ban, ngành có liên quan hoạch định biên giới lãnh thổ, lãnh hải quốc gia, quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ trên cơ sở yêu cầu của sự nghiệp QPAN. Anh Diễn nói: Giáo sư Trebaratariop người Nga cho rằng, bản đồ là "đôi mắt" của quân đội. Ở Việt Nam, chưa đầy một tháng sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 25-9-1945, Phòng Bản đồ trực thuộc BTTM, tiền thân của Cục Bản đồ ngày nay được thành lập. Điều đó chứng tỏ Đảng, Bác Hồ rất quan tâm đến xây dựng và phát triển ngành ĐHQS. Cuối tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết loạt bài về ĐHQS đăng trên Báo Cứu quốc. Người chỉ rõ: “Không nghiên cứu địa hình một cách tường tận không thể xuất trận thành công được. Trên mặt trận, biết lợi dụng địa hình, đánh trận không hao tổn công sức mà được thắng lợi dễ dàng...”. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, những cán bộ đầu tiên của ngành bản đồ quân sự đã hăng hái đi vào sản xuất, cho ra đời hệ thống tư liệu bản đồ để nghiên cứu đánh giá địa hình. Đầu năm 1954, từ mảnh bản đồ tỷ lệ 1/25.000 thu được của địch, chỉ trong 3 ngày đêm, bản đồ Điện Biên Phủ tỷ lệ 1/25.000 đã được cán bộ Cục Bản đồ biên tập, chế bản và in xong. Đây là thành tích đặc biệt xuất sắc mà đến nay vẫn làm các nhà khoa học ĐHQS ngỡ ngàng. Từ năm 1962, ứng dụng công nghệ bay chụp ảnh hàng không để nâng cao tốc độ và chất lượng sản xuất bản đồ, mở ra thời kỳ mới cho ngành ĐHQS Việt Nam. Mặc dù thời kỳ chiến tranh ác liệt, ngành ĐHQS đã có công nghệ tiệm cận trình độ các nước trong khu vực và thế giới. Ngoài việc sản xuất bản đồ giấy thông thường, Cục Bản đồ còn hoàn thành các đề tài nghiên cứu về thành lập bản đồ nổi thay cho đắp sa bàn; chế tạo máy in gỗ siêu nhẹ để có thể mang vác vào chiến trường; in bản đồ trên lụa; xuất bản cuốn “Quân sự địa hình học” có nội dung kiến thức hiện đại, phù hợp với địa hình, khí hậu Việt Nam... Gian nan trên từng mi-li-mét Mỗi mi-li-mét dáng hình đất nước dựng trên bản đồ được đánh đổi bằng biết bao nhọc nhằn, mồ hôi của cán bộ, nhân viên ngành ĐHQS. Chúng tôi tìm gặp Thượng tá, Tiến sĩ Bùi Yên Tĩnh, Phó cục trưởng Cục Bản đồ. Anh Tĩnh là thế hệ cán bộ đầu tiên của cục triển khai Dự án “Xây dựng Hệ quy chiếu-Hệ tọa độ quân sự”. Dự án có tầm chiến lược của Cục Bản đồ và ngành ĐHQS. Thượng tá Bùi Yên Tĩnh kể: Để dự án được thực hiện thành công cũng mất khoảng gần một thập kỷ. Sau thời gian dài chuẩn bị, đến năm 2006, hồ sơ thiết kế kỹ thuật của dự án mới được phê duyệt. Nhưng ở thời điểm đó giải pháp công nghệ và trang bị chuẩn bị từ nhiều năm trước không còn phù hợp. Với tầm nhìn của Ban quản lý dự án, một quyết định táo bạo, quyết đoán được đưa ra là thay thế toàn bộ giải pháp công nghệ mới. Sau hai năm tiếp tục chuẩn bị, đến năm 2009, anh Tĩnh và các đồng nghiệp bắt đầu khoác ba lô đến khắp các vùng, miền thuộc lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc xây dựng các trạm định vị vệ tinh DGPS, còn gọi là trạm cơ sở thường trực (CSTT). Lần lượt các trạm CSTT tại Đà Nẵng, Phú Quốc (Kiên Giang), Móng Cái (Quảng Ninh)... được lắp đặt đưa vào khai thác sử dụng. Chuyến công tác lắp đặt trang thiết bị, máy móc, xây dựng hạ tầng kỹ thuật Trạm CSTT Trường Sa trên đảo Trường Sa lớn (huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa) để lại nhiều ấn tượng mà anh Tĩnh và các đồng đội gọi là “những chuyến đi bão táp”. Trạm CSTT được vận hành và đi vào khai thác sử dụng, đảo Trường Sa lớn chính thức được ghi lên bản đồ hàng hải quốc tế với Trạm thu phát tín hiệu định vị vệ tinh phục vụ dẫn đường cho toàn bộ khu vực quần đảo Trường Sa. Cuộc trò chuyện của chúng tôi càng thêm sôi nổi khi có sự góp mặt của Thượng tá Đặng Anh Linh, trợ lý Phòng Trắc địa-Địa hình, Cục Bản đồ. Đã có thâm niên gần 30 năm gắn bó với nhiệm vụ vẽ dáng hình đất nước, anh Linh không nhớ hết mình đã phải nếm trải biết bao gian lao vất vả. Trong đó kỷ niệm đáng nhớ nhất năm 2004, khi anh cùng đồng đội thực hiện nhiệm vụ xây dựng lưới khống chế ảnh phục vụ thành lập bản đồ thuộc Dự án “Thành lập bản đồ trực ảnh địa hình tỷ lệ 1/50.000 phủ trùm toàn quốc” tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Khi thực hiện nhiệm vụ dọc theo sông Đăk Huyt (biên giới Việt Nam-Campuchia), vì giữa mùa mưa, nên trong lúc anh và đồng đội đang đo điểm khống chế ảnh giữa rừng thì mưa lớn ập xuống. Không có sóng điện thoại, đoàn công tác bị cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài. Trong vòng mưa lũ hiểm nguy, đoàn phải cắt rừng để đi. 7 ngày vượt rừng đo đạc không khi nào người được khô. Lương thực mang theo không đủ, ai nấy đều gầy rộc đi. Anh Linh còn bị sốt rét. Gian khổ là vậy nhưng cuối cùng đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiệm cận công nghệ tự động hóa điều hành chỉ huy Với các nước tiên tiến trên thế giới, phát triển công nghệ tự động hóa trong điều hành chỉ huy không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên ở Việt Nam, khái niệm này còn khá mới. Theo Thượng tá, TS Nguyễn Đình Minh, Trưởng phòng Bản đồ viễn thám, Cục Bản đồ, huấn luyện, diễn tập chiến đấu là nhiệm vụ trung tâm trong thời bình, có ý nghĩa quyết định đến khả năng sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), sức mạnh chiến đấu của quân đội. Để phục vụ công tác huấn luyện, diễn tập, hằng năm các đơn vị trong toàn quân vẫn phải đắp sa bàn. Tuy nhiên, việc xây dựng các sa bàn truyền thống mất rất nhiều thời gian, công sức và kinh phí; không thể tái sử dụng và độ chính xác mô phỏng không cao. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội tiến lên hiện đại, những năm qua, Cục Bản đồ chú trọng phát triển công nghệ tự động hóa điều hành chỉ huy trong huấn luyện, diễn tập, phục vụ SSCĐ. Với các tính năng hiển thị dữ liệu địa hình số 3D trên màn hình hiển thị, giúp người chỉ huy có thể quan sát trực quan, toàn diện cách bố trí lực lượng, địa hình khu vực. Đồng thời, cùng lúc người chỉ huy có thể xem nhiều loại dữ liệu bản đồ, sa bàn như bản đồ địa hình, ảnh vệ tinh, mô hình số độ cao, cả hệ thống văn kiện, qua đó dễ dàng theo dõi được các khung tập, vai tập theo đúng kế hoạch đã xác định và thiết kế từ trước. Đặc biệt, với sa bàn khắc CNC 3D có thể tái sử dụng nhiều lần, tiết kiệm thời gian, chi phí xây dựng sa bàn truyền thống. Những người lính “vẽ hình đất nước” thời 4.0 đã đi tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ vũ trụ, tin học viễn thông vào lĩnh vực tham mưu địa hình hiệu quả trong các hoạt động quân sự, quốc phòng. Mỗi bước tiến của các anh đều góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu, tiềm lực quốc phòng, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc. Bài và ảnh: PHẠM TUẤN - HỒNG SÁNG

Bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần quan trọng phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế

Bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần quan trọng phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế NDO - Nhân kỷ niệm 77 năm Ngày truyền thống lực lượng Công an nhân dân, sáng 18/8, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh đến thăm, làm việc với Cục An ninh kinh tế (Bộ Công an). Cùng dự có Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước thân ái gửi tới toàn thể các thế hệ tướng lĩnh, sĩ quan, cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân nói chung, lực lượng An ninh kinh tế nói riêng những tình cảm thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất nhân dịp kỷ niệm 77 năm Ngày truyền thống lực lượng Công an nhân dân; ghi nhận và biểu dương những kết quả, thành tích, chiến công xuất sắc của lực lượng Công an nhân dân nói chung, Cục An ninh kinh tế và lực lượng An ninh kinh tế toàn quốc nói riêng. Chủ tịch nước nêu rõ, Cục An ninh Kinh tế đã tích cực đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 12 của Bộ Chính trị về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”, qua đó góp phần nâng cao nhận thức thức về vị trí, vai trò của an ninh kinh tế và bảo vệ an ninh kinh tế; tiếp tục củng cố, tăng cường công tác bảo vệ an ninh kinh tế. Do nắm chắc, đánh giá, dự báo sát, đúng tình hình, phát huy hiệu quả hoạt động của mô hình tổ chức mới, lực lượng An ninh kinh tế chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương, giải pháp cơ bản, có tính chiến lược, tham mưu xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh kinh tế trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội đất nước; nhiều vấn đề về hợp tác kinh tế quốc tế, góp phần tích cực thực hiện đường lối đối ngoại, bảo đảm vừa mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia, chủ quyền lãnh thổ. Chủ tịch nước đánh giá cao lực lượng An ninh kinh tế đã kịp thời phát hiện, xử lý có hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững quyền độc lập, tự chủ trong quá trình phát triển kinh tế; góp phần loại trừ các nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, bảo vệ đường lối, chính sách phát triển kinh tế trên nhiều lĩnh vực quan trọng. Trong lĩnh vực bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ, toàn lực lượng đã triển khai đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả các mặt công tác, chủ động nắm tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức triển khai hiệu quả nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản chỉ đạo; kịp thời bổ sung, hoàn thiện pháp luật, khắc phục hạn chế, bất cập. Đặc biệt, lực lượng An ninh kinh tế đã lập nhiều thành tích trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm, kịp thời ngăn chặn các hành vi “lợi ích nhóm”, dấu hiệu cố ý làm trái các quy định pháp luật, lợi dụng sơ hở để trục lợi, góp phần bảo vệ đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, xây dựng niềm tin cho nhân dân; trực tiếp tham mưu, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành, địa phương góp phần tích cực bảo vệ các cán bộ đầu ngành về kinh tế, các cơ quan tham mưu chiến lược về kinh tế, các nguồn lực kinh tế để phát triển đất nước. Những đóng góp này cho thấy, công tác bảo đảm an ninh kinh tế góp phần quan trọng vào sự ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững ổn định chính trị-xã hội, tạo môi trường thuận lợi, an toàn cho sự phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Đề cập thời gian tới, trong bối cảnh phục hồi kinh tế do những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, suy thoái kinh tế thế giới, xung đột chính trị, chiến tranh thương mại giữa các nước lớn; các thế lực thù địch, phản động tiếp tục thực hiện âm mưu, ý đồ chống phá, Chủ tịch nước đề nghị lực lượng An ninh kinh tế tiếp tục quán triệt sự lãnh đạo, chỉ đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm an ninh kinh tế. Chú trọng quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng bộ Công an Trung ương, Chỉ thị số 12 của Bộ Chính trị; cụ thể hóa và triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 12 của Bộ Chính trị về “đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”; tăng cường nắm tình hình, theo dõi, đánh giá chính xác các tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế. Cùng với đó, tiếp tục thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về công tác bảo đảm an ninh kinh tế; rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ an ninh kinh tế; xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định bảo đảm an ninh kinh tế ở những cơ quan hoạch định chính sách phát triển kinh tế, các tập đoàn, doanh nghiệp kinh tế lớn và trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; chủ động phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những hạn chế, bất cập trong triển khai, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế; những dấu hiệu vi phạm pháp luật về an ninh kinh tế; các nguy cơ đe dọa mất an ninh kinh tế để kịp thời kiến nghị với Đảng, Nhà nước các chủ trương, giải pháp phù hợp, hiệu quả. Chủ tịch nước lưu ý, lực lượng An ninh kinh tế phải luôn đề cao cảnh giác, chủ động, nhạy bén, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ, góp phần giữ vững an ninh quốc gia nói chung và an ninh kinh tế nói riêng. Trong bất luận hoàn cảnh, điều kiện nào lực lượng An ninh kinh tế luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có bản lĩnh chính trị vững vàng, là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức, về tinh thần phục vụ nhân dân, ý thức tổ chức kỷ luật tốt, giỏi về pháp luật, tinh thông, sắc bén về nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, thường xuyên phối hợp trao đổi thông tin với cơ quan chức năng các nước giải quyết hiệu quả các nguy cơ đe dọa an ninh kinh tế từ bên ngoài và bên trong; chú trọng xây dựng, phát triển phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc", huy động sức mạnh tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân, doanh nhân vào sự nghiệp bảo đảm an ninh kinh tế, bảo vệ an ninh quốc gia. Nguồn: Báo QĐND

Những người giữ biển miền Trung

Những người giữ biển miền Trung Nói đến Vùng 3 Hải quân là nói đến những người giữ biển miền Trung với bao chiến công thầm lặng. Phần lớn các đơn vị đài, trạm ra-đa phân tán nơi núi cao, đảo xa; các tàu thực hiện nhiệm vụ dài ngày trên biển. Song nhờ phát huy tính chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, cán bộ, chiến sĩ toàn vùng luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, xứng đáng với truyền thống anh hùng của đơn vị... Vững tin bám biển Những con tàu ra khơi thực hiện nhiệm vụ phải đối mặt với bao thử thách, sóng gió và hiểm nguy luôn rình rập, bủa vây. Giữa biển trời bao la, nhưng họ không hề đơn độc, bởi tình yêu quê hương, đất nước chính là nguồn động viên, tiếp thêm sức mạnh và dũng khí cho người chiến sĩ giữ biển vượt qua thử thách, gian khó, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc... Cùng Chuẩn đô đốc Mai Trọng Định, Chính ủy vùng bước chầm chậm trên Quân cảng Đà Nẵng, tôi được anh chia sẻ về “bí quyết” quản lý, điều hành đơn vị: “Bài học kinh nghiệm của đơn vị chúng tôi trong những năm qua là nhận thức rõ trách nhiệm thiêng liêng của người chiến sĩ làm nhiệm vụ canh giữ biển trời, luôn phát huy nhân tố chính trị tinh thần; thường xuyên nâng cao chất lượng huấn luyện, SSCĐ”. Minh chứng cho điều khẳng định ấy, Chính ủy Mai Trọng Định dẫn tôi xuống đơn vị cơ sở. Chiều muộn, nhưng không khí làm việc của đơn vị rất khẩn trương. Cán bộ, thủy thủ trên các con tàu hăng say luyện tập khoa mục tại bến. Tiếng máy, tiếng khẩu lệnh hòa cùng tiếng sóng âm vang... Sau cái bắt tay thật chặt, Đại tá Đỗ Ngọc Hiểu, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 172, Vùng 3 Hải quân, cho biết: “Tàu ra khơi thực hiện nhiệm vụ tuần tiễu trên vùng biển xa, đòi hỏi công tác huấn luyện, SSCĐ phải đáp ứng yêu cầu cao; chuẩn bị chu đáo đến mấy cũng không thừa. Cán bộ, chiến sĩ tranh thủ thời gian luyện tập nhiều phương án để ra khơi thật an toàn. Để thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, bảo đảm an toàn tuyệt đối, đơn vị tập trung vào những khoa mục ứng dụng phức tạp, chuẩn bị cho các thủy thủ tâm thế sẵn sàng nhận nhiệm vụ ra khơi trong mọi điều kiện, tình huống”. Thực tế cho thấy, trước đây, Lữ đoàn 172 chỉ đặt vấn đề gắn chất lượng huấn luyện với trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy, nhưng nay thực hiện gắn chất lượng huấn luyện với trách nhiệm của từng cá nhân. Quá trình huấn luyện không như trước đây thường ra tình huống ngay tại bến, bây giờ khi các tàu, biên đội hành quân ra khu neo đậu mới phát tình huống chiến đấu. Cách làm như vậy không những giúp bộ đội tránh chủ quan mà còn phát huy tính chủ động, sáng tạo trong huấn luyện. Hoàng hôn trên Quân cảng Đà Nẵng thật trong lành. Giai điệu ca khúc “Ra khơi mang tình mẹ” của nhạc sĩ Phạm Nguyễn cất lên da diết: “... Bờ tre ngân nga bao lời ca/ Dòng sông âm vang bao lời ca/ Thiết tha như lời mẹ dặn con/ Ấm sao như lời mẹ ru con/ Đêm nay ra khơi đêm nay sao thắp giữa bầu trời/ Như mắt mẹ nhìn theo bao yêu thương/ Ra khơi đêm nay sao sáng giữa bầu trời/ Như mắt mẹ nhìn theo bóng tàu đi...”. Tôi biết, dù trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào, người chiến sĩ giữ biển đều vượt lên khó khăn, gian khổ và mất mát, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ. “Mắt thần” giữ biển Trung đoàn 351 (Vùng 3 Hải quân) đóng quân phân tán ở những nơi núi cao, đảo xa. Tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, thử thách, song những năm qua, đơn vị luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng là “mắt thần" giữ biển. Trao đổi với Đại tá Lê Huy Dân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 351, chúng tôi được biết, những năm qua, cán bộ, chiến sĩ đơn vị luôn ổn định về chính trị tư tưởng, đoàn kết, phát huy dân chủ tốt, kỷ luật nghiêm. Đơn vị thực hiện tốt các khâu dự báo, nắm, quản lý, giáo dục và giải quyết nhanh, kịp thời tình hình tư tưởng bộ đội. Theo Đại tá Nguyễn Duy Long, Chính ủy trung đoàn, để đạt được những kết quả ấy, các cơ quan, đơn vị coi trọng xây dựng chính quy, quản lý rèn luyện kỷ luật, lấy tổ chức đoàn thanh niên làm lực lượng nòng cốt ký kết giao ước thi đua tới từng cá nhân. Cơ quan chính trị chỉ đạo các đơn vị phát động nhiều phong trào thi đua đột kích, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ; triển khai hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng với tinh thần “một giờ hăng say hơn cả ngày chiếu lệ”... nhờ vậy ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của bộ đội được nâng cao. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, các cơ quan, đơn vị trong toàn trung đoàn thực hiện nghiêm quy chế dân chủ, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, phát huy vai trò của người chỉ huy, các cơ quan tham mưu, các tổ chức quần chúng trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện và nêu gương để cấp dưới, đơn vị làm theo. Từ việc coi trọng và quan tâm đến công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, quán triệt kỹ các nội dung của quy chế dân chủ, làm cho cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp và viên chức quốc phòng nắm chắc về quyền, nghĩa vụ của mình để từ đó có ý thức tự giác tham gia và nâng cao năng lực làm chủ trong mọi hoạt động ở cơ quan, đơn vị. Để tìm hiểu thực tế, chúng tôi lên Trạm Ra-đa 545 (Trung đoàn 351) trên cao điểm 696 (Sơn Trà, Đà Nẵng). Đã gần 9 giờ sáng mà sương mù vẫn dày đặc, phủ kín cả một vùng bán đảo. Đường lên “cổng trời” dốc núi quanh co. Sau gần 1 giờ vượt dốc, chúng tôi mới lên tới Trạm Ra-đa 545. Giữa màn sương bàng bạc, mùi hoa dẻ lan tỏa cả đất trời tạo nên sự gần gũi, ấm cúng giữa thiên nhiên với con người. Cũng giống như thân cây dẻ già nua kia, giữa sự khắc nghiệt của thiên nhiên, giữa khó khăn gian khổ, người lính ra-đa vẫn kiên cường bám trụ. Thiếu tá, Trạm trưởng Phạm Văn Nam tâm sự: “Lính ra-đa có đặc thù, tiếng là lính thủy nhưng lại ở rừng. Trong khi đồng đội ở đơn vị tàu lướt sóng ra khơi thì chúng tôi lại căng mắt trên màn hình huỳnh quang ra-đa 24/24 giờ để quan sát, phát hiện mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ không được phép lơ là, mất cảnh giác, dù chỉ một phút. Nhiệm vụ khó khăn là vậy nhưng hằng năm, đơn vị luôn duy trì nghiêm các chế độ trực SSCĐ; kịp thời phát hiện, theo dõi và báo cáo thường xuyên tình hình trên vùng biển được phân công phụ trách... Tiếp xúc với cánh lính trẻ, tôi phần nào hiểu thêm về cuộc sống của họ... So với những đơn vị nơi đảo xa, cán bộ, chiến sĩ Trạm Ra-đa 545 đỡ vất vả hơn, nhưng không phải là đã hết những khó khăn, thiếu thốn. Chỉ cách khu vực dân cư chừng 10km đường chim bay, vậy mà thực phẩm phải chuẩn bị dự trữ cả tuần. Bộ đội vẫn thiếu nước ngọt và rau xanh. Muốn mua hàng hóa, bộ phận tiếp phẩm phải băng rừng hành quân bộ cả ngày với 30km đường đèo dốc nguy hiểm. Những năm gần đây, vùng và đơn vị đầu tư mua xe gắn máy để phục vụ công tác tiếp phẩm, nhưng cũng chỉ chạy được mươi chuyến là xe hỏng máy vì dốc cao, đường xấu... Trò chuyện với những chiến sĩ ra-đa trên đỉnh Sơn Trà, tôi còn biết thêm sự khó khăn mang tính đặc thù của họ. Đóng quân trên đỉnh núi, phóng tầm mắt ra xa, trước mặt là cuộc sống sầm uất của thành phố, sau lưng là khu du lịch biển ồn ào, náo nhiệt. Chiều thứ bảy, chủ nhật, đứng trên đài canh chứng kiến cuộc sống sầm uất của người dân thành phố, làm sao các anh không khỏi chạnh lòng. Đại úy QNCN Nguyễn Chí Công, ngành trưởng ra-đa (người có thâm niên 28 năm trên đỉnh Sơn Trà), tâm sự: “Gia đình tôi hiện ở xã Diễn Hải (Diễn Châu, Nghệ An) nhưng mấy khi được gần vợ con đâu. Vì nhiệm vụ, với lại mình cũng phải làm gương cho lớp trẻ”. Tạm biệt Trạm Ra-đa 545 trong chiều hè quyến luyến. Trên cao điểm 696, gió từ cửa vịnh Đà Nẵng thổi vào mát rượi. Bên chiến hào, cánh sóng ra-đa vẫn vươn cao. Sự bình yên của biển, đảo, sự vĩnh hằng của thời gian đã chắp cánh cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 351 vững tin xây đắp truyền thống “Đoàn kết hiệp đồng, khắc phục khó khăn, bám trạm bám đài, hoàn thành tốt nhiệm vụ”, xứng đáng là “mắt thần” giữ biển miền Trung. nguồn: Báo QĐND VN

Thứ Tư, 17 tháng 8, 2022

Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định - Vị nguyên soái của dân

 Trong dòng chảy lịch sử khoa bảng Việt Nam, dòng họ Trương là một dòng họ hiếu học, có nhiều đóng góp cho đất nước. Nếu như ở con đường khoa bảng, họ Trương có Tiến sĩ Trương Công Giai, là vị Tiến sĩ trẻ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến, hay Tiến sĩ Trương Đăng Quế, người khai khoa đất Quảng Ngãi. Thì ở ngạch tướng võ có Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định, ông là võ quan triều Nguyễn và là thủ lĩnh phong trào kháng Pháp ở Nam Bộ giai đoạn nửa sau thế kỷ 19.

Trương Định sinh năm 1820, tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Ông còn có tên là Trương Công Định hoặc Trương Trường Định, là hậu duệ dòng họ Trương khai khoa vùng Quảng Ngãi xưa. Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.

Ngược thời gian tìm về lịch sử, theo ghi chép của các sử gia dưới triều Nguyễn, Trương Định sinh ra và lớn lên trong một gia đình danh tiếng, lại sống tại vùng đất hiếu học, nên mặc dù không muốn quan tâm theo con đường cử nghiệp nhưng Trương Định vẫn được giáo dục bài bản, thông hiểu binh thư và võ nghệ, đặc biệt là tài bắn.

Thời vua Thiệu Trị, vào năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam và trở thành bậc tiền hiền khai mở vùng đất Tân An - Định Tường. Sau khi cha mất, ông ở lại vùng Gò Công và kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đông ngày nay). Năm 1854, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của triều đình Huế do Nguyễn Tri Phương thi hành, ông đem hết tài sản đi chiêu mộ dân nghèo vùng Quảng Nam - Quảng Ngãi vào khai hoang lập đồn điền ở Gia Thuận, thuộc huyện Gò Công Đông ngày nay và được bổ chức Phó Quản Cơ của đồn điền. Thực ra, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Trương Định đã sớm mang trong mình tư tưởng kháng Pháp, nên việc quyết định ở lại chiêu mộ quân sĩ, lập đồn điền còn mang nhiều ý nghĩa, trong đó quan trọng nhất là chuẩn bị lực lượng để kháng Pháp.

Cùng với việc tập hợp lực lượng, xây dựng các chiến lược chống lại quân Pháp, Trương Định còn tiến hành nhiều hoạt động khác để xây dựng nguồn lực lâu dài. Trong đó, việc cưới người vợ thứ 2 vừa là cơ duyên, vừa là thêm động lực chống lại quân xâm lược. Bởi người vợ này của ông không phải ai khác mà chính là bà Trần Thị Sanh, là chị em con cô con cậu với bà Từ Dũ Thái Hậu, mẹ của vua Tự Đức. Giới nghiên cứu sử học đánh giá đây là cuộc hôn nhân đặc biệt xứ Nam Kỳ bởi nó liên quan đến vận mệnh của đất nước. Bà vợ này là 1 trong 4 người giàu nhất vùng Gò Công lúc đó, thêm một sự hậu thuẫn để Trương Định kháng Pháp.

Tháng 4/1861, thực dân Pháp chiếm thành Định Tường, tháng 11/1861 chiếm thành Biên Hòa và đến tháng 3/1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long. Triều đình ký hòa ước "Nhâm Tuất" vào ngày 5/6/1862 cắt 3 tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cho Pháp. Tiếp đó, triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong làm Lãnh binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hoà và gấp rút nhận chức mới ở An Giang.

Nhưng lòng dân và nghĩa quân không chịu, trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu thì Trương Định nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử ông làm chủ soái 3 tỉnh để giết giặc. Cảm kích sự tín nhiệm của những người yêu nước và nhân dân, ông đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu "Bình Tây Đại Nguyên Soái" do nhân dân phong, tiếp tục cuộc chiến đấu chống giặc Pháp.

Từ đó, Trương Định lấy Gò Công làm địa phận chính để mở các trận tấn công Pháp, lấy biệt danh căn cứ là “Đám lá tối trời” và xây dựng binh pháp riêng của nghĩa quân để kháng Pháp. Một mặt, ông xây dựng lại lực lượng, mặt khác ông kêu gọi các sĩ phu yêu nước hãy đứng lên góp công góp sức, hiến kế đánh giặc, đó là  lời hịch tháng 8/1864. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Trương Định, khắp nơi một làn sóng kháng chiến lại nổi lên ở Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Chợ lớn và vùng giáp ranh Biên Hoà. Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường, Hội Khoa học Lịch sử Tiền Giang phân tích, sở dĩ Trương Định tập hợp được lực lượng đông đảo như vậy là do ông đã dành được lòng tin của nhân dân và có sự yểm trợ ngầm từ phía triều đình.  

Sau hàng loạt cuộc nổi dậy của nghĩa quân của Trương Định mở rộng từ Gò Công đến Gia Định, lan sang nhiều địa phương khác như Bà Rịa, Tây Ninh, quân Pháp tập trung lực lượng đàn áp và  ra sức truy tìm để diệt ông. Đêm 19/8/1864, dò biết nơi ở của Trương Định, tên phản bội Huỳnh Công Tấn cho quân bao vây đột nhập vào nhà. Trương Định và những nghĩa quân của ông chiến đấu chống trả quyết liệt, diệt được một số quân địch, nhưng lại bị thương nặng. Biết mình không sống được và quyết không để rơi vào tay giặc, Trương Định đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết người anh hùng, năm ấy ông tròn 44 tuổi.

GS Trương Minh Nhật, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, nhà nghiên cứu cũng là hậu duệ dòng họ Trương cho rằng, cuộc khởi nghĩa của Trương Định chỉ kéo dài 5 năm nhưng đã để lại nhiều ý nghĩa: “Thứ nhất là tập hợp được lực lượng nhân dân yêu nước đánh Pháp. Thứ 2 là thể hiện tinh thần độc lập tự chủ trong việc đề ra đường lối kháng Pháp. Thứ 3, cuộc khởi nghĩa của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất vùng Nam Bộ trong giai đoạn đầu của phong trào kháng Pháp” - GS Trương Minh Nhật nhấn mạnh.  

Sau khi Trương Định mất, bà Trần Thị Sanh là người vợ thứ của ông và nhân dân mang ông về an táng rất trọng thể, tại một địa điểm nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Năm 1964, ngôi mộ và đền thờ ông được tu bổ khang trang và giữ nguyên dáng dấp đến ngày nay. Còn ở tại quê nhà phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi, năm 1871 vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và cho lập đền thờ ông tại Tư Cung, nơi ông sinh trưởng và giao cho các quan tỉnh Quảng Ngãi tế tự hàng năm.

Tuy sự nghiệp cứu nước chưa thành, nhưng anh hùng dân tộc Trương Định đã để lại tấm gương sáng về lòng yêu nước, thương dân và tinh thần kiên trung, bất khuất. Tinh thần Trương Định và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo mãi mãi lưu danh cùng non sông đất nước.                     

Biết ơn vị thủ lĩnh “Đám lá tối trời”, anh hùng Trương Định, hàng năm, đến ngày giỗ ông (20 tháng 8) nhân dân vùng Gò Công nhà nào cũng lập bàn thờ ngoài trời và làm lễ tại đình. Lễ giỗ ông ngày nay trở thành ngày hội của nhân dân trong vùng, thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" và tấm lòng thành kính của con cháu hậu duệ đối với vị nhân sỹ nặng lòng yêu nước, thương dân, có công lao to lớn trong sự nhiệp chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc.