Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023


 SÁNG NGỜI CHIẾN CÔNG 


Trường Sơn rừng núi điệp trùng

Bước chân chiến sỹ vui cùng thời gian

Ba lô súng khoác vượt ngàn

Rau rừng cơm nắm vinh quang một thời.

Như vì sao sáng giữa trời

Chiến công anh mãi sáng ngời chiến công

Anh đi gìn giữ non sông

Mưa bom bão lửa vẫn không sờn lòng.

Trường Sơn hùng vĩ điệp trùng

Dấu chân ấy mãi in cùng thời gian

Những khi mưa đổ nắng tràn

Tiếng bàn chân bước còn vang giữa đời.

Chiến tranh nay đã xa rồi

Trái tim người lính sáng ngời sử xanh.

Giờ đây là cựu chiến binh

Bước chân ngày ấy viết thành bài ca.


(St)



 

PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP ĐỂ NÂNG CAO
SỨC MẠNH BẢO VỆ TỔ QUỐC THEO QUAN ĐIỂM CỦA
 V.I. LÊNIN VÀ HỒ CHÍ MINH

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo đất nước Nga xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ nền độc lập non trẻ của mình, V.I.Lênin cho rằng, trong chiến tranh nếu bên nào có khả năng huy động được toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm công nghiệp, nông nghiệp, vận tải, các ngành kinh tế và khoa học, mọi tài nguyên, vật chất... thì bên đó sẽ hy vọng giành được thắng lợi; tất cả những điều đó lại phụ thuộc vào chế độ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Vì vậy, V.I.Lê-nin yêu cầu: "Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân ta như chăm lo con người trong mắt mình, hãy nhớ rằng chúng ta không được phép lơ là một ngày, một phút trong việc bảo vệ công nhân và nông dân chúng ta, bảo vệ những thành quả của chính họ"[1].

Trong bối cảnh đế quốc Mỹ rắp tâm phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta, mưu toan mở rộng chiến tranh ra phạm vi cả nước. Nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm cho miền Bắc là chỗ dựa về chính trị, tinh thần, vật chất cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, "Phải củng cố lực lượng quốc phòng, giữ gìn trật tự trị an, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hành động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng"[2] .

Trong dịp nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 308 tại đền Hùng trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Người nói: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" [3]. Người đã căn dặn toàn dân, toàn quân ta: bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững, chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước.

Đó là sức mạnh tổng hợp của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự biểu hiện trong sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần của cộng đồng các dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam. Xem xét sức mạnh BVTQ phải nhìn vấn đề trên mọi phương diện, không chỉ xem xét sức mạnh về vật chất, về vũ khí trang bị..., mà còn phải xem xét sức mạnh đó về mặt tinh thần, về sức mạnh của quần chúng nhân dân. Người yêu cầu: "Chúng ta phải tập trung hết thảy nhân lực, vật lực, tài lực vào công cuộc kháng chiến thì thực lực kháng chiến của ta mới được đầy đủ, mạnh mẽ để đạt tới thắng lợi cuối cùng" [4]. Nếu chỉ dựa vào vũ khí, trang bị thì dù vũ khí, trang bị đó có tối tân, hiện đại đến đâu cũng khó có thể giành được thắng lợi./.

[1] V.I.Lê-nin (1981), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, tr.368-369
[2] Hồ Chí Minh,  (2000), Toàn tập, tập 11. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tr.234.
[3] Viện Hồ Chí Minh,  (1995), Hồ Chí Minh biên niên sử, tập 11. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tr.234.
[4]  Hồ Chí Minh,  (2011), Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tr.447.

 Hồ Chí Minh - Người  anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, Người cộng sản vĩ đại, Người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản Quốc tế. Cả cuộc đời Người đấu tranh không biết mệt mỏi vì tự do của dân tộc, vì hòa bình công lý trên thế giới. Bác đã để lại cho nhân loại nền di sản văn hóa vô giá. 


Cao cả vĩ đại là thế nhưng Bác cũng chỉ là con  người bằng xương bằng thịt, Bác cũng có gia đình, có  bạn bè, có tình yêu đôi lứa như bao nhiêu con người Việt Nam chân chính khác, nhưng vì nghĩa lớn Bác đã  gác lại lợi ích riêng của bản thân cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp cứu nước vĩ đại của dân tộc.


Bác sinh  ra và lớn lên trong bối cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến cuộc sống đói khổ lầm than của kiếp người nô lệ, Bác quyết ra đi tìm đường cứu nước cứu dân. Trong hành trình bôn ba nơi xứ người Bác đã phải chịu đựng bao gian khổ hiểm nguy, có lúc Bác phải làm bồi bàn, có lúc Bác phải sống trong chốn lao tù, viên gạch hồng sưởi ấm Bác trong những đêm mùa đông lạnh giá .. 


Tại sao Bác lại có được động lực to lớn và sức mạnh phi thường đến vậy? Chỉ có tình yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng mới giúp Bác vượt qua tất cả. Tình yêu thương sự hy sinh cao cả chính là sự thuyết phục mạnh mẽ nhất, làm rung động triệu triệu trái tim người dân đất Việt, nhân dân Việt nam tự nguyện đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. 


Toàn quân, toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng - Bác Hồ vùng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, không kể phụ nữ chân yếu tay mềm, không xá chi tuổi tác già nua, với khí thế sục sôi tất cả cho tiền tuyến. Tính thần yêu nước, sự đoàn kết đã tạo nên sức mạnh giúp dân tộc Việt nam chiến thắng kè thù xâm lược dành lại nền độc lập tự do cho Tổ quốc. 


Thắng lợi to lớn mở ra bước ngoặc lịch sử trọng đại mang tên thời đại Hồ Chí Minh, đó là một thời đại rực rỡ nhất, huy hoàng nhất mãi mãi là niềm kiêu hãnh của người dân đất Việt. Bác đã để lại cho nhân dân ta một tình yêu thương vô bờ bến. Trong con mắt của  em thơ Bác như ông tiên hiền hòa, trong con mắt của Nhân dân Bác như người anh người cha gần gũi thân thương, dưới góc nhìn của các nhà quân sự chính trị Bác là một bậc "đại nhân, đại trí, đại dũng”. một con  người văn võ song toàn. 


Văn hóa phong cách của Bác là sự kết tinh sáng ngời giữa tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Bác có khả năng mang đến niềm vui, niềm tin yêu đến mọi người khắp nơi trên thế giới. Sự ấm áp chan chứa ân tình luôn có sức thu hút cảm hóa lòng người mạnh mẽ, với bất kỳ ai không phân biệt tuổi tác, tôn giáo, giới tính, nó vượt qua khỏi biên giới quốc gia đến với bạn bè khắp nơi trên thế giới .


Tài năng phi phàm đạo đức sáng ngời vì vậy Bác đã trở thành nhân vật nổi tiếng tầm cỡ Quốc tế, chính điều đó đã gây nên sự tò mò to lớn ? Tại sao Bác không vợ không con ?! Ngày 26/10  trả lời câu hỏi cuối cùng của nhà báo nước ngoài. “Tôi không nhà, không cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là gia đình tôi, Phụ lão là thân thích của tôi, phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi”… “Tôi chỉ có ham muốn làm cho Tổ quốc tôi độc lập, thống nhất, dân chủ, bao giờ đạt được mục đích tôi trở về làm một người nông dân , du sơn ngoạn thủy đọc sách làm vườn". 


Bác không màng danh lợi, mơ ước của Bác là cho nước nhà độc lập, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc”. Trong  cuộc Cách Mạng giải phóng dân tộc Bác đã  vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn Cách Mạng Việt Nam. Bác là kết tinh văn hóa nhân loại, Bác là tấm gương đạo đức sáng ngời về lối sống và tư tưởng Cách Mạng. Chính tư tưởng phẩm chất cao đẹp của Bác đã truyền lại sức mạnh  và niềm tin to lớn cho nhân dân Việt Nam, tư tưởng đao đức của Bác mãi mãi là tấm gương sáng ngời để chúng con học tập và noi theo ./.



 

MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÀNH VÀ GIỮ CHÍNH QUYỀN THEO 
QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN

V.I.Lênin đã kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-Ghen trong điều kiện vận dụng vào Cách mạng tháng Mười Nga. Đó là trước Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã chuẩn bị những tiền đề lý luận về vấn đề bảo vệ thành quả của cách mạng vô sản từ sớm, từ xa, từ khi cách mạng tháng Mười Nga chưa diễn ra, trong đó khẳng định, sau khi giành được thắng lợi, giai cấp vô sản và nhân dân lao động phải luôn củng cố, tăng cường sức mạnh vũ trang để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Người chỉ rõ: “Không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hòa thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để bảo vệ lấy mình[1]. Quan điểm này được hình thành từ sớm, từ xa và được xây dựng ngay cả khi Cách mạng nước Nga chưa diễn ra và được hoàn chỉnh khi Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, với thực tiễn của cuộc nội chiến cùng với đó là sự câu kết với 14 nước đế quốc, các thế lực tư sản và phản động trong nước thực hiện âm mưu can thiệp, gây chiến tranh xâm lược hòng thủ tiêu thành quả cách mạng, xóa bỏ nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Người chỉ rõ: “Kể từ ngày 25 tháng Mười 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ nước Cộng hòa Xô-viết, với tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”[2].Trước tình hình đó đặt ra yêu cầu cần kíp và tất yếu khách quan đối với Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô-viết: phải sẵn sàng chuẩn bị về mọi mặt để đánh bại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền Xô-viết non trẻ và chế độ Xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn cách mạng tháng Mười Nga, V.I.Lê-nin đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn phức tạp hơn nhiều” và “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ, nhưng không phải cách mạng có thể biết ngay được cách bảo vệ [3]. Vấn đề này không chỉ diễn ra ở nước Nga, cũng không chỉ trong thời kỳ cách mạng vô sản mà đã trở thành một quy luật phổ biến của quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Luận điểm được chỉ ra từ sớm, từ xa khi mà phong trào cách mạng vô sản mới chỉ diễn ra ở một nước, đó là nước Nga, mà đó đã trở thành kim chỉ nam của giai cấp vô sản ở các nước và trên toàn thế giới phải lấy đó là nguyên tắc, là chân lý ngay cả trước khi tiến hành cách mạng và ngay cả khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền cách mạng về tay mình./.



[1], V.I.Lê-nin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Matxcơva Tr165-166
[2], V.I.Lê-nin (1978), Toàn tập tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.Tr.102.
[3] V.I.Lê-nin (2005), Toàn tập,  tập 37, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, Tr.145.

 BÀI HỌC TỪ THIẾU SỰ BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG CÔNG XÃ PARI 1871 VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI                                           CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Cho đến giữa Thế kỷ XIX, Chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đạt được những thành tựu lớn ở các nước Tây Âu, đặc biệt tại các nước Anh, Pháp. Sự phát triển đó, một mặt tạo ra được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công sang nền sản xuất đại công nghiệp đồng thời còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.

Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo ra những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trung tâm của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Mâu thuẫn đó được bộc lộ thông qua những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Quá trình đấu tranh đó, cách mạng vô sản đã được soi sáng bằng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác, đồng thời thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản đã không ngừng bổ sung cho lý luận chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, tại thời điểm đó giai cấp công nhân chưa giành được chính quyền, chưa có Tổ quốc nên các vấn đề liên quan về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; vai trò của quần chúng nhân dân trong giành và giữ chính quyền; xây dựng liên minh và bảo vệ liên minh của giai cấp vô sản; đặc biệt là về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa… Trong điều kiện xã hội ở phương Tây, dân tộc với tính cách là một cộng đồng xã hội - bộ tộc người và chỉ được hình thành cùng với sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa tư bản, khi CNTB đại diện cho các giai cấp và tầng lớp của dân tộc tư sản để đi áp bức, nô dịch các dân tộc khác. Qua thực tiễn của Công xã Paris (28/3/1871) C. Mác đã có những quan niệm đầu tiên về bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăng-Ghen đã minh chứng: “Một Pari lao động, suy nghĩ, chiến đấu, đổ máu nhưng rạng rỡ trong niềm tự hào hứng, sáng tạo lịch sử mà hớn hở mải mê xây dựng xã hội mới, hầu như quên mất bọn ăn thịt người đang ở ngay của ngõ của mình”[1].

Theo đó, ngày nay trước những biến động của tình hình thế giới, các thế lực thù địch không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam, thành quả đổi mới của toàn thể nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cho nên chúng ta phải luôn luôn nêu cao cảnh giác, kiên quyết đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn kẻ thù để bảo vệ và phát triển thành quả đã đạt được./.



[1] C.Mác và Ph.Ăng-Ghen (1995), Toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. Tr.437.

 

SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NHẬN THỨC
BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
 

Xuyên suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, ông cha ta luôn thể hiện rõ tinh thần chú động, tích cực bảo vệ Tổ quốc. Để giữ vững nền độc lập tự chủ của đất nước, các triều đại phong kiến Việt Nam đã thực hiện nhiều kế sách như “tiên phát chế nhân", "khoan thư sức dân”, “ngụ binh ư nông”, “tĩnh vì dân, động vi binh".. đồng thời, chăm lo xây dựng quân đội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân. Đó là cơ sở quan trọng để dân tộc Việt Nam viết lên những trang sử hào hùng với những chiến thắng như Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Ngọc Hồi-Đống Đa.

Trong thời đại Hồ Chí Minh, kế sách BVTQ tử xa tiếp tục được kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và triệt tiêu các nguy cơ, nhân tố bất lợi nhằm BVTQ từ sớm, từ xa là quan điểm thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về quốc phòng, an ninh, BVTQ trong tình hình mới. Kế thừa những kinh nghiệm, truyền thống quý báu của dân tộc và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn lịch sử, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát triển lý luận BVTQ, đặc biệt là quan điểm BVTQ “từ sớm, từ xa”. Trên cơ sở đó, chủ động, tích cực xây dựng, củng cố sức mạnh tổng hợp của quốc gia; chủ động ngăn ngừ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kị thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; giữ nước ngay từ thời bình phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới. Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu lớn, song cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, sự trỗi dậy của nghĩa dân tộc cực đoan; xung đột cục bộ tiếp tục diễn biến phức tạp trong  bức tranh của đời sống chính trị thế giới; cuộc chiến giữa Nga và Ukraina vẫn chưa có hồi kết và khó dự báo. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang phát triển mạnh mẽ, trực tiếp tác động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong đó có quốc phòng, an ninh. Kinh tế toàn cầu có dấu hiệu suy giảm, kinh tế nước ta tiếp tục phát triển, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng; chưa bao giờ Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tin quốc tế như ngày nay. Nhưng cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức, nhiều vấn đề đặt ra cần nhận thức và giải quyết. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động trong và ngoài nước tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa", thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, công an. Các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đan xen. Vì vậy, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa là yêu cầu cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Petrovietnam - 48 năm phát triển cùng đất nước

 Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) được thành lập với sứ mệnh góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và là trụ đỡ kinh tế trong xây dựng, phát triển đất nước. Sau 48 năm xây dựng và trưởng thành (3-9-1975 / 3-9-2023), Petrovietnam đã có những bước phát triển vượt bậc, toàn diện cả về quy mô và chiều sâu, hoàn chỉnh đồng bộ từ khâu tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí đến công nghiệp khí, lọc hóa dầu, điện và năng lượng tái tạo, dịch vụ kỹ thuật dầu khí chất lượng cao.

Hiện thực hóa mong ước về một ngành dầu khí vững mạnh

Năm 1975 là năm trọng đại trong lịch sử ngành dầu khí Việt Nam, khi Đảng, Chính phủ quyết tâm hiện thực hóa mong ước của Bác Hồ với cuộc trường chinh đi tìm lửa trong lòng đất mà cả dân tộc trông đợi để phát triển kinh tế đất nước. Ngay sau khi thống nhất đất nước, ngày 3-9-1975, Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam (tiền thân của Petrovietnam) được thành lập trực thuộc Hội đồng Chính phủ theo Quyết định số 170/CP của Hội đồng Chính phủ.

Năm 1986 cũng là năm ngành dầu khí đánh dấu mốc son cho sự đổi thay khi mỏ dầu Bạch Hổ tại thềm lục địa Việt Nam đã cho ra đời những tấn dầu thô thương mại đầu tiên. Sự kiện này không chỉ có giá trị ghi danh Việt Nam vào danh sách các nước sản xuất dầu khí thế giới mà quan trọng hơn, sự kiện này được xem như một trụ đỡ về tinh thần và cả vật chất đối với đất nước trong giai đoạn khó khăn.

Đồng hành với đất nước trong công cuộc đổi mới, ngành dầu khí Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng lượng, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ, đóng góp cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Qua đó góp phần đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng và kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình trên thế giới. Hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ở thềm lục địa cũng đã góp phần quan trọng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.

Qua gần nửa thế kỷ, Petrovietnam đã đi từ “không” đến “có”, làm chủ được công nghệ, khoa học tiên tiến nhất, xây dựng được hệ thống công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ. Tính từ năm 1986 đến hết năm 2022, tổng doanh thu của Petrovietnam đạt hơn 400 tỷ USD. Trong giai đoạn 2006-2015, Petrovietnam đóng góp trung bình 20-25% tổng thu ngân sách Nhà nước, 18-25% GDP cả nước. Từ năm 2015 đến nay, trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động khó lường và mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, Petrovietnam vẫn đóng góp khoảng 10% tổng thu ngân sách nhà nước (trong đó từ dầu thô là 5-6%), 10-13% GDP cả nước.

Trong dòng chảy của lịch sử, sẽ không thể tránh khỏi thăng trầm và Petrovietnam cũng không phải ngoại lệ. Từ năm 2019 đến nay là thời kỳ Petrovietnam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong lịch sử phát triển của ngành dầu khí. Công nghiệp dầu khí thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng khiến giá dầu giảm xuống mức thấp kéo dài, cá biệt có thời điểm giá dầu xuống mức âm (-37USD/thùng) vào cuối năm 2019.

Tình hình Biển Đông phức tạp, chiến tranh thương mại, biến đổi khí hậu, khủng hoảng do đại dịch Covid-19 đã tác động trực tiếp đến mọi mặt hoạt động của Petrovietnam. Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về dầu khí, các chính sách hỗ trợ ngành dầu khí bắt đầu bộc lộ nhiều bất cập, thiếu thống nhất...

Mặc dù vậy, với tinh thần cầu thị, bản lĩnh kiên cường, đoàn kết và ý chí vượt qua khó khăn, cán bộ, công nhân viên, người lao động dầu khí đã luôn nỗ lực không ngừng, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Năm 2020, Petrovietnam vững vàng vượt qua khủng hoảng kép do dịch bệnh và giá dầu giảm sâu. Năm 2021, phục hồi tăng trưởng.

Nhờ áp dụng linh hoạt nhiều giải pháp sản xuất kinh doanh và quản trị rủi ro, năm 2022, Petrovietnam đã đạt kỷ lục khi cán mốc doanh thu hơn 930 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 170,6 nghìn tỷ đồng, bằng 9,6% tổng thu ngân sách nhà nước. Năm 2022 cũng là năm thứ ba công tác “quản trị biến động” của Petrovietnam đạt được thành tích ấn tượng. Đây là yếu tố quan trọng, quyết định toàn diện đến kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. 

Nỗ lực phát triển trở thành Tập đoàn công nghiệp năng lượng quốc gia

Sau 48 năm kể từ khi thành lập, Petrovietnam đã trở thành một tập đoàn kinh tế lớn mạnh có tổng tài sản hợp nhất gần 43 tỷ USD, nguồn vốn chủ sở hữu hợp nhất 22,5 tỷ USD. Giai đoạn 2016-2022, tổng tài sản tăng 3,9%, với đội ngũ hơn 50.000 cán bộ, công nhân viên đang lao động sáng tạo trên các lĩnh vực của chuỗi giá trị dầu khí; đóng góp quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực; đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, ban lãnh đạo Petrovietnam đã sớm đề ra định hướng phát triển lĩnh vực năng lượng tái tạo trong chiến lược phát triển dài hạn. Petrovietnam đã và đang từng bước chuẩn bị nguồn lực, xác định mô hình đầu tư, sẵn sàng tạo đà cho việc mở rộng sang lĩnh vực năng lượng tái tạo một cách phù hợp, hiệu quả, trên cơ sở tận dụng thế mạnh của Petrovietnam và các đơn vị thành viên, kết hợp với chiến lược phát triển ngành dầu khí.

Lãnh đạo Petrovietnam luôn tâm niệm, trong giai đoạn mới, cách tri ân tốt nhất với lớp người đi trước chính là phải kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dầu khí, không ngừng bồi đắp, gìn giữ giá trị cốt lõi “Khát vọng-trí tuệ-chuyên nghiệp-nghĩa tình”, để ngọn lửa nhiệt huyết luôn rực cháy trong trái tim mỗi người lao động dầu khí, cống hiến hết mình, làm tròn trách nhiệm phát triển chuỗi giá trị năng lượng làm giàu cho Tổ quốc.

Nói về mục tiêu phát triển trong tương lai của Petrovietnam, đồng chí Lê Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Petrovietnam cho biết, vượt qua mọi khó khăn, Petrovietnam thực hiện thành công các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó, xác định được mục tiêu và giá trị cốt lõi để xây dựng, phát triển Petrovietnam trong tương lai. Đó là xây dựng và phát triển Petrovietnam thành tập đoàn công nghiệp năng lượng hàng đầu đất nước, khu vực; có vị trí và vai trò nòng cốt trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

 

Việt Nam-Indonesia sớm đưa thương mại song phương vượt 15 tỷ USD

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 43 và các hội nghị liên quan tại Jakarta từ 4 đến 7-9 hứa hẹn nhiều cơ hội hợp tác, sớm đưa thương mại song phương vượt 15 tỷ USD và theo hướng cân bằng.

Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1955 đến nay, quan hệ Việt Nam – Indonesia vẫn luôn phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Indonesia là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực; trong đó, hợp tác kinh tế đang có những bước tiến lớn. Hơn nữa, hai nước đều là những thành viên tích cực trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), luôn hợp tác để đóng góp cho sự phát triển của Cộng đồng Kinh tế ASEAN. 

Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 43 và các hội nghị liên quan tại Jakarta từ 4 đến 7-9 hứa hẹn nhiều cơ hội hợp tác, sớm đưa thương mại song phương vượt 15 tỷ USD và theo hướng cân bằng. 

Thị trường nhiều dư địa

Vụ Thị trường châu Á- châu Phi (Bộ Công Thương) cho biết: Quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam – Indonesia thời gian qua ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ. Việt Nam và Indonesia đều là hai nền kinh tế có nhiều tiềm lực, đang trỗi dậy, đang phát triển nhanh chóng. 

Indonesia là nền kinh tế lớn thứ 16 trên thế giới, lớn thứ nhất trong ASEAN và cũng là thị trường lớn nhất ASEAN với hơn 270 triệu người tiêu dùng; trong đó, tầng lớp trung lưu có quy mô ngày càng tăng. 

Hơn nữa, đây cũng là thị trường còn nhiều dư địa cho sản phẩm hàng hóa của Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng đang là thị trường có nhiều tiềm năng để Indonesia thúc đẩy hợp tác cả về thương mại và đầu tư.

Theo Vụ Thị trường châu Á - châu Phi, kim ngạch thương mại giữa hai nước cũng ghi nhận sự tăng trưởng tích cực. Nếu như năm 2013, kim ngạch thương mại song phương chỉ đạt 4,8 tỷ USD nhưng sau 10 năm, kim ngạch đã tăng gần 3 lần, đạt 14,1 tỷ USD vào năm 2022.

Tính riêng 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch thương mại song phương đã đạt hơn 4,2 tỷ USD; trong đó, xuất khẩu sang Indonesia đạt 1,6 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2022. Dự kiến, năm 2023 kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Indonesia có thể đạt hoặc vượt mức 15 tỷ USD.

Tại khu vực Đông Nam Á, Indonesia hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Indonesia tại Đông Nam Á.

Đáng lưu ý, Việt Nam là nhà cung cấp có uy tín, chất lượng nhiều sản phẩm cho thị trường Indonesia như gạo, cà phê, cao su, thủy sản, hàng dệt may, giày dép, điện thoại di động và linh kiện, sắt thép, vật liệu xây dựng, sản phẩm nhựa...

Mặt khác, nhiều mặt hàng thế mạnh của Indonesia như than đá, linh kiện phụ tùng ô tô, dầu cọ, chất dẻo nguyên liệu, thức ăn gia súc và nguyên liệu, hóa chất, kim loại thường… cũng được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, nhập khẩu để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh hợp tác song phương, hai nước cũng đã có sự phối hợp chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau trong các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị Thượng đỉnh hợp tác Á-Âu (ASEM), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)...

Ông Phạm Thế Cường - Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Indonesia cho biết: Chỉ trong 4 tháng năm 2023 xuất khẩu gạo sang thị trường Indonesia thu về 149 triệu USD, tăng đột biến 2.514% so với cùng kỳ năm 2022. Bên cạnh việc nhập khẩu gạo, Indonesia còn là thị trường rất tiềm năng cho doanh nghiệp xuất khẩu thực phẩm Việt Nam khai thác.

Với 275 triệu người, Indonesia có dân số đông thứ 4 thế giới, đồng thời là nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á, nhập khẩu lương thực và thực phẩm, đồ uống chiếm 6,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của quốc gia này, tương ứng 16 tỷ USD.

Thực phẩm và đồ uống nhập khẩu của Indonesia tập trung vào nhóm sản phẩm từ sữa, đạt kim ngạch 1,2 tỷ USD, đồ uống có đường 120 triệu USD, bánh kẹo 75 triệu USD, ngũ cốc 541 triệu USD, nhóm rau củ quả chế biến đạt 222 triệu USD.

Theo ông Phạm Thế Cường, nhóm hàng hiện đang xuất khẩu, một số nhóm hàng Việt Nam có thể mở rộng xuất khẩu sang Indonesia như phở, bún, mỳ ăn liền, sủi cảo, há cảo đông lạnh nhân thủy sản, thịt bò.

Về hoa quả đóng hộp có vải, nhãn, Indonesia không có lợi thế so sánh nhóm hàng này trong khi chưa mở cửa với quả vải và nhãn tươi của Việt Nam. Ngoài ra, còn có sữa và sản phẩm từ sữa, mật ong, cà phê uống liền, nước chanh leo.

Chủ động tiếp cận

Để thuận lợi trong xúc tiến quảng bá sản phẩm, ông Phạm Thế Cường cho hay: Với đa số dân số theo đạo Hồi, Indonesia là thị trường có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm có chứng chỉ Halal lớn nhất thế giới. Do vậy, doanh nghiệp xuất khẩu nên chủ động tìm hiểu và xin chứng nhận Halal của Indonesia.

"Chứng nhận Halal luôn là câu hỏi đầu tiên của bất cứ nhà nhập khẩu, phân phối nào của Indonesia khi có sản phẩm thực phẩm, đồ uống muốn tiếp cận thị trường này", ông Phạm Thế Cường cho biết.

Nhằm đồng hành cùng doanh nghiệp, Thương vụ Việt Nam tại Indonesia sẽ tổ chức gian hàng tại một số hội chợ lớn tổ chức ở nước sở tại; thường xuyên tổ chức toạ đàm kết nối giao thương online đến nhà nhập khẩu lớn của Indonesia.

Trong năm 2023, Thương vụ cũng tổ chức phiên tư vấn giới thiệu về quy định Halal của Indonesia để giúp doanh nghiệp xuất khẩu có thêm thông tin về chứng nhận này nói riêng, thị trường Indonesia nói chung.

Bên cạnh việc doanh nghiệp chủ động tham gia xúc tiến thương mại, tìm kiếm đối tác, mở rộng xuất khẩu sang Indonesia nhưng cần lưu ý biện pháp phòng vệ thương mại tại quốc gia này.

Mặt khác, để thúc đẩy hạ nguồn chế biến chuyên sâu, gia tăng giá trị sản phẩm, Indonesia dự kiến cấm xuất khẩu 21 nhóm hàng dưới dạng thô chưa qua chế biến từ nay đến năm 2040. Trước mắt, cấm xuất khẩu bauxite thô từ tháng 6-2023, tiếp đó là mặt hàng đồng và thiếc.

Trong danh mục 21 nhóm hàng dự kiến đưa vào nhóm hàng cấm xuất khẩu có một số nhóm hàng liên quan ảnh hưởng đến Việt Nam trên thị trường như: Than, tôm, thủy sản, cua, rong biển, gỗ xẻ…

"Ngoại trừ bauxite đã có thông báo chính thức cấm xuất khẩu dưới dạng thô, các sản phẩm còn lại đang được Chính phủ Indonesia xây dựng lộ trình cấm xuất khẩu nên doanh nghiệp cần theo dõi sát sao", tham tán Phạm Thế Cường nhấn mạnh.

Bên lề Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 55 (AEM 55), Bộ trưởng Bộ Thương mại Indonesia Zulkifli Hasan chia sẻ, Indonesia luôn nhìn nhận Việt Nam là một trong những đối tác kinh tế, thương mại quan trọng của Indonsia trong khu vực Đông Nam Á. 

Để quan hệ thương mại giữa hai nước tiếp tục phát triển, Bộ trưởng Hassan đề nghị Việt Nam xem xét, sớm nối lại hoạt động trao đổi đoàn, nhất là cơ chế hợp tác, diễn đàn thường niên giữa Bộ Thương mại Indonesia và Bộ Công Thương Việt Nam đã bị tạm ngừng từ nhiều năm nay.

Hơn nữa, Việt Nam có nhiều doanh nghiệp lớn, có kinh nghiệm về nuôi trồng, sản xuất, xuất khẩu thủy sản, hoạt động trong lĩnh vực ngư nghiệp và Indonesia mong muốn học hỏi kinh nghiệm.

Ngoài ra, hiện nay có rất nhiều hãng sản xuất ô tô lớn của nước ngoài gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… đã và đang đầu tư và sản xuất xe điện tại Indonesia. Tuy nhiên, Indonesia được biết đã có một số doanh nghiệp Việt Nam mở nhà máy sản xuất ô tô tại Hoa Kỳ. Do đó, Indonesia mong muốn và kêu gọi doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, đầu tư, hợp tác với doanh nghiệp Indonesia phát triển ngành công nghiệp ô tô điện.

Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên hoan nghênh đề xuất của Bộ trưởng Hassan về việc sớm nối lại cơ chế hợp tác, trao đổi thông tin, diễn đàn thường niên giữa hai Bộ, vốn đã bị gián đoạn trong 2 năm gần đây do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Đây là hoạt động cần thiết để hai bên có thể kịp thời chia sẻ, cập nhật tình hình hợp tác và tháo gỡ vướng mắc phát sinh, tồn đọng trong quan hệ hợp tác thương mại.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị Bộ trưởng Hasan trao đổi, vận động doanh nghiệp thủy sản của Indonesia tham dự hoạt động hội chợ, xúc tiến thương mại, diễn đàn doanh nghiệp tổ chức tại Việt Nam để kết nối cộng đồng doanh nghiệp hai nước.

Về hợp tác trong ngành công nghiệp ô tô điện, Việt Nam được biết Indonesia có nguồn tài nguyên niken rất dồi dào, còn Việt Nam là một trong những quốc gia sở hữu nguồn tài nguyên đất hiếm lớn nhất trên thế giới. Dựa trên những tiềm năng và tiềm lực sẵn có của mỗi nước, Việt Nam và Indonesia cùng nhau hợp tác, phát triển ngành công nghiệp ô tô điện tại khu vực trong thời gian tới.

Để quan hệ hợp tác thương mại giữa hai nước tiếp tục phát triển, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề xuất Indonesia tạo điều kiện cho Việt Nam nhập khẩu ổn định than và dầu cọ thô để đảm bảo an ninh năng lượng và sự ổn định cho ngành sản xuất trong nước; xem xét ngừng ban hành, áp dụng biện pháp bảo hộ, rào cản thương mại với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam luôn đối xử công bằng và tạo điều kiện cho doanh nghiệp Indonesia kinh doanh tại Việt Nam.

Nhằm duy trì đà tăng trưởng thương mại, Bộ Công Thương cho rằng: Việt Nam- Indonesia cần tận dụng những cơ hội mới, hoàn thiện khung khổ pháp lý, phát huy hiệu quả hoạt động của Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật giữa hai nước.

Cùng đó, hạn chế áp dụng rào cản thương mại, tạo thuận lợi cho dòng chảy thương mại và đầu tư giữa, hỗ trợ doanh nghiệp triển khai hợp tác kinh doanh, xúc tiến thương mại tại mỗi nước. 

Ngoài ra, hai nước cần nghiên cứu, tìm kiếm cơ hội hợp tác trong lĩnh vực mới như chuyển đổi số, năng lượng sạch, tận dụng cơ hội mà Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư mang lại.

 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải

 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 780/CĐ-TTg về việc tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất, nỗ lực đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải.

Công điện nêu rõ, thời gian qua, Chính phủ, Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải và các đồng chí Lãnh đạo Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo tháo gỡ khó khăn vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các công trình giao thông trọng điểm, đặc biệt là các dự án đường bộ cao tốc.

Các chủ đầu tư, nhà thầu xây lắp, nhà thầu tư vấn đã tích cực làm việc liên tục "3 ca, 4 kíp", nhiều công trình thi công cả trong các ngày lễ, tết; nhờ đó đến nay cả nước đã có 1.832km đường bộ cao tốc đang khai thác và đang tích cực triển khai xây dựng các đoạn còn lại trên tuyến cao tốc Bắc-Nam phía đông; các tuyến đường vành đai Vùng Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các tuyến đường bộ cao tốc kết nối khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Trong kỳ nghỉ lễ kỷ niệm 78 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 vừa qua, trên các công trình giao thông trọng điểm, cán bộ, công nhân viên và người lao động nhiều nơi vẫn hăng say lao động, “vượt nắng, thắng mưa, tháo gỡ khó khăn", làm việc xuyên lễ, xuyên tết, trong đó đã kịp thời đưa vào thông xe khai thác một số đoạn tuyến quan trọng; khởi công thêm một số dự án lớn về hàng không.

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ghi nhận, đánh giá cao và biểu dương các bộ, ngành, địa phương, các lực lượng tham gia thi công, tư vấn đã nỗ lực, quyết tâm để đưa các công trình về đích đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng.

Để tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất, kịp thời khắc phục mọi khó khăn, vướng mắc, phấn đấu mục tiêu đến năm 2025 có khoảng 3.000km đường bộ cao tốc và đến năm 2030 có 5.000km đường bộ cao tốc như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:

Về tiến độ thi công các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải: Bộ Giao thông vận tải, các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp tục thực hiện quyết liệt, có hiệu quả các chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải và Lãnh đạo Chính phủ; chỉ đạo các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền địa phương nỗ lực hơn nữa, tập trung tháo gỡ khó khăn, xử lý tồn tại trong công tác giải phóng mặt bằng, di chuyển các công trình hạ tầng kỹ thuật, tháo gỡ vướng mắc liên quan đến khai thác, cung ứng vật liệu xây dựng; tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng các công trình, dự án theo đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng; rà soát kết nối đồng bộ với các tuyến đường bộ cao tốc nhằm phát huy hiệu quả đầu tư, khai thác quỹ đất, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội các vùng, địa phương và cả nước.

 

Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Thể hiện tính biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã được luận giải khá rõ trong lời tựa của cuốn sách mà Ban Biên tập đã khái quát.

Ý nghĩa của cuốn sách được nhấn mạnh, làm rõ hơn trong phát biểu khai mạc của Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong Lễ giới thiệu cuốn sách này, cùng với sự đánh giá rất cao của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các tướng lĩnh, sĩ quan cấp cao… cả trong và ngoài Quân đội ngay sau khi cuốn sách được phát hành.

Hiện thực hóa đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng

Thượng tá, Tiến sĩ Hà Sơn Thái, Chủ nhiệm Bộ môn Nguyên lý Chủ nghĩa xã hội khoa học, Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng bày tỏ: "Với tư cách là người giảng dạy và nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học, tôi còn tìm thấy ý nghĩa ở cuốn sách này cùng với cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” được xuất bản cách đây hơn 2 năm và cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” xuất bản đầu năm 2023 thể hiện tính cân đối, hoàn bị trong hệ thống quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về hai nhiệm vụ chiến lược, trọng yếu và có mối quan hệ biện chứng: giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - một trong mười mối quan hệ lớn được Đảng ta xác định từ Văn kiện Đại hội XI và tái khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII.

Đặc biệt, cuốn sách được xuất bản trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực còn có nhiều diễn biến mới phức tạp, khó đoán định, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới đang bị thách thức nghiêm trọng; cũng là thời điểm Trung ương chuẩn bị tổng kết 10 năm thực hiện Hội nghị Trung ương 8, khóa XI (Nghị quyết số 28-NQ/TW) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là trong điều kiện: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”... lại càng có ý nghĩa đặc biệt hơn trong việc hóa giải những vấn đề thách thức, cấp bách trước mắt và cả giải quyết các vấn đề chiến lược, lâu dài trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói riêng và thúc đẩy hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới nói chung.

"Tôi đánh giá rất cao tư tưởng chỉ đạo đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng thông qua các bài viết, bài phỏng vấn, bài nói của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thể hiện tư duy biện chứng, tầm nhìn chiến lược về quân sự, quốc phòng của người đứng đầu Đảng ta từ việc xác định mục tiêu, quan điểm, chủ thể và lực lượng, phương châm, nội dung… đến việc hiện thực hóa đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng", Thượng tá, Tiến sĩ Hà Sơn Thái nói.

Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu

Thượng tá, Tiến sĩ Hà Sơn Thái khẳng định, một mặt, cuốn sách này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận nhất quán, xuyên suốt của người đứng đầu Đảng ta về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Mặt khác, cuốn sách có giá trị toàn diện đối với toàn bộ hoạt động xây dựng và triển khai đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cả trước mắt, lẫn lâu dài nói chung, đối với xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị thời kỳ mới nói riêng.

Với tư cách vừa là người giảng dạy, vừa là người nghiên cứu ở Học viện Chính trị - Trung tâm giảng dạy, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự hàng đầu của quân đội và quốc gia, Thượng tá, Tiến sĩ Hà Sơn Thái nhấn mạnh, những bài nói, bài viết trong cuốn sách này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về vấn đề xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.

Điều này thể hiện rất rõ trong Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bí thư Quân ủy Trung ương tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, ngày 28-9-2020: “Đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: “Quân sự mà không có chính trị thì như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”. Vì vậy, cần hết sức chú trọng thường xuyên tăng cường giáo dục về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về truyền thống, văn hóa dân tộc, bản chất giai cấp của Quân đội; về đối tượng, đối tác trong tình hình mới, bảo đảm trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội cũng luôn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; có ý chí, quyết tâm cao, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ”.

Theo đó, đây chính là “cẩm nang” để toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính, trước hết là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quán triệt và triển khai xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Bởi vì, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị là một nguyên tắc cơ bản, vấn đề xuyên suốt, tạo tiền đề để quân đội tiến lên chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo đảm cho quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Cuốn sách có giá trị nhiều mặt mà bất cứ quân chủng, binh chủng, học viện, nhà trường trong Quân đội cũng có thể quán triệt và vận dụng sáng tạo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Thượng tá, Tiến sĩ Hà Sơn Thái cho biết: "Đối với Học viện Chính trị lại càng có giá trị hơn, bởi tên cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của Tổng Bí thư là cũng là vấn đề rất lớn được Học viện dày công nghiên cứu, giảng dạy có hệ thống ngay từ khi ra đời cho đến nay. Đặc biệt, tư duy mới, tư tưởng chỉ đạo mới của Tổng Bí thư trong Cuốn sách này ngay khi mới xuất bản đã được Đảng ủy, Ban giám đốc Học viện chỉ đạo quán triệt và vận dụng ngay trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong toàn Học viện".

Thượng tá, Tiến sĩ Hà Sơn Thái nhắc lại lưu bút của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương ghi trong Sổ Vàng truyền thống của Học viện Chính trị ngày 22-10-2011 khi đến thăm và làm việc tại Học viện nhân kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống (25-10-1951/25-10-2011) và đón nhận Huân chương Sao Vàng: “Chúc các đồng chí tiếp tục lập nhiều thành tích to lớn xuất sắc hơn nữa, xây dựng Học viện ngày càng xứng đáng với vị thế là trung tâm hàng đầu về đào tạo cán bộ chính trị và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn của Quân đội và Quốc gia”.

 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tới Indonesia, bắt đầu chuyến công tác dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43

Sau gần 4 giờ bay, vào lúc 10 giờ 30 phút (giờ địa phương) ngày 4-9, chuyên cơ chở Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam đã tới Sân bay Quốc tế Soekarno – Hatta ở thủ đô Jakarta của Indonesia, bắt đầu tham dự các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 và hoạt động liên quan.

Tại sân bay Soekarno – Hatta, dưới trời dịu nắng, đón Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam có Bộ trưởng Du lịch và Kinh tế Sáng tạo Indonesia Sandiaga Uno; Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao Indonesia; Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Indonesia Tạ Văn Thông; Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại ASEAN Nguyễn Hải Bằng; cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Indonesia và Phái đoàn Việt Nam tại ASEAN.

Dự kiến tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43, các nước sẽ đánh giá tình hình triển khai Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 và các kế hoạch tổng thể trên ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội; định hướng chiến lược phát triển của ASEAN trong 20 năm tới, hướng tới Cộng đồng ASEAN đoàn kết, tự cường, sáng tạo, năng động và lấy người dân làm trung tâm; kiểm điểm và thảo luận phương hướng, biện pháp tăng cường, làm sâu sắc quan hệ giữa ASEAN với các đối tác; đồng thời trao đổi về tình hình khu vực và thế giới.

ASEAN sẽ thông qua và ghi nhận nhiều văn kiện quan trọng như: Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2045, Tuyên bố Hòa hợp ASEAN IV, Tuyên bố ASEAN là Tâm điểm của Tăng trưởng…; các văn kiện về những lĩnh vực hợp tác cụ thể trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác trong lĩnh vực an ninh lương thực, kinh tế số, kinh tế biển xanh, nông nghiệp, hệ sinh thái xe điện, phát triển gia đình và bình đẳng giới, giáo dục mầm non, hòa nhập cho người khuyết tật...

 

Tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 và các hội nghị, hoạt động liên quan, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ chia sẻ quan điểm của Việt Nam, đề xuất các sáng kiến, định hướng trong nhiều lĩnh vực hợp tác quan trọng nhằm hiện thực hóa chủ đề “ASEAN Tầm vóc: Tâm điểm tăng trưởng”, củng cố tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh, có vai trò và vị thế ngày càng quan trọng ở khu vực và trên thế giới, đáp ứng kỳ vọng và mang lại lợi ích thiết thực cho người dân.