Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023

THEN CHỐT PHẢI CHẶT


Ngày 2-9 năm nay nước ta kỷ niệm tròn 78 năm nước nhà độc lập. Cách mạng Tháng Tám thành công đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đưa chính quyền lại cho nhân dân, xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thắng lợi và hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta ngày nay có cơ đồ tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng cao. Thành tựu vĩ đại đó đạt được là do tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí kiên cường và lòng quả cảm, tinh thần quyết tâm, tự lực, tự cường, khát vọng mãnh liệt vì độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, cán bộ giữ vai trò then chốt của then chốt.
Chỉ với khoảng 5.000 cán bộ, đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân cả nước nhất tề đứng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi. Các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, dù chúng mạnh đến đâu do Đảng ta với những cán bộ tài năng, cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm đều giành thắng lợi. Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng giành được trong những năm qua đều có sự đóng góp quyết định bởi những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Không có đội ngũ cán bộ như vậy, liệu có giữ vững được vai trò tiên phong dẫn dắt của Đảng? liệu có giữ gìn, phát huy được thành quả cách mạng trong giai đoạn cách mạng mới?
Tuy nhiên, những năm gần đây, then chốt đã không còn được chặt chẽ như trước đây. Vì sao vậy? Chính là bởi trong Đảng xuất hiện một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân. Những đại án được đưa ra xét xử gần đây cho thấy mức độ vi phạm của cán bộ lãnh đạo, quản lý rất nghiêm trọng.
Nhận thức nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng, chế độ, thành quả cách mạng, với quyết tâm chính trị cao, Đảng ta quyết liệt tạo đột phá trong xây dựng Đảng - trước hết về công tác cán bộ, tạo bước ngoặt chống “giặc nội xâm”, xiết chặt then chốt của then chốt. Xác định chính quyền lực làm tha hoá cán bộ khi họ không đủ bản lĩnh vượt qua mọi cám dỗ, ngày 11-7-2023, BCH Trung ương ban hành Quy định 114-QĐ/TW năm 2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ thay thế Quy định 205-QĐ-TW năm 2019. Quy định 114 có nhiều khả năng đưa lại hiệu quả tích cực, siết chặt hơn then chốt là bởi có nhiều điểm mới, cụ thể hơn, rõ ràng hơn:
Quy định 114 đã mở rộng phạm vi hơn so với Quy định 205 đó là: Quy định về hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; trách nhiệm kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ và xử lý vi phạm.
Với Quy định 114, đối tượng áp dụng được bổ sung là “tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm và có liên quan trong công tác cán bộ", xác định rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong công tác cán bộ khác với khi Quy định 205 đối tượng áp dụng chỉ là là “tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác cán bộ” . Quy định số 114 dành hẳn 1 chương (Chương II) với 3 điều (Điều 3, Điều 4, Điều 5) để giải thích, làm rõ các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Điều 3, Quy định số 114 nêu 8 hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong công tác cán bộ. Các hành vi cơ bản kế thừa một số hành vi bao che, tiếp tay chạy chức, chạy quyền được quy định tại Điều 11, Quy định 205. Quy định 114 bổ sung một số hành vi mới đó là: lồng ghép ý đồ cá nhân khi thực hiện các khâu trong công tác cán bộ vì động cơ, mục đích vụ lợi hoặc có lợi cho nhân sự trong quá trình thực hiện công tác cán bộ; chỉ đạo, tham mưu các khâu trong công tác cán bộ theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Quy định này đối với nhân sự không đủ điều kiện, tiêu chuẩn; không đúng nguyên tắc, quy định, quy trình, quy chế, quyết định; khi nhận được đơn, thư phản ánh, tố cáo hoặc biết nhân sự có hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ nhưng thỏa hiệp, dung túng, bao che, không xử lý theo thẩm quyền, xử lý không đúng quy định hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý.
Kế thừa Quy định 205 về hành vi chạy chức, chạy quyền, Quy định 114 bổ sung thêm các hành vi: chạy tuổi, thâm niên công tác, danh hiệu thi đua, khen thưởng, bằng cấp, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, chỉ định, điều động, luân chuyển, biệt phái, phong, thăng quân hàm… nhằm mục đích đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có được chức vụ, quyền lợi.
Quy định 114 bổ sung thêm một số hành vi tiêu cực khác như: thiếu trách nhiệm hoặc vì động cơ cá nhân làm thất lạc, mất hồ sơ cán bộ thuộc thẩm quyền xử lý; làm giả, làm sai lệch hồ sơ, tài liệu để được xem xét, thực hiện quy định, quy trình, quy chế, quyết định về công tác cán bộ; báo cáo, lập hồ sơ, kê khai lý lịch đảng viên, lý lịch cán bộ, nhất là lịch sử bản thân và gia đình không đầy đủ, không trung thực; trực tiếp, thông qua người khác, lợi dụng phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội đưa thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng xấu đến công tác cán bộ…
Quy định 114 được bổ sung, sửa đổi theo hướng tăng cường phòng ngừa, kiểm soát lợi dụng, lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ... Đặc biệt, Khoản 5, Điều 6, hoàn toàn mới, quyết liệt hơn khi khi quy định không bố trí người có quan hệ gia đình đồng thời đảm nhiệm các chức danh có liên quan gồm: “Thành viên trong cùng ban thường vụ cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn; tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu trong cùng địa phương, cơ quan, đơn vị. Người đứng đầu cấp ủy đảng hoặc người đứng đầu cơ quan hành chính và người đứng đầu các cơ quan: Nội vụ, thanh tra, tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, công thương, kế hoạch đầu tư, tài nguyên môi trường, quân đội, công an, toà án, viện kiểm sát ở Trung ương hoặc cùng cấp ở một địa phương”.
Để giữ vững và phát huy thành quả Cách mạnh Tháng Tám, giữ vững nền độc lập dân tộc, Đảng cần có lực lượng cán bộ đủ đức, tài, thực hiện xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Bộ Chính trị ban hành Quy định 114 với nhiều điểm mới, bổ sung so với Quy định 205 chẳng những tạo nên sự thống nhất với các quy định về công tác cán bộ hiện nay mà còn là bước tiến mới nhằm xiết chặt hơn công tác cán bộ - then chốt của then chốt./.#NB

ĐÓ LÀ LẼ PHẢI KHÔNG AI CÓ THỂ CHỐI CÃI ĐƯỢC!


Bác đã đi xa, nhưng lời Bác vẫn “ấm từng tiếng thấm vào lòng non nước”. Đặc biệt, khi ta nghe giọng Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945, thì lòng ta như trào lên niềm tự hào về nền độc lập, tự do của dân tộc. Và cũng tự hào nước ta có Bác Hồ Chí Minh!
Nghe tiếng Bác mà tưởng như “tiếng của ngàn xưa vọng nói về”! Tiếng nói của "... nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”! Tiếng nói của một dân tộc “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ", "không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tiếng nói của chân lý, của ý chí độc lập tự cường không sức mạnh nào lay chuyển được. Bởi “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Chân lý ấy được định trên sách trời! Với mọi người trên trái đất này thì quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Quyền ấy không phân biệt màu da, sắc tộc, không phân chia ở phương Đông hay ở phương Tây, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu. Quyền ấy như Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 từng khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Chân lý ấy được định bởi “tạo hóa”, có nghĩa là ai cũng có quyền được hưởng! Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng được Bác dẫn đọc một cách rõ ràng: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”! “Người ta” ở đây có nghĩa là tất cả mọi người đều có quyền như vậy. Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, Bác khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập: “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được!”.
Câu khẳng định của Bác rất Việt Nam. Bác không dùng ngôn từ theo lối phương Tây thường dùng như chân lý, công lý. Bác dùng từ thuần Việt lẽ phải, bởi văn hóa Việt Nam có câu “Nói phải củ cải cũng nghe”! Khẳng định bằng lối nghĩ và ngôn từ thuần Việt để rồi chuyển đoạn, hạ một tiếng “Thế mà” để vạch tội thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
Với lập luận sắc bén và cách diễn đạt tinh tế, khúc chiết, Bác khẳng định lẽ phải thuộc về dân tộc Việt Nam: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của thực dân Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc ấy phải được tự do, dân tộc ấy phải được độc lập!”. Điều đó là một lẽ đương nhiên, hợp với quy luật sinh tồn của mọi dân tộc, hợp với đạo lý và nhân nghĩa, hợp với xu thế phát triển của thời đại văn minh! Đó là nền tảng vững chắc để Bác khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy!”. Tuyên bố đanh thép thể hiện ý chí sắt đá của dân tộc Việt Nam, nguyện vọng nghìn đời của một dân tộc yêu hòa bình, nhưng cũng sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do dân tộc, quyết không chịu khuất phục kẻ thù xâm lược dù chúng mạnh đến đâu, thâm hiểm đến nhường nào. Đó là lịch sử, đó là truyền thống của một dân tộc anh hùng.
Sự thật là cả thế giới chứng kiến, nền độc lập, tự do của dân tộc ta trải qua biết bao thử thách cam go, có những lúc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính sự thật đó là minh chứng hùng hồn về sức mạnh vô địch của ý chí độc lập, tự do dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 đi vào lịch sử hiện đại như một chân lý không chỉ của Việt Nam mà là của cả loài người về xu thế chấm dứt chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay, một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do và giàu mạnh không chỉ là mơ ước của chúng ta mà còn là một sự thật được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ, vui mừng. Nó góp phần tích cực cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Quan điểm chọn lẽ phải của Việt Nam trong tình hình các nước lớn đang có nhiều toan tính, tình hình thế giới còn căng thẳng khó lường là sự kế thừa có tính nhất quán từ ngày thành lập nước đã được công bố trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945. Hiểu cái giá của hòa bình, bằng bài học của chính mình, Việt Nam luôn mong muốn thế giới hòa bình, phát triển bền vững. Và sự thật là Việt Nam đã và đang là bạn của các quốc gia dân tộc trên toàn thế giới, là đối tác đáng tin cậy của hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trong cộng đồng quốc tế vì một thế giới hòa bình, thịnh vượng.
Giọng Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập còn vang vọng mãi đến hôm nay!
ST

NGUY HẠI CỦA SỰ DỐI TRÁ


Dối trá là một thói xấu nhưng vẫn có ở nhiều người, trong cả cán bộ, đảng viên, gây ra những hậu quả khó lường. Người dối trá cố tình cung cấp thông tin sai sự thật, dẫn đến nhìn nhận, đánh giá không đúng sự việc, vấn đề, con người và nghiêm trọng hơn là sự dối trá gây bức xúc, mất đoàn kết nội bộ, niềm tin, kìm hãm sự phát triển của cá nhân, tập thể và đất nước... Đấu tranh, ngăn chặn thói dối trá là việc rất cần thiết để phòng, chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay.
Nguy cơ phá vỡ tổ chức từ bên trong
Dối trá được hiểu là những cử chỉ, hành vi, lời nói, việc làm trái ngược với sự trung thực của cá nhân, tập thể. Đó là hành vi đưa ra nhiều thông tin thiếu chính xác, sai sự thật, khiến cá nhân, tập thể nhận thông tin đưa ra các quyết định có lợi cho một người hoặc một nhóm người cung cấp thông tin. Dối trá trong xã hội là nguyên nhân căn cốt khiến các chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức công vụ và cao hơn nữa là đạo đức chính trị và văn hóa chính trị bị ảnh hưởng, tổn thương ở các mức độ khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, dối trá chính là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng mất niềm tin ở nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Khi nghiên cứu nội hàm của 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra, nhận thấy các biểu hiện ấy đều có bóng dáng nương náu của dối trá. Ví dụ gần đây nhất về hiện tượng dối trá trong cán bộ cơ sở gây bức xúc dư luận là trường hợp ông Lương Văn Thuận, Chủ tịch MTTQ xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu (Nghệ An). Ông này thừa nhận đã tự ký danh sách 15 hộ nghèo nhận tiền quà Tết Nguyên đán Tân Sửu (năm 2021) để hợp thức hóa hồ sơ nộp lên huyện. Dư luận cho rằng, đó là hành vi dối trá, vi phạm pháp luật nhằm chiếm đoạt số tiền 7,5 triệu đồng của người nghèo.
Dối trá xuất hiện ở nhiều cá nhân, tập thể, cơ quan, đơn vị, địa phương thông qua những lĩnh vực hoạt động khác nhau. Nhiều cán bộ mua bằng, mua học vị để được đề bạt, bổ nhiệm, lên lương thay vì trau dồi đạo đức, năng lực công tác vốn rất tốn công, nhọc sức và mất thời gian. Dối trá thể hiện trong xin cấp ngân sách lớn hơn nhu cầu thực tế để sau đó làm hợp đồng khống, hợp thức bằng hóa đơn, chứng từ để giải ngân. Hoặc có hiện tượng thanh toán vượt giá thị trường, chi sai mục đích...
Hiện tượng dối trá trong các cơ quan, đơn vị, địa phương đã gây ra nhiều hệ lụy, là trở ngại lớn cho xây dựng Đảng và bộ máy Nhà nước; làm nhân dân hiểu sai lệch bản chất tốt đẹp của Đảng và chế độ; làm băng hoại đạo đức xã hội và các giá trị truyền thống; gây khó khăn trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tác động xấu đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm của nhân dân và là cái cớ để các thế lực thù địch xuyên tạc sự thật, kích động chống phá sự nghiệp cách mạng.
Dối trá cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”, là “bà đỡ” cho nịnh hót, bợ đỡ trong cơ quan, đơn vị, địa phương, có nguy cơ nhấn chìm động cơ phấn đấu của những người trung thực; phá vỡ tổ chức đảng từ bên trong...
Diệt trừ dối trá, cần giải pháp đồng bộ
Có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau sinh ra dối trá. Theo các chuyên gia, nguyên nhân sâu xa và phổ biến nhất là do con người ham muốn lợi ích bằng mọi giá đã sinh ra dối trá. Do công tác kiểm tra, giám sát qua loa, đại khái, hình thức và chiếu lệ cũng khiến dối trá không bị hạn chế mà còn có cơ hội lây lan. Bên cạnh đó, việc một số nơi tổ chức nhiều hoạt động thi đua hình thức và bệnh thành tích cũng là tác nhân sinh ra dối trá. Vì thành tích mà có hiện tượng che giấu khuyết điểm, "làm láo báo cáo hay", "có ít suýt ra nhiều".
Để diệt trừ thói dối trá, nhất là trong hệ thống chính trị và cơ quan công quyền hiện nay cần phải tổ chức, duy trì nghiêm nền nếp sinh hoạt Đảng của các cơ quan, đơn vị, địa phương theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và tự phê bình, phê bình mạnh mẽ, triệt để. Cấp ủy, chi bộ cần xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh.
Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc”(1). Người xem đây là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên nói riêng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, góp phần tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Bởi theo Người, khi đã tổ chức sinh hoạt Đảng chất lượng, hiệu quả thì mọi dối trá của cán bộ, đảng viên sẽ bị phơi bày ra ánh sáng, sẽ không có những việc làm khuất tất vụ lợi, không có hiện tượng dễ làm khó bỏ, đấu đá, chọn vị trí công tác nhiều lợi ích... Để làm được điều này thì các tổ chức đảng cần tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đồng thời có biện pháp cụ thể về đổi mới hình thức, nội dung sinh hoạt Đảng định kỳ và chuyên đề, không ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, coi trọng kiểm tra đột xuất thay vì kiểm tra báo trước và kiểm tra trên giấy, trên báo cáo và "nhúng" qua thực tiễn. Thực tế cho thấy, hiện tượng dối trá trong nội bộ đã làm cho Đảng bị "bịt mắt”. Tổ chức đảng cấp trên không thấy được thực tế đòi hỏi của nhân dân, không thấy được những “chướng tai gai mắt” trong nội bộ cấp dưới nên dễ dẫn đến thỏa hiệp và vô tình bảo vệ “con sâu, con mọt” thay vì bảo vệ cán bộ có tâm, có tầm và có trí, thủ tiêu động lực phấn đấu của các cán bộ, đảng viên chân chính.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các biện pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò nêu gương “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” trong thực thi công vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, người chủ trì, quản lý cơ quan, đơn vị, địa phương. Hiện nay có một thực tế là, nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa cụ thể hóa nghị quyết vào trong thực tiễn nhiệm vụ lãnh đạo. Phổ biến là hiện tượng xây dựng quy chế lãnh đạo một đằng nhưng thực hiện một nẻo; thậm chí có hiện tượng copy quy chế lãnh đạo cốt để báo cáo. Việc này khiến công tác lãnh đạo không tập trung, sót việc nên dễ nảy sinh tiêu cực.
Các cơ quan chức năng cần nghiên cứu và tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ có biện pháp quyết liệt trong tổ chức phân phối ngân sách, nhiệm vụ và kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách hằng năm hoặc ngân sách đầu tư công. Thường ngân sách bao giờ cũng đi kèm với nhiệm vụ. Có nhiệm vụ thì có ngân sách và ngược lại. Thế nên không lạ khi các cơ quan, đơn vị, địa phương đua nhau xin nhiệm vụ, xin ngân sách. Đây chính là căn nguyên để hình thành cơ chế “xin-cho” tồn tại dai dẳng trong hệ thống chính trị và các cơ quan công quyền.
Một số quốc gia có cách làm rất hiệu quả để ngăn chặn sự dối trá nhằm trục lợi. Theo đó, các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân muốn được sử dụng ngân sách hoặc được nhận tài trợ để làm một dự án do chính phủ duyệt thì phải hội tụ những điều kiện cứng và mềm về công tác quản lý và điều hành, bảo đảm không thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Thế nên, để ngân sách đến đúng đích và được sử dụng triệt để, mang lại hiệu quả thiết thực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội thì cần có quá trình thẩm tra, kiểm tra, giám sát xem có đủ điều kiện mới giải ngân. Đây chính là cách phân phối công bằng, ngăn ngừa tham nhũng và thúc đẩy cách lãnh đạo, điều hành và quản lý chuyên nghiệp, văn minh, cần được nghiên cứu thấu đáo và ứng dụng trong thực tiễn nước ta.
Nếu trung thực được đề cao thì dối trá khó có đất để tồn tại, phát triển. Khi trung thực của cán bộ, đảng viên bị dối trá lấn át thì sẽ dẫn đến tình trạng né tránh sự thật. Đây là căn nguyên khiến sinh hoạt của tổ chức đảng rơi vào hình thức, mất sức chiến đấu, khiến nguy cơ “tự diễn biến, tự chuyển hóa” ngày càng có xu hướng nặng nề hơn. Tôn trọng sự thật khách quan và dựa trên sự thật để tìm biện pháp xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh là cách tốt nhất diệt trừ tệ dối trá hiệu quả. Việc này chỉ thực hiện được khi cán bộ chủ trì và đứng đầu tổ chức đảng tận tâm, quyết liệt.
ST

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 04/9


“Mong cán bộ ta cẩn thận từng lời nói, từng việc làm, thật thà “ba cùng”, làm đúng chính sách, để giành lấy kết quả tốt hơn trong công tác phát động quần chúng”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài viết “Những kinh nghiệm cần phải tránh trong công tác phát động quần chúng”, đăng trên Báo Nhân dân, số 221, từ ngày 04 đến ngày 06 tháng 9 năm 1954, bút danh “C.B”. Đây là thời điểm miền Nam đang tiến hành đấu tranh chính trị, giữ gìn, phát triển lực lượng, chuẩn bị cho cao trào cách mạng mới; miền Bắc đang trong thời kỳ khôi phục, cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn thận trọng trong từng lời nói, việc làm, đặc biệt là phải luôn thật thà, khiêm tốn, thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm huy động sức mạnh đông đảo của quần chúng cùng hướng vào thực hiện mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng. Lời kêu gọi trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trở thành phương hướng hành động, mục tiêu phấn đấu, rèn luyện của cán bộ, đảng viên mà còn tạo được niềm tin trong quần chúng nhân dân, động viên, cổ vũ nhân dân thi đua lao động, sản xuất, kháng chiến thắng lợi.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi tình hình thế giới, khu vực, trong nước diễn biến phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp, nhanh chóng đến mọi mặt đời sống xã hội, càng nhận thấy giá trị sâu sắc lời căn dặn của Bác năm xưa; đặc biệt, nó đã trở thành định hướng quan trọng để đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác dân vận hiện nay phải vươn lên để lãnh trách nhiệm trước Đảng, trước dân, khắc phục mọi khó khăn, yếu kém, nhạy bén, tham mưu giải quyết một cách kịp thời, có hiệu quả những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, góp phần thiết thực vào việc củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để cho mọi người ai cũng phải làm dân vận, ai cũng biết làm dân vận và ai cũng được làm dân vận, chứ không phải là công việc riêng cán bộ chuyên trách.
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, trong suốt hành trình hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin yêu, giúp đỡ, đã chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do của Tổ quốc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, được nhân dân tin tưởng, yêu mến trao tặng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, hằng năm có hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ quân đội tham gia làm công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, nơi phức tạp về an ninh, chính trị, dân tộc, tôn giáo; các Đoàn kinh tế - quốc phòng đã tích cực giúp đỡ nhân dân chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng nông thôn mới, tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, giữ gìn an ninh chính trị… theo đúng phương châm “Nghe dân nói, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin” được cấp uỷ, chính quyền, nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, tiếp tục giữ vững và phát huy tốt truyền thống tốt đẹp “đến dân mừng, đi dân nhớ, ở dân thương”.
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'TƯ TƯỞNG Há CHÍ MINH MÃI MÃI SOI SÁNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM'

QUYẾT TỬ ĐỂ TỔ QUỐC QUYẾT SINH


Tọa lạc giữa trung tâm Thủ đô, nằm bên bờ hồ Gươm, cạnh đền Bà Kiệu và cổng đền Ngọc Sơn, tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh hay tượng đài Quyết tử là địa danh ghi dấu nhiều ký ức của người dân Hà Nội.
Dạo quanh khu vực bờ hồ, chiều nào cũng đông chật người lớn, trẻ em đến đây vui chơi, nhất là vào mỗi dịp cuối tuần, khi những tuyến phố quanh Hồ Gươm trở thành không gian phố đi bộ với nhiều hoạt động vui chơi, giải trí dành cho người dân và du khách.
Được cố nghệ sĩ Kim Giao sáng tác năm 1984, công trình thể hiện hình ảnh 3 nhân vật: Ở giữa là người chiến sĩ Vệ quốc đoàn (Vệ quốc quân) cầm bom ba càng, hai bên là cô gái mặc áo dài cầm gươm và anh công nhân ngồi cầm súng. Ba hình tượng đều được thể hiện với tính chiến đấu cao, là đại diện cho 3 lực lượng tham gia cuộc toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội vào cuối năm 1946 - đầu năm 1947.
Trong cuộc chiến ấy, Vệ quốc đoàn là lực lượng chủ chốt, đối đầu trực tiếp với quân Pháp trong những trận đánh ác liệt. Hình tượng người lính Vệ quốc đoàn được thể hiện với dáng đứng hiên ngang, vững chãi. Bàn tay trái của anh nắm chặt đầy quyết tâm, còn tay phải cầm bom ba càng - biểu tượng của tinh thần cảm tử trong những ngày toàn quốc kháng chiến. Công nhân là lực lượng sản xuất chính ở Hà Nội thời điểm sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, họ lại trở thành những chiến binh đầy quả cảm.
Riêng giới trí thức, trong đó có rất nhiều phụ nữ, là tầng lớp tinh hoa của Hà Nội sau cách mạng. Nghe theo lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, họ xếp sách vở để dấn thân vào công cuộc cứu nước. Phía dưới 3 hình tượng này là bệ tượng đài được thể hiện như một khối thép nung đầy góc cạnh, như tinh thần yêu nước không thể nào lay chuyển của người Hà Nội trong những ngày toàn quốc kháng chiến.
Và khẩu hiệu “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” là lời trích từ bức thư động viên mà Bác Hồ gửi cho các chiến sĩ Vệ quốc đoàn ở Hà Nội những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Tượng đài Quyết tử là công trình mang tính tượng trưng cao, thể hiện tinh thần bất khuất, ý chí dũng cảm của quân và dân Thủ đô trong những tháng ngày hào hùng của cuộc kháng chiến toàn quốc.
Giữa cuộc sống hiện đại, Hà Nội đang thay đổi từng ngày với hình ảnh đông vui, nhộn nhịp. Đâu đó, những bước chân chậm rãi, thư thái, nụ cười, câu chuyện của nhiều thế hệ diễn ra ở một góc phố của Thủ đô khiến ai đi qua cũng phải dừng lại. Cũng trong nhịp sống hối hả ấy, những người con của Thủ đô luôn dành những khoảng lặng để nhớ về một thời đấu tranh hào hùng của dân tộc./.
ST
Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh thể hiện hình ảnh 3 nhân vật: Ở giữa là người chiến sĩ Vệ quốc đoàn cầm bom ba càng, hai bên là cô gái mặc áo dài cầm gươm và anh công nhân ngồi cầm súng.
Có thể là hình ảnh về tượng đài và văn bản

GIỮ MÃI PHẨM CHẤT ANH HÙNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG: LÀM ANH HÙNG KHÓ LẮM, GIỮ ĐƯỢC ANH HÙNG CÒN KHÓ HƠN

 

Cách nhà Anh hùng LLVT nhân dân Hồ Đức Vai khoảng nửa km là nhà Anh hùng Hồ Kan Lịch, nữ Anh hùng LLVT nhân dân đầu tiên của đồng bào dân tộc Pa Kô. Điều đặc biệt là bà Kan Lịch là cháu ruột của Anh hùng Hồ Đức Vai và cũng là chị ruột của Anh hùng LLVT Hồ A Nun.
Hạnh phúc 7 lần được gặp Bác Hồ
Trước khi gặp Anh hùng Hồ Kan Lịch, chúng tôi được biết bà là nguyên mẫu trong ca khúc “Người con gái Pa Kô” của nhạc sĩ Trí Thanh:
“…Tuổi thanh xuân sáng ngời dũng sĩ,
Giữa nguy nan vững lòng bền chí.
Ơi, như cành hoa sim Kan Lịch ơi,
Thắm tươi rừng núi, không quản gì no đói,
Trong lửa khói giữ bao niềm tin (ế, ê, ế ê) cho mọi người...”.
Vậy nên, chúng tôi đến nhà bà trong tâm trạng háo hức. Nhà Anh hùng Kan Lịch nằm ngay bên con đường Hồ Chí Minh. Chúng tôi nghe nói, đoạn đường Hồ Chí Minh đi qua thị trấn A Lưới được xây dựng trên chính nền đường 1B cũ - con đường từng đã in dấu chân của đồng bào dân tộc Pa Kô tham gia làm Đường 559 trong chiến tranh.
Trong căn nhà khang trang của bà Kan Lịch, bàn thờ Bác Hồ được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Bà Kan Lịch cho biết, Tết nào bà cũng làm cơm cúng Bác, mời Bác về ăn Tết với gia đình. Với Kan Lịch, Bác Hồ như một người thân trong gia đình vậy.
So với chú Hồ Vai, Kan Lịch có may mắn được gặp Bác Hồ nhiều hơn. Năm 1967, sau những trận đánh lẫy lừng, nổi bật là việc Kan Lịch là người trực tiếp bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng trường (đây cũng là chiếc máy bay đầu tiên bị bắn rơi ở phía tây Thừa Thiên Huế), Hồ Kan Lịch vinh dự được Bác Hồ phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân, trở thành nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc Pa Kô. Lúc ấy Hồ Kan Lịch vừa tròn 25 tuổi.
Trung tuần tháng 5 - 1968, Hồ Kan Lịch được tổ chức đưa ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Gặp Bác, Bác khen Kan Lịch là người con gái dũng cảm, có lòng dạ kiên trung khiến người con của dân tộc Pa Kô vui không tả xiết.
Sau lần đầu tiên gặp Bác, Hồ Kan Lịch còn vinh dự có thêm 6 lần nữa được gặp Người, trong đó có nhiều lần được Bác mời cơm. Bà kể: Sau khi ra Hà Nội, khi tôi về Bác gửi 160 chiếc đồng hồ nữ Liên Xô làm quà cho chị em. Còn riêng tôi, Bác tháo chiếc đồng hồ đang đeo ở tay ra tặng và nói: “Cháu Kan Lịch à, đồng hồ này là nước ngoài tặng Bác, giờ Bác tặng lại cho cháu". Tiếc là, chiếc đồng hồ của Bác sau này bị thất lạc, không tìm thấy.
Ngoài ra, Bác còn tặng tôi một chiếc đài bán dẫn. Bác nói: “Cái đài này nước ngoài tặng cho Bác. Anh hùng cũng nhiều nhưng các đồng chí ý là người Kinh, còn cháu là nữ anh hùng dân tộc Pa Kô đầu tiên nên Bác tặng cho cháu để nghe tin tức trong miền Nam”. Giờ tôi đã bàn giao chiếc đài bán dẫn cho Bảo tàng Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế, nhờ họ trưng bày, gìn giữ”.
Đảng viên phải gương mẫu đi đầu
Trong những lần gặp Bác Hồ, Người dặn dò nhiều điều nhưng bà Kan Lịch nhớ mãi một câu Bác nói: “Làm Anh hùng khó lắm, nhưng giữ được Anh hùng khó hơn. Cháu phải cố gắng làm tốt mọi công việc của mình để phát huy tác dụng của một nữ anh hùng, đừng thỏa mãn và dừng tại chỗ”.
Khắc ghi lời Bác dạy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Hồ Kan Lịch luôn nỗ lực để không chỉ trở thành một cán bộ tốt, người vợ đảm đang, tháo vát, người mẹ, người bà tốt mà còn sống chan hòa, luôn giúp đỡ người dân trong vùng mỗi khi họ gặp khó khăn.
“Ngày còn nhỏ, thấy địch sát hại đồng bào, lòng căm thù giặc sôi sục, từ đó tôi không sợ chết, chỉ muốn đi đánh giặc… Năm lên 19 tuổi, tôi đã là Huyện đội phó. Được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao nhiệm vụ, tôi chỉ đạo chị em ở 3 xã xây dựng lực lượng du kích để vừa tham gia chiến đấu, vừa sản xuất. Đội du kích Hồng Bắc có 160 chị em, đều là đoàn viên, đảng viên, có nhiều người hơn tuổi tôi, có người đã lập gia đình. Phụ nữ Pa Kô rất gan dạ, dũng cảm, đoàn kết, luôn giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Tuy nhiên, để chị em làm theo, là người lãnh đạo, mình phải gương mẫu đi đầu. Tôi nói và tôi làm trước, khó khăn tôi đi đầu. Nếu nói mà không làm, chị em không tin. Ví dụ khi tấn công đồn địch, tôi cầm súng đi trước, chị em nối bước theo sau”, bà Kan Lịch chia sẻ.
Nói về thành tích của mình, Anh hùng Kan Lịch cho biết, bà đã chỉ huy đánh 49 trận lớn nhỏ, bắn rơi 1 máy bay, bắt sống 2 giặc Mỹ và tiêu diệt 150 tên địch.
Sau này đất nước hòa bình, Kan Lịch về công tác tại Ban chỉ huy quân sự huyện A Lưới cho đến khi được Đảng, Nhà nước, Quân đội cho nghỉ hưu. Trở về cuộc sống đời thường, bà lại vận động bà con bản làng lên nương rẫy. Vẫn phương châm “đảng viên đi trước”, bà Kan Lịch luôn làm người đi đầu trong mọi công việc.
Giải nghĩa cho tất cả sự dũng cảm, thậm chí hy sinh tính mạng trong chiến tranh và sự tận tụy, hết lòng với bà con trong thời bình, Anh hùng LLVT Nhân dân Hồ Kan Lịch chỉ một câu rất đơn giản: “Mình là đảng viên, được Đảng và Nhà nước tin cậy, thì dù có hy sinh cũng quyết chiến đấu và làm việc đến cùng”.
Giờ đây, Anh hùng LLVT nhân dân Hồ Kan Lịch nay đã 80 tuổi và sống vui vầy, hạnh phúc cùng gia đình. Hằng ngày luôn có hai cháu gái ở bên cạnh bà, giúp bà mọi việc trong nhà, đôi khi trở thành “phiên dịch viên” tiếng dân tộc sang tiếng Kinh nếu như bà chưa nghe rõ câu hỏi của người đối diện.
Và niềm vui lớn nhất của bà đó là được nhìn thấy đất nước hòa bình, phát triển. “Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đồng bào dân tộc, trong đó có người dân Pa Kô. Ngày nay, đời sống người dân ấm no hơn trước, có của ăn của để, có đường sá đi lại. Nhiều người được đi học đại học, trở thành bác sĩ, kỹ sư,.. Tôi rất mừng vì điều đó”, Anh hùng Kan Lịch nói./.
Báo QĐND

HÌNH THỨC DÂN VẬN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY


Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, góp phần củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đặt công tác dân vận ở tầm chiến lược, đồng thời coi trọng các hình thức triển khai công tác dân vận thiết thực, cụ thể để tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết của toàn dân tộc. Nghiên cứu về các hình thức dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa rất thiết thực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác vận động quần chúng. Theo Người “Trong bầu trời, không gì quý bằng nhân dân”, dân là quý nhất, quan trọng nhất vì dân là gốc của nước, sức mạnh của quần chúng nhân dân sẽ được tăng lên gấp nhiều lần khi được tập hợp và cùng hướng tới một mục tiêu nhất định. Muốn vậy, Đảng cần phải làm thật tốt công tác dân vận, vì “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Công tác dân vận phải thông qua các hình thức cụ thể và thiết thực để vận động, thuyết phục, tổ chức Nhân dân, làm sao cho họ hiểu, đi theo cách mạng, tích cực và sẵn sàng xả thân vì nhiệm vụ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng để công tác dân vận đạt hiệu quả cao phải có các hình thức tiến hành vừa phong phú, vừa thiết thực để tập hợp được tất cả lực lượng của toàn thể Nhân dân. Trong đó, Đảng vừa phải tiến hành tốt các hình thức tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ Nhân dân nhưng cũng phải tổ chức có hiệu quả các công tác trong thực tế để hướng dẫn, kiểm tra, giúp đỡ nhân dân, thông qua các tổ chức và phong trào cách mạng để tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh của toàn dân vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng. Cụ thể là:
Thứ nhất, tuyên truyền vận động giác ngộ, thuyết phục nhân dân.
Khi đưa ra quan niệm: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại. Muốn thành công, phải biết cách tuyên truyền”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, để vận động được Nhân dân phải sử dụng đa dạng các hình thức tuyên truyền. Tuy nhiên, Nhân dân có nhiều tầng lớp và nghề nghiệp, trình độ, năng lực cũng không giống nhau nên nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích cũng khác nhau. Trong tuyên truyền, giác ngộ và vận động Nhân dân cần phải xem xét trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, nguyện vọng thiết thực của họ: “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng”. Nếu công tác tuyên truyền, giác ngộ, vận động Nhân dân chỉ làm theo ý muốn chủ quan, rồi đem cột cho họ, thì chẳng khác nào “khoét chân cho vừa giầy”.
Sự đa dạng của tầng lớp dân cư, vùng miền, sự khác nhau về trình độ nhận thức, về giác ngộ cách mạng là yếu tố quyết định việc không thể chỉ sử dụng một hình thức tuyên truyền cho mọi đối tượng. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải nắm chắc đặc điểm của đối tượng tuyên truyền để quyết định sử dụng hình thức tuyên truyền phù hợp nhất. Thực tế cho thấy, Người đã căn cứ vào điều kiện cụ thể để vận dụng một cách linh hoạt, như sử dụng báo chí, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị, viết sách, viết kịch, viết báo, tổ chức các buổi nói chuyện, xem phim... Bằng các hình thức đa dạng đó, Người đã truyền bá được chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến với Nhân dân, làm cho Nhân dân tin tưởng và hăng hái đi theo cách mạng.
Thứ hai, tập hợp quần chúng nhân dân vào các tổ chức cụ thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ, để huy động cao độ tiềm năng, lực lượng của quần chúng nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước thì phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ về lợi ích của tất cả các thành phần trong xã hội, phải làm cho các bộ phận cư dân trong xã hội sắp xếp theo một hướng nhất định. Vì vậy, phải đưa Nhân dân vào các tổ chức, các hội, nhóm. Người nói: “Có hội hè rồi trước là có tình thân ái, sau thì khuyên nhau học hành. Chúng ta đã biết “cách mệnh” tinh thần, “cách mệnh” kinh tế, thì “cách mệnh” chính trị cũng không xa”. Người đã xây dựng các hình mẫu về cách thức đoàn kết, tập hợp, tổ chức quần chúng, như thành lập Đảng Cộng sản để lãnh đạo cách mạng; thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất để tập hợp, giáo dục quần chúng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng chính quyền nhân dân để quản lý, điều hành xã hội.
Người yêu cầu đưa quần chúng nhân dân vào trong các tổ chức và đoàn thể cách mạng phù hợp với nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính… qua đó để giáo dục, giác ngộ quần chúng. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ Tám (tháng 5/1941), Người kêu gọi: “Dân ta phải mau mau tổ chức lại. Nông dân phải vào “Nông dân Cứu quốc hội”. Thanh niên phải vào “Thanh niên Cứu quốc hội”. Phụ nữ vào “Phụ nữ Cứu quốc hội”. Trẻ con vào “Nhi đồng Cứu quốc hội”. Công nhân vào “Công nhân Cứu quốc hội”. Binh lính vào “Binh lính Cứu quốc hội”. Các bậc phú hào văn sĩ vào “Việt Nam Cứu quốc hội””. Đồng thời, phải sắp xếp thành hệ thống trình tự các công việc và phụ trách các bước công việc cụ thể, hợp lý, khoa học. Người chỉ rõ: “Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn, không có ngăn nắp”.
Thứ ba, thông qua các hoạt động thực tiễn để tìm hiểu, hướng dẫn và giúp đỡ quần chúng nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, công tác dân vận là một nghệ thuật về tiếp cận và vận động con người nên không chỉ tuyên truyền suông bằng sách báo, mít tinh, khẩu hiệu mà phải bằng hành động cụ thể, thiết thực trong thực tiễn. Do vậy, Người luôn yêu cầu Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động, cùng hòa mình vào cuộc sống hàng ngày của Nhân dân, phải sâu sát cơ sở, am hiểu thực tiễn. Đến với Nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, hướng dẫn Nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách và giúp dân giải quyết các công việc cụ thể, đồng thời đề xuất hoặc điều chỉnh các chính sách cho phù hợp. Người cho rằng những cán bộ “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” thì không thể hiểu được Nhân dân, không thể hướng dẫn, giúp đỡ được Nhân dân và đó là một sai lầm rất to, rất có hại, vì vậy: “Cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn...”. Đối với cán bộ canh nông, phải hợp tác mật thiết với cán bộ địa phương, đi sát dân, thiết thực bày cho dân cách trồng trọt chăn nuôi. Những hội viên các đoàn thể phải xung phong thi đua, làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân hiểu, dân mới làm được. Quá trình thực hiện, các lực lượng phải luôn theo dõi giúp đỡ, kiểm tra nhân dân thực hiện.
Trong thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với Nhân dân để vừa hòa vào dân, động viên phong trào, biểu dương thành tích và cố gắng của Nhân dân, vừa trực tiếp kiểm tra, nghiêm khắc phê bình những khuyết điểm để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân thấy rõ mà sửa chữa, làm cho chất lượng, hiệu quả công việc vì thế mà tốt hơn.
Thứ tư, thông qua “nêu gương” để Nhân dân tin tưởng, noi theo.
“Nêu gương’ là một vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sát. Theo Người, khi làm công tác vận động quần chúng không được dùng mệnh lệnh, áp đặt ý chí, phải biết khích lệ, biểu dương và lắng nghe kinh nghiệm trong dân, học hỏi trí tuệ của dân, bàn bạc cùng Nhân dân thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ, đảng viên phải làm gương cho quần chúng nhân dân, để quần chúng nhân dân noi theo. Một việc làm tốt của cán bộ, đảng viên ở một địa phương, đơn vị chỉ ảnh hưởng, tác động đến địa phương, đơn vị đó, nhưng những cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, có uy tín, có chức vụ thì càng cần phải nêu gương vì họ là những người được nhiều người biết đến, khi họ làm tấm gương thì sẽ có tác dụng khích lệ lớn. Trong tác phẩm “Đời sống mới” (tháng 3/1947), Người viết: “Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích” và cũng luôn nhấn mạnh: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Đặc biệt, đối với cán bộ, đảng viên, Người yêu cầu: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Khi cán bộ, đảng viên nêu gương thì Nhân dân sẽ tự giác làm theo thậm chí không cần nói. Do đó, khi làm công tác dân vận phải làm gương trong mọi công việc để dân tin theo. Người thường dạy bảo: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Nhân dân sẽ mất niềm tin vào những cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đằng làm một nẻo. Vì thế, Người chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Người luôn viết thư khen ngợi, động viên, khuyến khích những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong học tập, lao động, sản xuất, chiến đấu và đề nghị có mục “gương người tốt, việc tốt” trên báo để cổ vũ, động viên, khích lệ mọi người học tập, noi theo.
Thứ năm, thông qua tổ chức các phong trào cách mạng để đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của Nhân dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác dân vận phải tổ chức nhiều phong trào rộng lớn để tập hợp, đoàn kết và phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ, sự sáng tạo của Nhân dân, hướng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Với phương châm: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”, Người chỉ rõ, công tác dân vận phải kịp thời biểu dương, khen thưởng những cá nhân, tập thể có cách làm hay, những giải pháp hiệu quả, thiết thực. Từ đó, nhân rộng ra thành phong trào chung của toàn xã hội.
Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu về công tác dân vận khi vận dụng được tất cả các nhiệm vụ của dân tộc thành các phong trào quần chúng, phong trào của cả nước mà người dân đều được tham gia thi đua vì lợi ích của chính mình, như phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; hũ gạo cứu đói; tuần lễ vàng; phong trào bổ túc văn hóa xóa nạn mù chữ; phong trào đời sống mới; phong trào thi đua ái quốc, phong trào thi đua giết giặc, phong trào trồng cây, phong trào rèn luyện sức khỏe, phong trào thi đua lao động, sản xuất mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt... Đó thực sự là các phong trào thi đua yêu nước được phát triển rộng rãi trên mọi lĩnh vực, đã đoàn kết và động viên được tất cả các lực lượng, trí tuệ, sáng kiến của Nhân dân để thực hiện thành công các nhiệm vụ của cách mạng nước ta.
Bước vào thời kỳ đổi mới, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, các hình thức dân vận của Đảng ta càng được khẳng định đầy đủ hơn cả về lý luận và thực tiễn. Từ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng ta đều bổ sung, cụ thể hóa tư tưởng của Người thành quan điểm, đường lối về công tác dân vận, trong đó có các hình thức dân vận. Tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đã chỉ rõ cần thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nghị quyết cũng nhấn mạnh: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận…”. Đồng thời, cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận phù hợp với nhiệm vụ cách mạng hiện nay nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Từ đây, phong trào quần chúng được khởi phát, làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Công tác dân vận cần làm cho mỗi người dân, nhất là thế hệ trẻ, nhận rõ những thuận lợi và khó khăn, đoàn kết phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn lúc nào hết, hệ thống chính trị và toàn dân ta cần quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động về hình thức dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh, với truyền thống cách mạng của Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sẽ có nhiều hình thức dân vận đa dạng và phong phú góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa sự nghiệp đổi mới của Nhân dân ta giành nhiều thắng lợi mới./.
Tạp chí Tổ chức Nhà nước
Có thể là hình ảnh về 5 người