Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2022

Đấu tranh chống sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện từ mùa xuân năm 1930 và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhờ đó đất nước Việt Nam “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1).

Hiện thực lịch sử vẻ vang đó được toàn dân tộc thừa nhận, tự hào và bạn bè quốc tế khâm phục, quý trọng. Đó là sự thật, không ai có thể phủ nhận. Nhưng vẫn có những thế lực thù địch, phản động ở trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc lịch sử Đảng hòng hạ thấp và chống phá sự lãnh đạo của Đảng.

1. Có một số thế lực cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và tầm vóc, giá trị lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Họ coi đó chỉ là sự “ăn may” của cộng sản, Việt Minh. Thực tế lịch sử đã khẳng định Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục suốt 15 năm với sự lãnh đạo của Đảng từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.

Trong phong trào giải phóng dân tộc, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện đường lối, đặt mục tiêu giành độc lập dân tộc lên hàng đầu; xây dựng lực lượng chính trị rộng lớn, đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng rộng khắp trên cả nước; xác định phương pháp đấu tranh đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành độc lập và chính quyền; dự báo và nắm bắt thời cơ cách mạng. Đó là những điều căn bản và quyết định thắng lợi của cách mạng.

Điểm nổi bật có giá trị lý luận và thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn vấn đề tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ. Thời cơ bảo đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi là: Cao trào cách mạng của nhân dân cả nước phát triển mạnh mẽ (Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945); kẻ địch lâm vào khủng hoảng, hoang mang, mất sức chiến đấu (Pháp chạy, Nhật hàng Đồng minh); các tổ chức đảng và Việt Minh đủ mạnh trên cả nước, quyết tâm lãnh đạo đưa quần chúng vào hành động cách mạng. Cùng với nắm bắt thời cơ, Đảng đã chỉ rõ nguy cơ: Quân Đồng minh (Anh và Trung Hoa dân quốc) kéo vào giải giáp quân Nhật và lợi dụng danh nghĩa đó để xâm chiếm Việt Nam; lợi dụng sự thất bại của Nhật, quân Pháp quay lại áp đặt sự cai trị như trước ngày 9-3-1945. Đảng đã lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước khi quân Đồng minh vào và trước khi quân Pháp quay lại.

Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang từ ngày 14 đến 15-8-1945 quyết định tổng khởi nghĩa với nguyên tắc chỉ đạo: Tập trung, thống nhất, kịp thời và nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa cuối tháng 8-1945. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã xóa bỏ chế độ thuộc địa gần một thế kỷ và chế độ quân chủ phong kiến hàng nghìn năm, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do với bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945-1954) do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là cuộc kháng chiến thần thánh với những chiến công vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”. Bạn bè quốc tế nhắc đến Điện Biên Phủ gắn liền với Việt Nam-Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp. Vậy mà đến nay vẫn có thế lực cố tình xuyên tạc. Họ cho rằng có thể tránh được cuộc chiến tranh "nếu phía Việt Nam không hiếu chiến".

Sự thật đã bác bỏ quan điểm sai trái đó. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”.

Lập trường hòa bình và sự nhân nhượng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa rất rõ ràng. Khi kháng chiến diễn ra ở Nam Bộ, ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh đã ký với J.Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Hà Nội bản Hiệp định Sơ bộ cho phép 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc; Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và tài chính riêng trong liên bang Đông Dương và thuộc khối liên hiệp Pháp. Đó là sự nhân nhượng rất lớn nhưng cần thiết mặc dù Pháp chưa công nhận Việt Nam độc lập và còn phải ở trong khối liên hiệp Pháp. Nhân nhượng đó thể hiện mong muốn hòa bình và quan hệ thân thiện với nước Pháp. Để thúc đẩy quá trình đó, ngày 25-4-1946, đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu thăm nước Pháp. Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội thăm chính thức nước Pháp với mong muốn hòa bình và hợp tác giữa hai nước. Ngày 6-7-1946, cuộc đàm phán Việt-Pháp bắt đầu ở Fontainebleau (Pháp). Do phía Pháp không thành thật muốn đàm phán nên giải pháp hòa bình không thành. Trước khi trở về nước ngày 14-9-1946, Hồ Chí Minh ký bản Tạm ước với Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Moutet nhân nhượng một số quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Ngày 18-10-1946, về đến cảng Cam Ranh, Hồ Chí Minh gặp Cao ủy Pháp D’Argenlieu trao đổi về thực hiện Tạm ước 14-9.

Sau khi ra miền Bắc, quân đội Pháp liên tiếp gây hấn, vi phạm Hiệp định Sơ bộ 6-3. Ngày 20-11-1946, Valluy, Quyền Cao ủy Pháp, ra lệnh cho quân Pháp tấn công Hải Phòng. Ở Hà Nội, quân Pháp trắng trợn dùng vũ lực và đòi kiểm soát thành phố. Trước hành động chiến tranh của Pháp, dân tộc Việt Nam buộc phải chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội Pháp mong muốn chấm dứt chiến sự, nối lại đàm phán nhưng phía Pháp không đáp lại. Bàn tay hòa bình của Việt Nam đưa ra nhưng phía Pháp đã không đáp lại bằng thái độ hòa bình. Chính phủ Pháp đã lao sâu vào cuộc chiến tranh mà chính người Pháp gọi là chiến tranh phi nghĩa, “chiến tranh bẩn thỉu” để cuối cùng nhận lấy thất bại đau đớn.

3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) phải vượt qua nhiều gian khổ, hy sinh mới đi đến Ngày toàn thắng 30-4-1975, thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc. Chính giới Hoa Kỳ và các tướng lĩnh Mỹ thừa nhận hành vi chiến tranh của họ ở Việt Nam, những bài học và nguyên nhân thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nhiều cựu binh Mỹ đã trở lại Việt Nam có lời sám hối về cuộc chiến tranh phi nghĩa của Chính phủ Mỹ và những tội ác do họ gây ra, mong muốn được góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, nhất là sự tàn phá của chất độc da cam/dioxin. Vậy mà vẫn có những tiếng nói lạc lõng, trắng trợn, coi chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc “nội chiến” giữa phe cộng sản và phe quốc gia. Đó là sự xuyên tạc lố bịch nhất.

Năm 1950 mở đầu sự can thiệp của Mỹ khi tàu chiến Mỹ đến cảng Sài Gòn và ngày 19-3-1950, 30 vạn nhân dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ can thiệp. Sau thảm bại của Pháp ở Điện Biên Phủ (7-5-1954), tháng 6-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng trong Chính phủ Bảo Đại do Pháp dựng lên từ ngày 13-6-1949. Đó là sự chuẩn bị để Mỹ thay thế Pháp ở Việt Nam. Sau Hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7-1954), Việt Nam tạm chia làm hai miền với Vĩ tuyến 17. Ở miền Nam, Mỹ chính thức thay chân Pháp khi quân Pháp rút hết về nước (28-4-1956). Mỹ dựng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, từ chối hiệp thương với miền Bắc để tổng tuyển cử thống nhất đất nước như quy định của Hiệp định Geneva, mưu toan chia cắt lâu dài nước Việt Nam.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên là bất hợp pháp, giả hiệu; là phản dân, hại nước. Ngụy là giả. Vì vậy, chính quyền và quân đội do Mỹ xây dựng được gọi là ngụy quyền, ngụy quân. Họ không đại diện cho quốc gia, dân tộc dù họ tự gọi mình là "chính phủ quốc gia", “chính nghĩa quốc gia”. Ngày 13-5-1957, tại Mỹ, Ngô Đình Diệm trắng trợn tuyên bố: “Biên giới của Hoa Kỳ kéo dài đến Vĩ tuyến 17”(2). Lời tuyên bố đó và cả hành động thực tế đã cho thấy bản chất của một chính quyền tay sai, bán nước, công cụ chiến tranh của Mỹ, hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ suốt đến sau này. Khi chính quyền đó không đáp ứng được lợi ích của Mỹ thì Mỹ sẵn sàng gạt bỏ, “thay ngựa giữa dòng”. Cái chết bi thảm của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trong cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 đã chứng tỏ điều đó.

Mỹ đã lần lượt thất bại trong mô hình thực dân mới ở miền Nam Việt Nam; trong “Chiến tranh đặc biệt” 1961-1964, “Chiến tranh cục bộ” 1965-1968 và “Việt Nam hóa chiến tranh” 1969-1975. Có những hành động chiến tranh vô cùng tàn bạo của Mỹ như rải chất độc hóa học hủy diệt sự sống ở miền Nam (10-8-1961); ném bom miền Bắc từ ngày 5-8-1964; ồ ạt đưa quân Mỹ tham chiến ở miền Nam (8-3-1965); sử dụng lượng vũ khí lớn ở Thành cổ Quảng Trị; ném bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972. Cuối cùng, quân Mỹ đã thất bại, chấp nhận ký Hiệp định Paris (27-1-1973), rút hết quân Mỹ về nước. Cách mạng Việt Nam phát triển, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

4. Vào những năm 1988-1991, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Do chủ nghĩa xét lại, cơ hội, sự suy thoái trong các Đảng Cộng sản cầm quyền và sự phản bội đã dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động ở Việt Nam cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội đã thất bại. Họ coi việc truyền bá lý luận Mác-Lênin vào Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm. Họ đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ sự lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng và đa nguyên chính trị, xóa bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.

Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn, đề ra các nguyên tắc chỉ đạo đổi mới kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ dứt khoát lựa chọn từ năm 1930; trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bác bỏ đa nguyên, đa đảng. Đảng đề ra "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, hội nhập quốc tế và đối ngoại ngày càng mở rộng, đời sống về mọi mặt của nhân dân không ngừng được nâng cao.

Việt Nam vẫn vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã công bố tác phẩm quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đó là công trình tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới, làm sáng tỏ mục tiêu, mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, các giải pháp và quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với lý luận khoa học và thực tiễn Việt Nam, đóng góp vào kho tàng lý luận về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là vì nhân dân, vì con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”(3).

Đất nước và dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ, vững chắc trên con đường đúng đắn dựa trên cơ sở khoa học và hiện thực. Mọi sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của Đảng không cản trở được khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.

Những luận điệu xuyên tạc kệch cỡm

 

Để đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN, TC), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo PCTN, TC tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (viết tắt là Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC).

Đến nay, tất cả 63 tỉnh, thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo PCTN, TC. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang xuyên tạc trắng trợn chủ trương đúng đắn này. Chúng nhận định bừa rằng "việc thành lập càng nhiều ban bệ thì càng tham nhũng hơn, thêm một cấp là thêm tham nhũng...". Thực tế đã cho thấy rõ những luận điệu trên của thế lực thù địch là hoàn toàn sai trái, kệch cỡm.

Xuyên tạc trắng trợn, bất chấp thực tế

Bất chấp hiệu quả của công tác đấu tranh PCTN, TC tại Việt Nam thời gian qua được nhân dân và cộng đồng quốc tế ghi nhận, các thế lực thù địch, phản động vẫn cố tình đăng tải, chia sẻ nhiều thông tin sai trái, xuyên tạc, suy diễn, quy chụp chủ trương của Đảng thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC. Đặc biệt, các tổ chức phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ; các hãng truyền thông nước ngoài và các chương trình có phát sóng bằng tiếng Việt như RFA, VOA, RFI, BBC... tán phát nhiều bài viết, hình ảnh xuyên tạc, công kích, đả phá kịch liệt chủ trương thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC của Đảng, Nhà nước ta.

Đài Á Châu Tự Do (RFA), Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA)... đưa ra luận điệu: “Vì sao “lò” chống tham nhũng đang cháy mà hàng loạt cán bộ cao cấp vẫn không sợ?”. Những kẻ thiếu tử tế vu khống rằng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực tại Việt Nam thực chất là việc các phe phái tranh quyền để triệt hạ nhau dưới vở kịch chống tham nhũng. Họ hồ đồ cho rằng, "trên thế giới này, không có quốc gia nào mà người dân lại phải còng lưng đóng thuế để nuôi nhiều cơ quan chống tham nhũng đến vậy"... Hoặc "hơn 10 năm chống tham nhũng, càng chống thì càng tham nhũng, vụ sau lớn hơn vụ trước cả về số tiền của và quan chức với chức vụ cao hơn, diễn ra ở nhiều ngành, nhiều cấp...".

Cá biệt, có đối tượng còn đưa ra luận điệu xuyên tạc, suy diễn vô căn cứ rằng, chính quyền sinh ra tham nhũng rồi lại thành lập Ban chỉ đạo PCTN, TC thì chỉ để làm khổ người dân mà thôi; không cần thiết và tốn tiền, tốn của. Từ đó chúng hô hào, kêu gọi: Muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi chế độ, phải “đa nguyên, đa đảng”, phải thực hiện cái gọi là “xã hội dân sự”, “tam quyền phân lập”...

Hiệu quả rõ ràng của cuộc đấu tranh PCTN, TC

Đầu tiên có thể thấy rõ ràng rằng, công tác PCTN, TC ở Việt Nam thời gian qua có nhiều bước đột phá mạnh mẽ, mang lại hiệu quả, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Theo thông tin được công bố sau Phiên họp thứ 22 của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC, thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách lớn về xây dựng Đảng và PCTN, TC được ban hành tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán được đẩy mạnh. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm, cả cán bộ cấp cao, đương chức và nghỉ hưu bị xử lý nghiêm minh. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã thi hành kỷ luật cán bộ liên quan đến tham nhũng, tiêu cực ở các cấp, trong đó có 56 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, có 10 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng.

Thời gian qua, Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC đã chỉ đạo triển khai khá toàn diện, đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp để xây dựng, hoàn thiện thể chế về PCTN, TC cả trong Đảng và Nhà nước. Từ nghiên cứu, ban hành mới đến rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định của Đảng và các quy định của pháp luật còn bất cập hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, để kịp thời bổ sung, điều chỉnh; từng bước hình thành khuôn khổ pháp lý vững chắc để cán bộ không thể tham nhũng, tiêu cực. Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC đã từng bước gắn kết đồng bộ giữa phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực. Nếu như ở các nước chỉ có quy định, chế tài xử lý các hành vi tham nhũng, thì tại Việt Nam hiện nay đã có cả quy định, chế tài xử lý các hành vi tiêu cực. Đó là một bước tiến vượt trội!

Từ đầu năm 2022 đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC đã ban hành gần 30 văn bản về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTN, TC. Đặc biệt, việc ban hành Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 6-7-2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW, ngày 1-8-2022 của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC hướng dẫn một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực đã hình thành cơ chế đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngày càng đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, Quốc hội đã thông qua 6 dự án luật; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 44 nghị định, 15 quyết định; các bộ, ngành ban hành 216 thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế-xã hội, kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ cũng đang chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến việc đấu thầu, đấu giá, quy hoạch, quản lý, sử dụng đất, tài sản công, tài chính công, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp,... theo đề xuất của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, TC.

Những luận điệu cho rằng chỉ có “đa nguyên, đa đảng”, “tam quyền phân lập” mới chống được tham nhũng thật nực cười. Bởi nếu chỉ đơn giản vậy, sao nhiều quốc gia được gọi là “đa nguyên, đa đảng”, “xã hội dân sự”, “tam quyền phân lập” mà tham nhũng vẫn tràn lan? Tại sao với chế độ một đảng lãnh đạo, Việt Nam vẫn đang thực hiện hiệu quả công tác PCTN, TC? Có thể thấy, thực tế kết quả công tác PCTN, TC tại Việt Nam thời gian qua đã khiến những luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch trở nên kệch cỡm.

Bảo đảm công tác đấu tranh PCTN, TC chặt chẽ, thông suốt 

Việc thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC là thực sự cần thiết, phù hợp với thực tiễn hiện nay. Việc làm này thể hiện rõ quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh PCTN, TC ở mọi cấp, mọi ngành, thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC được thành lập sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương công tác PCTN, TC, thể hiện tinh thần "trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt", khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Ban chỉ đạo cấp tỉnh là cánh tay nối dài của Ban chỉ đạo Trung ương nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho công tác đấu tranh PCTN, TC được liền mạch, chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; kịp thời giải quyết những vướng mắc, bức xúc của nhân dân về tham nhũng, tiêu cực và đưa công tác này tiến lên một bước mới.

Vì vậy, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng hơn nữa trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, kiều bào ta ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế về những thành tựu đạt được trong PCTN, TC ở Việt Nam; về sự cần thiết phải thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, TC, từ đó củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân. Cùng với đó, cần tỉnh táo nhận diện và bác bỏ các luận điệu sai trái của các thế lực phản động, thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam.

PCTN, TC là cuộc đấu tranh lâu dài, gian nan, vất vả để chống “giặc nội xâm”. Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, không được chủ quan, không nóng vội, không được thỏa mãn và né tránh, cầm chừng mà phải thật kiên trì, đấu tranh không ngừng, không nghỉ; vừa phải kiên quyết phát hiện, xử lý tham nhũng, vừa phải kiên trì giáo dục, quản lý, ngăn ngừa, răn đe, không để xảy ra tham nhũng; đồng thời phải cảnh giác, đấu tranh với những âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng đấu tranh PCTN, TC để kích động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Đó không phải "thời cơ vàng"!

 

Đến một huyện tìm hiểu về xây dựng nông thôn mới, lúc đầu tôi có nghe những lời phong thanh rằng, vùng quê này đang đứng trước “thời cơ vàng”.

Tôi thật mừng cho địa phương, để rồi đưa ra những dự đoán vồ vập của mình:

“Địa phương có tiềm năng gì, mới được đánh thức à?"-không; “Nguồn nhân lực của quê ta được nâng cao về chất à?”-không; “Có nhiều nhà đầu tư triển khai các dự án tại địa phương?”-cũng không. Nhiều dự đoán nữa của tôi về “thời cơ vàng” của địa phương đều sai bét. Tôi đang thực sự “hoang mang” về trình độ phán đoán của mình, thì một cán bộ huyện hé lộ, xem chừng cả phấn chấn và khoe khoang: “Quê tôi hiện có nhiều người là cán bộ cấp tỉnh, cấp Trung ương và các bộ, ngành”. Dường như đội ngũ cán bộ chủ chốt ở đây đều viên mãn với điều đó. Nếu họ viên mãn về quê mình có nhiều cán bộ các cấp mà để khích lệ, nhân lên niềm tự hào của người dân, nhất là thế hệ trẻ thì tốt biết mấy. Đằng này mảy may không một cán bộ nào đề cập đến “thời cơ vàng” trong giáo dục truyền thống và niềm tự hào? Họ cũng tỏ vẻ ý tứ: “Đầu nhiệm kỳ chưa dám ý kiến với các bác ấy, nhưng 3 năm tới phải xúc tiến ngay, không thì mất thời cơ. Chúng tôi sẽ đề nghị bác cán bộ tỉnh giúp việc này...; bác ở Trung ương giúp công trình kia...”. Từ hé lộ đến cụ thể khiến mạch vui của tôi chuyển hẳn sang mạch buồn mênh mang!

Sao nhiều cán bộ huyện này lại coi đây là “thời cơ vàng” của quê mình nhỉ?

Không biết khi lãnh đạo huyện “xúc tiến” thì "các bác" trên tỉnh, trên Trung ương có nhận lời và hứa gì không? Chúng ta đang phát triển đất nước, xã hội theo hướng công bằng, dân chủ, văn minh, nên tôi tin là không có bác nào “gật đầu” trước những đề nghị trên. Đó chỉ là thứ “bánh vẽ”, “bánh đặt”... từ quê nhà.

“Thời cơ vàng” rất quý, rất cần với mỗi địa phương, lĩnh vực và cả đất nước. Thời cơ này có thể là chủ quan, khách quan, nhưng quan trọng nhất là các cấp lãnh đạo ở từng địa phương, bộ, ngành cần nhanh nhạy nắm bắt và có những giải pháp hữu hiệu trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện để phát huy, phát lợi cao nhất thời cơ đó-đó mới đúng nghĩa là “thời cơ vàng”. Còn “thời cơ vàng” như với một số cán bộ ở huyện trên chỉ nặng về chủ nghĩa cơ hội, cục bộ địa phương, đó là tư tưởng trông chờ, ỷ lại và cũng là một biểu hiện của sự suy thoái, "tự diễn biến".

Mỗi địa phương có quyền tự hào về truyền thống, về những người con quê hương đang giữ trọng trách ở các cấp, các ngành. Nhưng đừng để những cán bộ cấp cao ấy khó xử và nhất là đừng để tạo thành cái cớ để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng quy chụp, xuyên tạc về bản chất tốt đẹp của xã hội ta.

“Đảng Cộng sản Việt Nam: Thời đại mới trong lịch sử”

 

Trước thềm kỷ niệm 92 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930/3-2-2022), Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trực thuộc Viện Viễn Đông (Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga) đã xuất bản tuyển tập nghiên cứu chuyên đề với tên gọi “Đảng Cộng sản Việt Nam: Thời đại mới trong lịch sử”.

Tuyển tập gồm 17 bài viết được chọn lọc từ các báo cáo tại hội thảo bàn tròn quốc tế với chủ đề “Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước và kết quả Đại hội lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam” diễn ra từ ngày 19 đến 20-5-2021.

Những bài viết của các nhà nghiên cứu có uy tín ở Nga và quốc tế đã làm rõ những bài học kinh nghiệm phong phú về lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của Đảng trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.

Các nhà nghiên cứu khẳng định Đại hội lần thứ XIII của Đảng trở thành sự kiện chính trong đời sống chính trị của Việt Nam hiện đại và xác định đường lối chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.

Nội dung của tuyển tập bao gồm ba chương, tập trung phân tích các nhiệm vụ phát triển đối nội và đối ngoại, những thành công và tiến bộ kinh tế - xã hội của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và việc thực hiện chính sách văn hóa theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Trong bài viết được chọn làm tiêu điểm của tuyển tập này, Giáo sư Đại học Tổng hợp St.Petersburg, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh Vladimir Kolotov đã đưa ra phân tích về chiến lược phát triển của Việt Nam được nêu trong các văn kiện của Đại hội lần thứ XIII của Đảng và những nét chính của hệ thống chính trị hiện đại của Việt Nam.

Tác giả nhấn mạnh sự ổn định chính trị ở Việt Nam là đặc biệt đáng chú ý trong bối cảnh bất ổn gia tăng trên thế giới và trong khu vực. Theo nhà nghiên cứu, ban lãnh đạo Đảng luôn xem xét cẩn trọng những thay đổi mạnh mẽ của các điều kiện bên trong và bên ngoài đất nước để đưa ra các chiến thuật và chiến lược phát triển hợp lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong mỗi thời kỳ lịch sử.

Tác giả khẳng định Báo cáo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội lần thứ XIII đã xác định đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ hiện đại, nhấn mạnh những định hướng đột phá chiến lược trên các lĩnh vực quan trọng then chốt: Đổi mới tư duy và tạo ra các thể chế và nguồn lực sự phát triển bền vững toàn diện; Đổi mới mô hình hiện đại hóa và phát triển nguồn lực con người chất lượng cao; Quản lý phát triển xã hội và bảo đảm công bằng xã hội; Phát triển hiệu quả các hoạt động quốc tế và bảo đảm xây dựng các lực lượng vũ trang hiện đại hóa; Tích cực xây dựng Đảng và nâng cao hiệu quả quản lý.

Báo cáo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nêu rõ các mục tiêu phát triển đầy tham vọng của đất nước cho giai đoạn đến năm 2045. Đặc biệt, báo cáo xác định rõ các chỉ số cần đạt được vào năm 2025, 2030, 2045 trùng với các mốc kỷ niệm lớn gắn liền với sự ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo nhà nghiên cứu Kolotov, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam là đưa “Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường”.

Nhà nghiên cứu lưu ý rằng, các văn kiện của Đại hội lần thứ XIII đều nhấn mạnh việc chủ động phòng ngừa ở giai đoạn sớm nguy cơ bùng nổ chiến tranh, đụng độ vũ trang, trấn áp âm mưu lật đổ, âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.

Qua đó, xác định nhiệm vụ chính là đảm bảo an ninh cho đất nước trong mọi tình huống diễn biến của tình hình chính trị-quân sự ở khu vực và trên thế giới. Tác giả khẳng định, việc phân tích cẩn trọng những cơ hội và thách thức đặt ra cho phép Việt Nam duy trì ổn định chính trị, đồng thời có thể gia tăng tiềm lực kinh tế và quốc phòng một cách có hệ thống và lạc quan nhìn về tương lai.

Giáo sư Kolotov nhấn mạnh các nhà lãnh đạo Việt Nam đã xây dựng một chiến lược phát triển định hướng tương lai cho phép bỏ qua hoặc giảm thiểu đáng kể các rủi ro hiện tại từ tình hình chính trị phức tạp trong và ngoài nước.

Ông khẳng định Việt Nam hiện đại có nhiều nguồn lực phát triển hơn những gì đã có trước đây và việc thực hiện thành công các nghị quyết của Đại hội lần thứ XIII mở ra tương lai tươi sáng cho đất nước trong thời kỳ lịch sử của đất nước.

Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng chỉ ra những thành tựu nổi bật của chính sách đối ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Giám đốc Trung tâm ASEAN trực thuộc Đại học Quan hệ quốc tế Moskva (MGIMO) Ekaterina Koldunova đã chỉ ra những thành tựu của chính sách cân bằng trong quá trình Việt Nam hội nhập vào hệ thống quốc tế, cũng như cách thức mà ban lãnh đạo đất nước đã hóa giải những thách thức mới nảy sinh trong chặng đường này.

Phó giáo sư Học viện Ngoại giao trực thuộc Bộ Ngoại giao LB Nga Pyotr Tsvetov trình bày kết quả phân tích so sánh tư liệu của các kỳ Đại hội trước và Đại hội lần thứ XIII vừa qua của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông nhấn mạnh tới việc Việt Nam củng cố vị thế trên trường quốc tế, kiên trì chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế.

Ngoài ra, các bài viết của các nhà nghiên cứu từ Pháp và Nhật Bản cũng đánh giá cao những thành tựu của chính sách đối ngoại của Việt Nam, khẳng định chiến lược ngoại giao của Việt Nam đã giúp chống chọi lại mọi “sóng gió” trên thế giới và nâng cao uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Tuyển tập nghiên cứu “Đảng Cộng sản Việt Nam: Thời đại mới trong lịch sử” được đánh giá là một trong những tư liệu nghiên cứu có giá trị cao, tiếp nối chuỗi các ấn phẩm thường niên của Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN về các vấn đề thời sự của Việt Nam và ngành Việt Nam học.

Ấn phẩm này cung cấp cho độc giả sự hiểu biết đúng đắn và toàn diện về Việt Nam và sự lạc quan về con đường phát triển đất nước trong thời kỳ lịch sử mới.

Đấu tranh chống sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện từ mùa xuân năm 1930 và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nhờ đó đất nước Việt Nam “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1).

Hiện thực lịch sử vẻ vang đó được toàn dân tộc thừa nhận, tự hào và bạn bè quốc tế khâm phục, quý trọng. Đó là sự thật, không ai có thể phủ nhận. Nhưng vẫn có những thế lực thù địch, phản động ở trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc lịch sử Đảng hòng hạ thấp và chống phá sự lãnh đạo của Đảng.

1. Có một số thế lực cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và tầm vóc, giá trị lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Họ coi đó chỉ là sự “ăn may” của cộng sản, Việt Minh. Thực tế lịch sử đã khẳng định Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục suốt 15 năm với sự lãnh đạo của Đảng từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.

Trong phong trào giải phóng dân tộc, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện đường lối, đặt mục tiêu giành độc lập dân tộc lên hàng đầu; xây dựng lực lượng chính trị rộng lớn, đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng rộng khắp trên cả nước; xác định phương pháp đấu tranh đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành độc lập và chính quyền; dự báo và nắm bắt thời cơ cách mạng. Đó là những điều căn bản và quyết định thắng lợi của cách mạng.

Điểm nổi bật có giá trị lý luận và thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý đúng đắn vấn đề tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ. Thời cơ bảo đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi là: Cao trào cách mạng của nhân dân cả nước phát triển mạnh mẽ (Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945); kẻ địch lâm vào khủng hoảng, hoang mang, mất sức chiến đấu (Pháp chạy, Nhật hàng Đồng minh); các tổ chức đảng và Việt Minh đủ mạnh trên cả nước, quyết tâm lãnh đạo đưa quần chúng vào hành động cách mạng. Cùng với nắm bắt thời cơ, Đảng đã chỉ rõ nguy cơ: Quân Đồng minh (Anh và Trung Hoa dân quốc) kéo vào giải giáp quân Nhật và lợi dụng danh nghĩa đó để xâm chiếm Việt Nam; lợi dụng sự thất bại của Nhật, quân Pháp quay lại áp đặt sự cai trị như trước ngày 9-3-1945. Đảng đã lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước khi quân Đồng minh vào và trước khi quân Pháp quay lại.

Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang từ ngày 14 đến 15-8-1945 quyết định tổng khởi nghĩa với nguyên tắc chỉ đạo: Tập trung, thống nhất, kịp thời và nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa cuối tháng 8-1945. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã xóa bỏ chế độ thuộc địa gần một thế kỷ và chế độ quân chủ phong kiến hàng nghìn năm, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do với bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1945-1954) do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là cuộc kháng chiến thần thánh với những chiến công vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”. Bạn bè quốc tế nhắc đến Điện Biên Phủ gắn liền với Việt Nam-Hồ Chí Minh-Võ Nguyên Giáp. Vậy mà đến nay vẫn có thế lực cố tình xuyên tạc. Họ cho rằng có thể tránh được cuộc chiến tranh "nếu phía Việt Nam không hiếu chiến".

Sự thật đã bác bỏ quan điểm sai trái đó. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”.

Lập trường hòa bình và sự nhân nhượng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa rất rõ ràng. Khi kháng chiến diễn ra ở Nam Bộ, ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh đã ký với J.Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Hà Nội bản Hiệp định Sơ bộ cho phép 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc; Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và tài chính riêng trong liên bang Đông Dương và thuộc khối liên hiệp Pháp. Đó là sự nhân nhượng rất lớn nhưng cần thiết mặc dù Pháp chưa công nhận Việt Nam độc lập và còn phải ở trong khối liên hiệp Pháp. Nhân nhượng đó thể hiện mong muốn hòa bình và quan hệ thân thiện với nước Pháp. Để thúc đẩy quá trình đó, ngày 25-4-1946, đoàn Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu thăm nước Pháp. Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội thăm chính thức nước Pháp với mong muốn hòa bình và hợp tác giữa hai nước. Ngày 6-7-1946, cuộc đàm phán Việt-Pháp bắt đầu ở Fontainebleau (Pháp). Do phía Pháp không thành thật muốn đàm phán nên giải pháp hòa bình không thành. Trước khi trở về nước ngày 14-9-1946, Hồ Chí Minh ký bản Tạm ước với Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Moutet nhân nhượng một số quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Ngày 18-10-1946, về đến cảng Cam Ranh, Hồ Chí Minh gặp Cao ủy Pháp D’Argenlieu trao đổi về thực hiện Tạm ước 14-9.

Sau khi ra miền Bắc, quân đội Pháp liên tiếp gây hấn, vi phạm Hiệp định Sơ bộ 6-3. Ngày 20-11-1946, Valluy, Quyền Cao ủy Pháp, ra lệnh cho quân Pháp tấn công Hải Phòng. Ở Hà Nội, quân Pháp trắng trợn dùng vũ lực và đòi kiểm soát thành phố. Trước hành động chiến tranh của Pháp, dân tộc Việt Nam buộc phải chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội Pháp mong muốn chấm dứt chiến sự, nối lại đàm phán nhưng phía Pháp không đáp lại. Bàn tay hòa bình của Việt Nam đưa ra nhưng phía Pháp đã không đáp lại bằng thái độ hòa bình. Chính phủ Pháp đã lao sâu vào cuộc chiến tranh mà chính người Pháp gọi là chiến tranh phi nghĩa, “chiến tranh bẩn thỉu” để cuối cùng nhận lấy thất bại đau đớn.

3. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) phải vượt qua nhiều gian khổ, hy sinh mới đi đến Ngày toàn thắng 30-4-1975, thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc. Chính giới Hoa Kỳ và các tướng lĩnh Mỹ thừa nhận hành vi chiến tranh của họ ở Việt Nam, những bài học và nguyên nhân thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Nhiều cựu binh Mỹ đã trở lại Việt Nam có lời sám hối về cuộc chiến tranh phi nghĩa của Chính phủ Mỹ và những tội ác do họ gây ra, mong muốn được góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, nhất là sự tàn phá của chất độc da cam/dioxin. Vậy mà vẫn có những tiếng nói lạc lõng, trắng trợn, coi chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc “nội chiến” giữa phe cộng sản và phe quốc gia. Đó là sự xuyên tạc lố bịch nhất.

Năm 1950 mở đầu sự can thiệp của Mỹ khi tàu chiến Mỹ đến cảng Sài Gòn và ngày 19-3-1950, 30 vạn nhân dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ can thiệp. Sau thảm bại của Pháp ở Điện Biên Phủ (7-5-1954), tháng 6-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng trong Chính phủ Bảo Đại do Pháp dựng lên từ ngày 13-6-1949. Đó là sự chuẩn bị để Mỹ thay thế Pháp ở Việt Nam. Sau Hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7-1954), Việt Nam tạm chia làm hai miền với Vĩ tuyến 17. Ở miền Nam, Mỹ chính thức thay chân Pháp khi quân Pháp rút hết về nước (28-4-1956). Mỹ dựng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, từ chối hiệp thương với miền Bắc để tổng tuyển cử thống nhất đất nước như quy định của Hiệp định Geneva, mưu toan chia cắt lâu dài nước Việt Nam.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên là bất hợp pháp, giả hiệu; là phản dân, hại nước. Ngụy là giả. Vì vậy, chính quyền và quân đội do Mỹ xây dựng được gọi là ngụy quyền, ngụy quân. Họ không đại diện cho quốc gia, dân tộc dù họ tự gọi mình là "chính phủ quốc gia", “chính nghĩa quốc gia”. Ngày 13-5-1957, tại Mỹ, Ngô Đình Diệm trắng trợn tuyên bố: “Biên giới của Hoa Kỳ kéo dài đến Vĩ tuyến 17”(2). Lời tuyên bố đó và cả hành động thực tế đã cho thấy bản chất của một chính quyền tay sai, bán nước, công cụ chiến tranh của Mỹ, hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ suốt đến sau này. Khi chính quyền đó không đáp ứng được lợi ích của Mỹ thì Mỹ sẵn sàng gạt bỏ, “thay ngựa giữa dòng”. Cái chết bi thảm của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trong cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 đã chứng tỏ điều đó.

Mỹ đã lần lượt thất bại trong mô hình thực dân mới ở miền Nam Việt Nam; trong “Chiến tranh đặc biệt” 1961-1964, “Chiến tranh cục bộ” 1965-1968 và “Việt Nam hóa chiến tranh” 1969-1975. Có những hành động chiến tranh vô cùng tàn bạo của Mỹ như rải chất độc hóa học hủy diệt sự sống ở miền Nam (10-8-1961); ném bom miền Bắc từ ngày 5-8-1964; ồ ạt đưa quân Mỹ tham chiến ở miền Nam (8-3-1965); sử dụng lượng vũ khí lớn ở Thành cổ Quảng Trị; ném bom hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972. Cuối cùng, quân Mỹ đã thất bại, chấp nhận ký Hiệp định Paris (27-1-1973), rút hết quân Mỹ về nước. Cách mạng Việt Nam phát triển, đánh sập ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

4. Vào những năm 1988-1991, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Do chủ nghĩa xét lại, cơ hội, sự suy thoái trong các Đảng Cộng sản cầm quyền và sự phản bội đã dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động ở Việt Nam cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội đã thất bại. Họ coi việc truyền bá lý luận Mác-Lênin vào Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm. Họ đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ sự lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng và đa nguyên chính trị, xóa bỏ con đường xã hội chủ nghĩa.

Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn, đề ra các nguyên tắc chỉ đạo đổi mới kiên định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ dứt khoát lựa chọn từ năm 1930; trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bác bỏ đa nguyên, đa đảng. Đảng đề ra "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Nhờ vậy, công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, hội nhập quốc tế và đối ngoại ngày càng mở rộng, đời sống về mọi mặt của nhân dân không ngừng được nâng cao.

Việt Nam vẫn vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã công bố tác phẩm quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Đó là công trình tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới, làm sáng tỏ mục tiêu, mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, các giải pháp và quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với lý luận khoa học và thực tiễn Việt Nam, đóng góp vào kho tàng lý luận về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là vì nhân dân, vì con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”(3).

Đất nước và dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ, vững chắc trên con đường đúng đắn dựa trên cơ sở khoa học và hiện thực. Mọi sự phá hoại, xuyên tạc lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của Đảng không cản trở được khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.

QUỐC KHÁNH 2/9-KHÁT VỌNG TUỔI TRẺ QUÂN ĐỘI!

         Là thế hệ sinh ra chỉ biết Quốc khánh 2/9 qua học tập, nghiên cứu , qua những trang sách lịch sử, thế hệ trẻ hôm nay luôn hiểu: Để có được ngày 2/9/1945 thì đã có biết bao thế hệ Cha Ông đã phải đánh đổi bằng xương máu. Thế hệ trẻ trong và ngoài Quân đội hãy sống, huấn luyện, học tập, rèn luyện, công tác... với ý chí, khát vọng, tự lực, tự cường, sáng tạo, đổi mới, hiệu quả sao cho xứng đáng./.




Yêu nước ST.

CẢNH GIÁC ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG KẺ "THỪA NƯỚC ĐỤC THẢ CÂU"!

     Bác Hồ đã dạy: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Câu nói của Bác như một lời hiệu triệu, nhắc nhở mỗi công dân Việt Nam, mỗi con Lạc cháu Hồng phải có trách nhiệm tìm hiểu về cội nguồn, lịch sử dân tộc, đặc biệt là giá trị của ngày Quốc khánh 2/9, qua đó gìn giữ, phát triển, giáo dục và khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, sức cống hiến để đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
     Thế nhưng, bấy lâu nay một số kẻ đã không có công sức đóng góp cho đất nước, cho dân tộc, mà lợi dụng tình hình để “thừa nước đục thả câu” theo đuôi những kẻ phản động, những kẻ bán nước cầu vinh, quên cội nguồn dân tộc, quên quê hương nơi chôn nhau cắt rốn, quên gia đình, gốc rễ tổ tiên của mình, quyết liệt chống phá sự nghiệp CM Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam- một Đảng mác xít luôn quyết tâm vì dân vì nước.
     Vì vậy, mỗi chúng ta hãy nêu cao cảnh giác, đoàn kết một lòng, kiên quyết vạch trần và đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, không để mắc mưu kẻ xấu làm tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc./.


Yêu nước ST.

Nghiên cứu về sự thay đổi của truyền thông phương Tây trong cuộc xung đột Nga - Ukraine

Theo báo Nezavisimaya Gazeta (Nga) ngày 6/8, trong thời gian diễn ra chiến dịch quân sự đặc biệt của Moskva ở Ukraine, quan điểm về những gì đang diễn ra của phương Tây bắt đầu dần thay đổi: nếu ở giai đoạn đầu, không có nghi ngờ gì về chiến thắng của Kiev, Moskva bị lên án và bị áp đặt các biện pháp trừng phạt cứng rắn, giờ đây họ có cái nhìn thực tế hơn về các lực lượng Ukraine. Mọi người đều hiểu rằng nếu không có sự hỗ trợ kỹ thuật - quân sự mạnh mẽ từ các nước NATO, quân đội Ukraine có lẽ đã bỏ cuộc từ lâu.

Như một chuyên gia quân sự, cựu sĩ quan tình báo Mỹ Scott Ritter đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 23/7: “Tại Ukraine, quân đội Nga đang đối đầu không chỉ với lực lượng vũ trang Ukraine, mà còn với toàn bộ phương Tây, vốn cung cấp cho Kiev một khối lượng hỗ trợ quân sự kỷ lục".

Đồng thời, những người đứng đầu bộ quốc phòng các nước phương Tây cũng phải thừa nhận rằng kho vũ khí của họ không phải là vô hạn và họ không thể giúp Ukraine mãi. Đặc biệt, điều này đã được phát biểu bởi Bộ trưởng Quốc phòng Đức Christina Lambrecht. Trung tướng Alfons Mais, Tư lệnh Lục quân quân đội Đức (Bundeswehr), trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Đức Handelsblatt vào ngày 24/7, cho rằng “Nga thực tế có nguồn lực vô tận. Đây là một cuộc xung đột làm 'tiêu hao và kiệt quệ lực lượng'. Vấn đề đặt ra là Ukraine liệu có thể cầm cự được bao lâu nữa”. 

Tuy nhiên, cách truyền thông phương Tây đưa tin về tình hình ở Ukraine lại hoàn toàn khác. Bài viết ngày 25/7 của tờ báo Anh có ảnh hưởng The Times, trong đó chỉ trích cách mà các phương tiện truyền thông phương Tây đưa tin về tình hình Ukraine, có thể được coi là phơi bày một phần sự thật về cuộc xung đột này.

Ấn phẩm lưu ý rằng nhiều nhà báo cố tình che giấu sự thật về cuộc xung đột, những thành công của lực lượng Nga được che đậy, trong khi những "chiến công" của quân đội Ukraine được tung hô. Tác giả của bài báo cho rằng “độc giả buộc phải tin rằng phía Nga hoàn toàn bất lực, quân đội của họ được huấn luyện kém và không tuân thủ kỷ luật, chiến thuật lỗi thời và các sở chỉ huy của họ bị tấn công bởi sự dũng cảm của binh sĩ Ukraine với sự hỗ trợ của pháo binh phương Tây. 

Trong một bài báo trên tờ New York Times ngày 27/7, các chuyên gia Mỹ Samuel Sharap và Jeremy Shipiro cho rằng “cùng với sự hỗ trợ vật chất dành cho Kiev, Mỹ và các đồng minh cần mở ra các kênh tương tác với Nga và tìm ra một thỏa hiệp về tình hình ở Ukraine, với mục tiêu phải là một lệnh ngừng bắn".

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là phương Tây đã thay đổi hoàn toàn thái độ đối với những gì đang xảy ra ở Ukraine. Các quan chức Mỹ và Anh cho rằng không có điểm (đồng) nào trong các cuộc đàm phán hòa bình giữa Kiev và Moskva, đồng thời tiếp tục cổ vũ giới lãnh đạo Ukraine với cam kết cung cấp thêm vũ khí để tiếp tục chiến đấu và phát động một cuộc phản công tiềm tàng. Về vấn đề này, theo NATO, quân đội Ukraine nên thực hiện một chiến dịch phản công trước giữa tháng 9.

Mặc dù vậy, các nhà phân tích quân sự phương Tây đã phải thừa nhận rằng, lực lượng vũ trang Ukraine hiện chưa có đủ quân số cần thiết cho hành động trên (vấn đề huấn luyện chiến đấu và sự hiệp đồng chiến đấu của họ là yếu tố cơ bản), cũng như thiếu vũ khí và đạn dược. Ngay cả cơ quan tình báo Anh MI6, vốn cho đến gần đây người đứng đầu của tổ chức này vẫn chắc chắn rằng Ukraine đã sẵn sàng cho các hành động phản công, cũng trở nên kiềm chế hơn trong các tuyên bố và dự báo của họ. 

Việc xuất hiện các thông tin gần đây cho rằng Ukraine sẽ thực hiện phản công theo hướng Kherson, mà các chính trị gia Ukraine tuyên bố là một cuộc tấn công quyết định chuẩn bị giải phóng miền Nam Ukraine, được các nhà phân tích quân sự nước ngoài giải thích theo hai cách. Theo ý kiến của họ, tuyên bố về một cuộc tấn công hoặc là để biện minh cho nguồn cung cấp quân sự liên tục từ phương Tây sang Kiev, hoặc nó sẽ không diễn ra trong khu vực này, mục đích có thể nhằm nghi binh và cuộc tấn công của Ukraine sẽ diễn ra ở một khu vực hoàn toàn khác, ví dụ, theo hướng Donetsk hoặc Kharkov.

Kinh tế Ukraine "cạn nguồn lực" quá nhanh

Là một phần của đánh giá về diễn biến tình hình quân sự - chính trị ở Ukraine, cùng với thành phần quân sự là ưu tiên trong chương trình nghị sự, phương Tây bắt đầu giám sát chặt chẽ hơn lĩnh vực kinh tế và tài chính của Kiev.

Theo các chuyên gia, tình hình kinh tế Ukraine đang xấu đi với tốc độ ngày càng tăng. Tỷ trọng của các doanh nghiệp ngừng hoạt động đang tăng đều đặn và những doanh nghiệp vẫn còn “trụ vững” sẽ không tồn tại lâu nếu không có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Vào ngày 26/7, công ty Naftogaz của Ukraine đã thông báo về một vụ vỡ nợ kỹ thuật xảy ra do hết thời hạn thanh toán cho các chủ sở hữu Eurobond.

Theo các nhà kinh tế và tạp chí tài chính phương Tây, như tờ Wall Street Journal của Mỹ đưa tin ngày 27/7, "việc công ty năng lượng quốc doanh Ukraine Naftogaz vỡ nợ sẽ dẫn đến phản ứng dây chuyền trong nền kinh tế và hệ thống tài chính của nước này".

Giám đốc đầu tư của công ty quản lý Abrdn (Anh), Victor Szabo, cho rằng: "Bất chấp sự hỗ trợ của phương Tây cho Ukraine, nước này 'đốt cháy' các nguồn lực của mình quá nhanh, vì nhu cầu của họ trong các lĩnh vực xã hội và quân sự đang tăng lên chóng mặt. Các khoản viện trợ từ bên ngoài chỉ đơn giản là không có thời gian để bù đắp thâm hụt ngân sách. Nếu điều này tiếp tục, đến mùa Thu, nó có thể trở thành một thảm họa đối với Kiev”.

Về mặt tài chính, Ukraine phụ thuộc rất nhiều vào các "nhà tài trợ" phương Tây và tình hình cũng phức tạp bởi thực tế là các đối tác châu Âu - Đại Tây Dương sẽ buộc phải tập trung vào giải quyết các vấn đề tài chính nội bộ của họ, và điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến lượng hỗ trợ cho Kiev. Các chuyên gia phương Tây cũng đã chú ý đến một số thay đổi trong xã hội Ukraine liên quan đến hoạt động đặc biệt. Theo tình báo quân sự Ba Lan, động lực của quân đội Ukraine đã giảm đi đáng kể so với giai đoạn đầu của cuộc xung đột. Các lực lượng được tuyển quân bổ sung cho các đơn vị, bị cưỡng chế nhập ngũ, chưa sẵn sàng và không muốn chiến đấu. Người đến tuổi nhập ngũ trốn cơ quan đăng ký nhập ngũ, tìm cách xuất cảnh. Có một sự chia rẽ giữa phần phía tây của Ukraine và các vùng lãnh thổ khác. Cư dân của các khu vực phía Tây sẵn sàng hướng sang các quốc gia Đông Âu mà họ có mối quan hệ lịch sử và nơi họ đã đi du lịch để kiếm tiền kể từ khi Ukraine tuyên bố độc lập (Ba Lan, Hungary, Romania), hơn là hướng về khu vực Donbass, nơi xa lạ với họ.

Như vậy, theo phương Tây, diễn biến của tình hình quân sự - kinh tế ở Ukraine có lẽ đã trở nên thực tế hơn (có thể dự đoán được) so với trước đây. Với khả năng cao, Kiev sẽ không thể đánh bại Nga trong điều kiện hiện tại. Ukraine hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn cung cấp vũ khí và đạn dược của phương Tây, nền kinh tế nước này ngày càng suy yếu và không có khả năng tự cung cấp thiết bị quân sự cho lực lượng vũ trang.

Tình hình ở các nước phương Tây trong bối cảnh các vấn đề kinh tế đang tồn tại cũng sẽ có tác động đáng kể đến mức độ và thời gian hỗ trợ Ukraine. Nhiều khả năng tình hình không có lợi cho Kiev có thể bắt đầu thay đổi vào mùa Thu, có thể sự mệt mỏi vì sự không chắc chắn kéo dài sẽ bắt đầu trải qua không chỉ ở phương Tây, mà còn ở Ukraine.

Theo các nhà phân tích chính trị nhạy bén ở châu Âu và Mỹ, giải pháp đúng đắn duy nhất để chấm dứt xung đột ở Ukraine có thể là đối thoại hòa bình giữa các bên tham chiến, hoặc tốt hơn, theo một hình thức mở rộng hơn, với sự tham gia của phương Tây. Vấn đề là hiện nay có rất ít cơ hội cho một cuộc đối thoại mang tính xây dựng giữa Moskva, Washington và Brussels, với những tuyên bố của phương Tây trước đó và những bước đi không thân thiện trên thực tế. Tuy nhiên, vì lợi ích của cả phương Tây, Nga và Ukraine, các bên liên quan nên bắt đầu tìm kiếm một giải pháp thỏa hiệp càng sớm càng tốt để tránh những hậu quả nghiêm trọng và khó lường hơn.

LẠC PHONG

Cảm nhận về hoạt động tuyên truyền về tình hữu nghị Việt Nam - Lào năm 2022

 Hoạt động tuyên truyền diễn ra trong cả năm 2022. Trong đó, có cao điểm từ đầu tháng 7 đến tháng 9 năm 2022. Nội dung tuyên truyền về lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào và các thành tựu hợp tác của hai nước trong giai đoạn hiện nay; ý nghĩa và tầm quan trọng của Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào, Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào và các hoạt động trong “Năm Đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào 2022”; tuyên truyền, giới thiệu về đất nước, con người Lào. Qua đó, nhằm góp phần làm sâu sắc hơn, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, sự tin cậy về chính trị, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trong tình hình mới. Thông tin rộng rãi, có sức lan tỏa tới các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, bạn bè quốc tế về ý nghĩa lịch sử, tầm quan trọng của mối quan hệ Việt Nam – Lào. Đồng thời, tăng cường sự đồng thuận trong nhân dân và sự ủng hộ của quốc tế; giáo dục truyền thống lịch sử, khích lệ, cổ vũ các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ tiếp tục vun đắp vào mối quan hệ Việt Nam - Lào được các thế hệ lãnh đạo Việt Nam và Lào dày công gây dựng và vun đắp. Tuyên truyền, phản bác các luận điệu xuyên tạc nhằm chia rẽ mối quan hệ hữu nghị và tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào.

LẠC PHONG

Đẩy lùi âm mưu xuyên tạc, chia rẽ tình hữu nghị Việt Nam - Cam-pu-chia

Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em”. “Trước sau như một, Việt Nam trung thành với nghĩa vụ quốc tế của mình đối với cách mạng Lào và cách mạng Cam-pu-chia”.

Mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước tiếp tục được phát huy, phát triển trong giai đoạn hiện nay. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam cuối tháng 12-2016 vừa qua, tại buổi gặp mặt, nói chuyện với hơn 200 đại biểu tướng lĩnh, sĩ quan, cựu chiến binh Quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế tại Cam-pu-chia qua các thời kỳ, Thủ tướng Hun Xen đã nhấn mạnh chuyến thăm của ông lần này đến Việt Nam mang theo thông điệp cảm ơn của nhân dân Cam-pu-chia đối với Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam đã giúp đỡ đánh đổ và ngăn chặn không cho chế độ Pôn Pốt quay trở lại, tạo tiền đề cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước Cam-pu-chia phồn vinh như ngày nay. Ông khẳng định luôn trân trọng những kỷ niệm tốt đẹp với quân và dân Việt Nam. Dù tình hình thế giới có diễn biến phức tạp thế nào cũng không thể tác động đến quan hệ láng giềng anh em tốt đẹp giữa hai nước. Hai nước cần giáo dục thế hệ trẻ gìn giữ mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp vốn có, tài sản vô giá đã được vun đắp trong suốt quá trình đoàn kết đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây và xây dựng phát triển đất nước ngày nay.

Ở Cam-pu-chia hiện nay lưu giữ công trình Tượng đài Hữu nghị Việt Nam - Cam-pu-chia được xây dựng cuối những năm 1970 để kỷ niệm liên minh Việt Nam - Cam-pu-chia, sau khi Quân tình nguyện Việt Nam tiến vào lật đổ chế độ diệt chủng. Tượng đài tạc hình ảnh hai người lính Việt Nam - Cam-pu-chia sát cánh bảo vệ một thiếu phụ và em bé Cam-pu-chia. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến dâng hoa tại tượng đài trong chuyến thăm chính thức Cam-pu-chia vào năm 2011. Năm 2015, Hội đồng Dân tộc Mặt trận Đoàn kết phát triển Cam-pu-chia và Bộ Quốc phòng Việt Nam đã thống nhất thực hiện công tác khảo sát, kiểm tra, lập dự án sửa chữa, tu bổ, tôn tạo các tượng đài hữu nghị Việt Nam - Cam-pu-chia, trong đó có tượng đài trên.

Trân trọng, gìn giữ, phát triển tình hữu nghị là nguyện vọng chung của đông đảo nhân dân hai nước. Nhưng cũng phải thừa nhận một thực tế là những âm mưu chống phá, chia rẽ tình đoàn kết giữa hai dân tộc là hết sức nguy hiểm; từng để lại những khó khăn, hậu quả trong lịch sử cũng như có nhiều diễn biến phức tạp trong một số vụ việc kích động, phá hoại, ẩn chứa những mưu đồ đen tối từng bị Nhà nước Cam-pu-chia lên án và xử lý thời gian qua. Để đẩy lùi những âm mưu ấy, cùng với việc tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, hữu nghị quý báu, phải luôn giữ được nhất quán trong đường lối đối ngoại, hợp tác, cảnh giác, tỉnh táo trước mọi thủ đoạn chia rẽ, tăng cường hơn nữa sự hiểu biết, tin cậy giữa chính quyền và nhân dân hai nước. Đặc biệt, phải làm tốt hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục, giúp thế hệ trẻ hiểu sâu sắc thực tiễn lịch sử và thực chất quan hệ hai nước để không ngừng chung tay vun đắp tình hữu nghị, không để những "lỗ hổng" hiểu biết cho kẻ xấu kích động, xuyên tạc.

LẠC PHONG

LĂNG LÊ VĂN DUYỆT VÀ VỤ LẬT SỬ ĐƯỢC LÊN KẾ HOẠCH, PHỐI HỢP, TÍNH TOÁN RẤT BÀI BẢN!

1. Nguồn gốc Lăng Lê Văn Duyệt
     Lăng Lê Văn Duyệt được người Pháp xây để vinh danh kẻ bán nước (phụ tá đắc lực giúp Nguyễn Ánh rước giặc Xiêm và lính đánh thuê Pháp vào nước ta), cũng giống như huân chương Bắc đẩu bội tinh của Trương Vĩnh Ký.
     Lăng Lê Văn Duyệt mới đầu chỉ là một lăng tẩm bình thường, sau này Tp HCM xây nhà thờ Lê Văn Duyệt thật hoành tráng để xin cấp bằng lịch sử văn hóa: Đây là một việc hết sức ấu trĩ và sai lầm!

2. Những sai lầm khủng khiếp về mặt sử học
     Nói rằng Lê Văn Duyệt người đầu tiên có công trấn giữ thành Gia Định nên được người dân ghi ơn là không đúng. 
     Thực chất người đầu tiên trấn giữ thành Gia Định (Tổng trấn Gia Định thành) là Nguyễn Văn Trương chứ không phải tên cận thần bán nước Lê Văn Duyệt.
     Việc Tp HCM cúng Lê Văn Duyệt 3 ngày theo nghi thức dân gian là cúng… thay người Pháp chứ hoàn toàn không đại diện cho người dân Nam Bộ bởi vì:
- Nếu người dân Nam Bộ ghi ơn thì cũng ghi ơn người đầu tiên trấn giữ thành Gia Định thi đó phải là ông Nguyễn Văn Trương. Ông Lê Văn Duyệt là người kế nhiệm thứ 4 so với ông Nguyễn Văn Trương mà thôi. Cái chức danh tả quân Lê Văn Duyệt chỉ là cận thần - cánh tay phải của Nguyễn Ánh mà thôi. Nguyễn Ánh "cõng rắn cắn gà nhà" thì Lê Văn Duyệt cũng là "rước voi dày mả tổ:
- Mặt khác, nếu người dân ghi ơn người có công mở mang bờ cõi đất phương Nam thì họ ghi ơn các đời Chúa Nguyễn chứ hoàn toàn không phải ghi ơn thờ cúng các cận thần triều Nguyễn. 

3. Kết luận
     Tp HCM lợi dụng lăng Lê Văn Duyệt do người Pháp xây để tôn vinh, cúng tế linh đình, đặt tên đường Lê Văn Duyệt là trái đạo lý, đánh tráo lịch sử: Lê Văn Duyệt chỉ là tên cận thần, giúp Nguyễn Ánh "cõng rắn cắn gà nhà" mà thôi. Hắn còn bị người dân Việt Nam nguyền rủa muôn đời thì hà cớ gì lại vinh danh đặt tên đường cơ chứ? Nhất là con đường vốn được đặt theo tên của vị hoàng đế công lao ngút trời là Đinh Tiên Hoàng.
     Cấp bằng di tích lịch sử văn hóa quốc gia đã là một sai lầm. Lợi dụng di tích lịch sử văn hóa để biến thành tôn vinh NHÂN VẬT LỊCH SỬ thì chẳng khác nào "treo đầu dê bán thịt chó".
     Mới đây dòng họ Nguyễn Phước đòi yêu cầu cấp đất xây lăng Nguyễn Ánh. Để dọn đường tôn vinh Nguyễn Ánh, trước tiên bọn chúng lần lượt rửa tội những cận thần nhà Nguyễn: Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Lê Văn Duyệt.
     Song song với rửa tội và tôn vinh triều thần nhà Nguyễn thì chúng hạ bệ bà Phi Yến (vợ Nguyễn Ánh - ngăn Nguyễn Ánh rước giặc Pháp vào nhà) <== Việc làm khá bài bản của giặc sử và hậu duệ tay sai bán nước.

Câu hỏi đặt ra là:
     Ai đã quyết định tôn vinh Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Duyệt Trách nhiệm thuộc về ai?
     Bộ VHTT và UBND Tp HCM cần thu hồi CHỨNG NHẬN DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA đối với lăng Lê Văn Duyệt.
     Vụ cấp bằng DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA, TÔN VINH NHÂN VẬT LỊCH SỬ này là một vụ lật sử có hệ thống với những mưu mô và toan tính sâu xa, hiểm độc!


Yêu nước ST.