Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỪ NGÀY 1-7-2025, NGƯỜÌ KHÔNG CÓ LƯƠNG HƯU SẼ ĐƯỢC HƯỞNG TRỢ CẤP THẾ NÀO?
ỐN DANH TƯỚNG VĨ ĐẠI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Xuyên suốt dòng chảy hào hùng của lịch sử dân tộc, đã xuất hiện nhiều anh hùng, hào kiệt tiêu biểu cho nguyên khí quốc gia. Trong số đó có 4 danh tướng, mà công lao, sự nghiệp như trời đất bao la, kết tinh những tinh hoa tốt đẹp của dân tộc; mãi mãi trường tồn cùng non sông gấm vóc Việt Nam, trong mỗi con tim của con Hồng cháu Lạc.
1✅.Người anh hùng dân tộc, danh tướng Lý thường Kiệt
Sinh ra ở Thăng Long (Hà Nội ngày nay), ông là danh tướng kiệt xuất thời nhà Lý, đã để lại cho đời những mốc son chói lọi về sự nghiệp quân sự cũng như những cải cách tiến bộ.
Trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước, ông để lại những trận đánh để đời, làm cho giặc xâm lăng bạt hồn kinh vía. Trận đánh cuối năm 1075, đầu năm 1076, trên đất nhà Tống là trận đánh rất độc đáo. Ông chủ động đánh phủ đầu làm tiêu hao sinh lực quân thù, tiêu hao hậu cần, san phẳng thành lũy…dập tắt ý đồ xâm lược nước ta của nhà Tống, làm nhụt nhuệ khí của bọn cầm quyền phương Bắc. Có được chiến thắng đó nhờ sự sáng suốt của ông là thông qua sự kết hợp giữa quân sự và dân vận làm cho nhân dân hai nước trên biên giới hiểu rõ chính nghĩa của ta là đánh giặc để giữ nước. Nhưng làm nên tên tuổi lẫy lừng của người anh hùng dân tộc vĩ đại chính là chiến thắng giặc Tống trên sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) đầu năm 1077. Đây là một trong những trận đánh hay nhất trong nghệ thuật quân sự hào hùng chống ngoại xâm của cha ông ta. Cái hay ở chỗ ông vừa dụ vừa đánh. Trong đêm ông sai người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát đọc bài thơ “Sông núi nước Nam”, với hồn thơ đanh thép khẳng định chủ quyền quốc gia thiêng liêng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. (Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ chi giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời). Giặc nghe bài thơ trên hồn vía thất lạc giảm nhụt ý chí, và tự động buông vũ khí đầu hàng. Chúng ta chiến thắng mà không bị đổ máu của tướng sĩ, hao tiền của của dân. Bài thơ bất hủ này được xem là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của nước Việt Nam.Tên tuổi và sự nghiệp của danh tướng Lý Thường Kiệt chói sáng mãi trong lịch sử vinh quang của dân tộc. Để ghi nhớ công lao to lớn của ông nhân dân ta đã lập đền thờ ông ở nhiều nơi, với tấm lòng thành kính bậc tiên hiền đã có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
2 ✅. Danh tướng kiệt xuất Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo quê ở Nam Định, là danh tướng vĩ đại của nhà Trần.
Đế chế Nguyên Mông nổi tiếng hưng thịnh và hùng mạnh nhất thế giới, vó ngựa của chúng tung hoành khắp nơi, chinh phạt trời Á sang Âu. Không có nước nào địch nổi đội quân hùng mạnh, thiện chiến của Hốt Tất Liệt. Nhưng cả ba lần (1258, 1285 và 1287), chúng sang xâm lược nước ta là cả ba lần phải nhận đại bại nhục nhã dưới tài chỉ huy của các danh tướng nhà Trần, mà tiêu biểu là Trần Hưng Đạo lừng danh. Chiến thắng giặc Nguyên Mông là đỉnh cao về nghệ thuật quân sự ở nước ta mà chiến lược gia không ai khác đó chính là thiên tài quân sự Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn. Ông dùng kế sách “ vườn không nhà trống”, không để cho giặc lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, kéo dài chiến tranh không có lợi cho ta; xóa bỏ mọi hiềm khích, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, khích lệ tướng sĩ bằng hùng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”. Đây là bản Tuyên ngôn thứ hai thể hiện hào khí chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tướng sĩ nghe lời hịch nấc lòng, thích vào tay hai chữ “Thát sát” (giết giặc Mông Nguyên). Ông xây dựng khối đại đoàn kết trên dưới một lòng, giết giặc giữ nước, trọng dụng nhân tài như Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Yết Kiêu, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản… để làm nên chiến thắng.
Lần đầu tiên trong chế độ phong kiến đã diễn ra “Hội nghị Diên Hồng” nổi tiếng. Ông đã khéo dựa vào sức dân để phát động nghệ thuật chiến tranh nhân dân hợp lực lại để đánh bại chế độ hùng mạnh nhất bấy giờ. Tố chất xuất chúng của ông là biết chọn lựa thời cơ để đánh giặc. Minh chứng hùng hồn là trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1287, ông đã dựa vào quy luật thiên nhiên để đánh thắng giặc, bằng cọc gỗ vát nhọn cắm xuống sông che lấp bằng thủy triều và nhử chúng vào sâu, vào thế trận của ta giăng sẵn rồi nhấn chìm tất cả kẻ thù xuống sông khi thủy triều xuống.
Bằng nghệ thuật quân sự độc đáo này ông đã ba lần đánh bại quân Nguyên Mông xâm lược nước ta – Cáo chung một chế độ khét tiếng, làm sụp đổ một triều đại Hốt Tất Liệt hùng mạnh, mở ra nền độc lập cường thịnh cho dân tộc Việt Nam. Tấm gương của ông là tài sản vô giá, là nguồn cổ vũ động viên to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đời này sang đời khác. Nhân dân ta lập đền thờ ông ở nhiều nơi để tưởng nhớ công lao to lớn của Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn và suy tôn ông là Đức Thánh Trần. Ngày nay ông trở thành vị Thánh thiêng liêng được thờ phụng trên mọi miền đất nước.
3 ✅. Người anh hùng áo vải, danh tướng kiệt xuất Nguyễn Huệ
Ông là một danh tướng vĩ đại – một vị vua anh minh của triều đại Tây Sơn. Nguyễn Huệ là bậc kỳ tài trong thiên hạ, tài năng phát lộ rất sớm, mới ngoài hai mươi tuổi ông đã có công lớn trong việc dẹp hai thế lực hùng mạnh trong nước, Chúa Trịnh Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn Đàng Trong đã gây ra nội chiến triền miên, làm cho nước ta thời bấy giờ suy kiệt. Ông đã thực hiện sứ mệnh thống nhất đất nước mở ra triều đại Tây Sơn.
Ông là nhà quân sự thiên tài sử dụng chiến thuật nước xa cứu lửa gần, bằng những cuộc hành quân thần tốc, đánh đòn chớp nhoáng làm cho quân thù trở tay không kịp. Thiên tài quân sự chói sáng với trận thủy chiến lừng danh Rạch Gầm – Xoài Mút (Tiền Giang) tháng 1/ 1785, chôn vùi 5 vạn quân Xiêm dưới sông sâu. Chiến thắng Kỷ Dậu (đầu năm 1789), đập tan 20 vạn quân Thanh. Đây là chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của vị tướng và cũng là vị vua Hoàng đế 37 tuổi.
Nguyễn Huệ là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong các triều đại vua chúa phong kiến ở nước ta. Trên ngôi vị Hoàng đế ông đã thống nhất sơn hà mà còn mở mang bờ cõi, phát triểnkinh tế, lưu hành tiền mới, chăm lo cuộc sống cho nhân dân… Trọng dụng nhân tài, bang giao với các nước. Nguyễn Huệ đột ngột băng hà khi còn quá trẻ, khi tài năng tiếp tục tỏa sáng. Cũng như sứ mệnh lịch sử nước nhà lúc đó đang cần ông. Một mất mát vô cùng to lớn! Người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ là lãnh tụ nông dân kiệt xuất, là nhà quân sự, chính trị thiên tài, là anh hùng dân tộc vĩ đại trong thế kỷ XVIII. Ông có công lớn trong thống nhất đất nước sau 20 năm bị chia cắt.
Nhân ta đã dựng tượng đài và đền thờ ông khắp nơi trong cả nước. Tại huyện Tây Sơn (Bình Định) đã xây tượng đài và nhà thờ Hoàng đế Quang Trung có quy mô cấp Nhà nước.
4 ✅. Danh tướng kiệt xuất Võ Nguyên Giáp
Ông quê ở Quảng Bình, là một nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự thiên tài, là danh tướng vĩ đại nhất của thế kỷ XX, là nhà văn hóa lớn của thời đại Hồ Chí Minh.
Võ Nguyên Giáp là Tư lệnh chiến trường đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, chấn động địa cầu, kết thúc gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp ở Đông Dương. Chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ trên không 1972, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân về nước vô điều kiện. Đại thắng mùa xuân 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát ở Điện Biên Phủ.
Ông không những là danh tướng vĩ đại nhất của thế kỷ XX, mà còn vĩ đại nhất của mọi thời đại. Tài thao lược và tác chiến của ông toàn diện trên mọi bình diện địa hình đất liền, rừng núi, trên sông, trên không, biển đảo, trên đất bạn (Lào, Campuchia) đều thắng lợi rực rỡ. Ông là một vị tướng làm theo lời dạy của Bác hồ “Kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Đất nước ta luôn ghi nhớ công ơn của ông và nhân dân ta đã suy tôn ông là vị tướng của nhân dân. Hàng ngày từng đoàn người nối dài, với lòng thành kính viếng ông ở nơi an nghỉ, những di tích và địa danh lịch sử gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của ông.
Quang vinh thay những anh hùng dân tộc vĩ đại, những danh tướng kiệt xuất, tên tuổi của các ông mãi mãi trường tồn cùng non sông đất nước. Trong tương lai gần Nhà nước ta sẽ đề nghị UNESCO vinh danh những danh tướng vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam anh hùng./.
ST
Phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài theo tư tưởng của Bác
PHÁT HIỆN, THU HÚT, TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Truyền thống trọng dụng nhân tài của cha ông ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và nâng lên tầm cao mới. Trong điều kiện hiện nay, việc phát hiện, thu hút và trọng dụng người tài cả trong và ngoài Đảng là nhiệm vụ rất quan trọng và phải trở thành “quốc sách”, thành chủ trương, chính sách nhất quán, có hiệu quả cao để tăng cường sức mạnh của đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và nâng tầm việc trọng dụng nhân tài của ông cha ta
Ông cha ta luôn có ý thức tìm kiếm người tài năng phục vụ cho nước nhà. Chiếu cầu hiền năm 1429 của Lê Lợi có ghi: “muốn thịnh trị tất phải được người hiền, được người hiền phải do ở tiến cử. Cho nên, người làm vua phải lấy việc ấy làm đầu”.
Triều vua Lê Thánh Tông cũng lưu truyền lịch sử về ý thức trọng dụng nhân tài, với lời văn bia tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội do Thân Nhân Trung soạn (năm 1484): “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Truyền thống “chăm lo việc gây dựng nhân tài”, “tiến cử người hiền tài”, quý trọng và trọng dụng nhân tài lâu đời của dân tộc ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện vô cùng khó khăn của đất nước sau gần một trăm năm dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Ngay từ trước khi chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc), với đối tượng là những thanh niên ưu tú, rồi sau đó đưa về nước hoạt động tuyên truyền, tổ chức quần chúng, làm hạt nhân cho phong trào cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp đó là vừa tiến hành hai cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ suốt 30 năm, vừa xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc phát hiện, thu hút, tập hợp và trọng dụng nhiều nhân tài, cả trong Đảng và ngoài Đảng.
Ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập, ngày 14-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Đặc biệt, Người đã chỉ thị cho các địa phương trong cả nước phải kịp thời báo cáo cho Chính phủ về người tài ở địa phương mình. Một năm sau, ngày 20-11-1946, Người lại viết: “Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân... muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết... Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”. Đó là việc làm rất cần kíp và thiết thực khi nước nhà vừa mới giành lại được độc lập đang rất thiếu cán bộ, thiếu nhân tài hầu như ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở rằng, trong mọi công việc của đất nước “phải trọng nhân tài”. Điều đặc biệt hơn cả là, Người phải rất tin tưởng nên mới khẳng định rằng, trong dân chúng có “rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gụi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về trọng dụng người tài; và Người đã rất thành công trong việc này. Bên cạnh nhiều bậc trí thức, học giả nổi tiếng, chức sắc tôn giáo đã nhiệt tình tham gia cách mạng; thì ngay cả như quan lại bậc cao của chế độ cũ (các ông Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn...) cũng đã được Bác Hồ cảm hóa và vận động tham gia chính quyền cách mạng. Người đã cảm hóa, lôi cuốn, thuyết phục một số trí thức nổi tiếng cả về tài và đức, học vị cao, lúc bấy giờ đang có mức thu nhập được nhiều người mơ ước, điều kiện làm việc rất tốt, gia đình sống sung túc ở nước ngoài nhưng vẫn tình nguyện trở về nước “đồng cam cộng khổ” với nhân dân tham gia chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc và kiến thiết đất nước với tất cả khả năng chuyên môn của họ. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, “những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhiều trí thức nổi tiếng trên mọi lĩnh vực, như Phạm Quang Lễ (tức Trần Ðại Nghĩa), Lê Văn Thiêm, Lương Định Của, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Nguyễn Khắc Viện, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Phan Anh, Hoàng Minh Giám, Vũ Ðình Tụng, Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch, Võ Quý Huân, Vũ Trọng Khánh, Ðặng Văn Ngữ, Trịnh Ðình Thảo, Trần Đức Thảo, Ngụy Như Kon Tum... đã mang hết tài năng phục vụ đất nước. Trong số các vị đáng kính ấy, nhiều người không phải là đảng viên nhưng đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho công cuộc kháng chiến cứu nước và kiến thiết đất nước; không ít người phấn đấu về sau trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Công lao của họ đã được Tổ quốc, được Đảng, nhân dân trân trọng và đời đời ghi nhận. Ngày nay, ở nhiều nơi trên khắp cả nước đã có những đường phố, trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu khoa học,... mang tên của các trí thức nổi tiếng ấy.
Tiêu chí đánh giá và biện pháp sử dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tài là người vừa có tài lại vừa có đức, là người biết đem cái tài ấy ra làm những việc ích nước, lợi dân, chứ không phải là để thu vén lợi ích cho bản thân hay cho gia đình. Vì vậy, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu người có tài mà không có đức thì là người vô dụng, cho nên đức phải là cái gốc. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Dù nhấn mạnh mặt đức nhưng Người cũng khẳng định, nếu có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Điều đó có nghĩa rằng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tài và đức phải gắn bó chặt chẽ với nhau ở người được gọi là nhân tài.
Trong thực tế, trừ một số ngoại lệ rất ít ỏi là những người bẩm sinh đã có một số kỹ năng đặc biệt nào đó, nhưng kỹ năng đó có ích gì cho xã hội thì vẫn còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố; còn phần lớn nhân tài có được là nhờ sự phát hiện, đầu tư, chăm sóc của xã hội, lại phải trải qua một quá trình kiên trì rèn luyện và học tập lâu dài của bản thân thì mới thành nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có”. Bởi vậy, người dù có tài thì tài năng ấy vẫn có thể bị mai một nếu không được bồi dưỡng, nâng niu, chăm sóc, sử dụng đúng cách; cũng như không kích thích được khả năng sáng tạo của họ. Nhân loại đã đúc kết rất đúng rằng, nhân tài là người “biết đứng trên vai của các thế hệ trước” hoặc là người biết “đứng trên vai của những người khổng lồ”. Nói cách khác, nhân tài là người biết tiếp thu, chọn lọc, kế thừa, biết làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ, tài năng của những người khác.
Tuy có những cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau về nhân tài, nhưng tựu trung lại thì những giá trị cốt lõi về nhân tài là không thay đổi. Chắc chắn rằng, nhân tài phải là người có trí tuệ uyên thâm, uyên bác và tài năng hơn hẳn mọi người ở một lĩnh vực nào đó. Đó phải là người có tầm nhìn xa, trông rộng, bao quát; có khả năng nắm bắt được các mối quan hệ, hiểu được xu thế của thời đại và các quy luật vận động của xã hội; phân tích, nhận định nhạy bén và đánh giá đúng tình thế để có những quyết định chính xác và kịp thời nhất trong các hoạt động và trong đời sống xã hội; tham gia giải quyết tốt, có hiệu quả những vấn đề quan trọng được đặt ra, mà đến thời điểm đó chưa có ai giải quyết được.
Nhân tài có nhiều mức độ khác nhau và thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Có nhân tài là vĩ nhân, là lãnh tụ kiệt xuất trong lĩnh vực chính trị, có vai trò mở đường cho sự phát triển của một chế độ xã hội, một đất nước, một thời đại lịch sử. Có nhân tài là người uyên bác, là người phát minh khoa học ở tầm quốc gia hay ở trình độ quốc tế. Cũng có người là nhân tài trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật hoặc lĩnh vực an ninh, quân sự. Có những nhân tài có khả năng giải quyết các vấn đề cấp thiết do đời sống xã hội đặt ra ở những thời điểm cực kỳ khó khăn, giúp thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nói tóm lại, nhân tài có thể xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội thuộc về các lĩnh vực sản xuất vật chất hoặc lĩnh vực sáng tạo các sản phẩm tinh thần,... Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, khi đã phát hiện được người tài rồi thì phải dùng người đúng chỗ, đúng việc; “phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc”; cho nên đừng bao giờ “bảo thợ rèn đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao”.
Đặc biệt, khi dùng người tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa rất chú trọng đến tài năng trong công việc, vừa lấy thước đo tinh thần vì dân, vì nước của họ để đánh giá và giao việc cho họ. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không hẹp hòi, không câu nệ ai đó được trọng dụng đã là đảng viên hay chưa là đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cảnh báo những người có trách nhiệm lãnh đạo, muốn “tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo... bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài”.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài trong điều kiện hiện nay
Cần luôn ghi nhớ sự đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rằng trong dân chúng có “rất nhiều nhân tài ngoài Đảng”. Xin đừng nghĩ rằng, đánh giá đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đúng ở giai đoạn đất nước vừa mới giành được độc lập, lúc Đảng và Nhà nước ta còn rất thiếu cán bộ. Dường như đã có một thời gian dài, chúng ta lãng quên hoặc coi nhẹ sự đánh giá và cũng là lời căn dặn đó của Bác, nên chưa thật sự quan tâm đến việc phát hiện, thu hút nhân tài, nhất là việc trọng dụng nhân tài ngoài Đảng.
Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót trong vấn đề lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài của chúng ta thời gian qua. Cũng phải thừa nhận rằng, cho đến nay việc phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài, cả trong Đảng và ngoài Đảng, chưa thành quốc sách hay thành chiến lược quốc gia. Đúng như Đại hội XIII của Đảng nhận định, chúng ta vẫn còn “Thiếu cơ chế, chính sách tuyển chọn và trọng dụng người tài”; “Cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính hóa, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài”; “Thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích và bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm cả ở khu vực nhà nước và khu vực tư nhân”(13). Những đánh giá đó cũng đúng với việc thu hút và trọng dụng nhân tài cả trong Đảng và ngoài Đảng, khu vực nhà nước và ngoài khu vực nhà nước. Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu phải “đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.
Đối với nhân tài là người ngoài Đảng thì các chính sách, cơ chế tuyển chọn và trọng dụng họ lại càng thiếu sót nhiều hơn nữa. Vì vậy, đây thực sự là một sự lãng phí rất lớn. Lịch sử nước nhà từ xưa đến nay cho thấy rõ, và được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, để không lãng phí người tài thì xã hội cần phải kiên quyết phê phán, phải loại trừ cho bằng được một loại tư tưởng, là bệnh hẹp hòi, bởi cũng “vì bệnh hẹp hòi [ấy] mà không biết dùng nhân tài”. Để có thể trọng dụng nhân tài, cùng với việc phải khắc phục bệnh hẹp hòi, còn phải khắc phục bệnh định kiến, đố kỵ với người tài làm thui chột các tài năng. Hơn lúc nào hết, hiện nay, trong xã hội ta, cần thực hành dân chủ một cách thực chất để người tài được thể hiện, xuất hiện, khẳng định mình. Muốn phát hiện, tuyển chọn được người có biểu hiện tài năng, hoặc người đã thể hiện tài năng thật sự, thì phải dân chủ, công khai, công minh, tránh vị nể, tránh nhầm lẫn người tài với những người cơ hội, xu nịnh, ngoan ngoãn, dễ bảo nhưng bất tài. Khác với loại người này, những người tài thường là những người thẳng thắn, trung thực, mạnh dạn bày tỏ ý kiến riêng của mình mà không sợ uy quyền. Cho nên, muốn cho người tài hoặc nhân tài mang hết tài năng ra phụng sự dân tộc, phục vụ Tổ quốc và nhân dân thì rất cần xác định rõ những tiêu chí về tài năng, đức độ một cách thật cụ thể; phải lượng hóa được những tiêu chí đó để có căn cứ, có cơ sở rõ ràng trong việc tiến cử, giới thiệu, chọn lựa và trọng dụng người tài, nhất là người tài ngoài Đảng.
Về mặt này cần nghiên cứu, học tập cha ông ta trong việc định ra chế độ tiến cử người tài, khen thưởng xứng đáng người có công tiến cử đúng người tài; có chính sách khen thưởng những cá nhân, tổ chức đã có công phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo tốt và sử dụng đúng nhân tài mang lại hiệu quả cao. Mặt khác, cần xử phạt nghiêm khắc những người lợi dụng việc tiến cử người tài để “cài cắm”, sắp xếp, bố trí, thu nạp người thân hoặc lợi dụng mọi cơ hội để ăn đút lót, thu lợi cá nhân. Phải khắc phục cho bằng được “thói “một người làm quan cả họ được nhờ”, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay không, mặc kệ. Hỏng việc đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”. Muốn phát hiện, thu hút và trọng dụng người tài, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh việc khắc phục bệnh hẹp hòi, còn phải khắc phục bệnh địa phương chủ nghĩa và óc bè phái. Óc bè phái là loại bệnh “ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”.
Mọi cá nhân và tổ chức, nhất là các tổ chức đảng và các cấp chính quyền đều có quyền, và đặc biệt là có nghĩa vụ, trách nhiệm phát hiện, giới thiệu một cách trung thực người có tài, có đức để hỗ trợ cán bộ tổ chức và ban tổ chức cấp ủy các cấp, kể cả Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội vụ. Thiết nghĩ, chỉ riêng các cơ quan chuyên trách làm công tác tổ chức - cán bộ thì khó nắm bắt được hết người tài của cả nước, “E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Cho nên, người tài phải được phát hiện, được giới thiệu từ cơ sở, đơn vị, địa phương, từ các ngành, nghề và từ các bộ, ban, ngành trung ương. Dựa vào sự giới thiệu đó, các cơ quan chuyên trách làm công tác tổ chức - cán bộ phải có cách riêng để xác minh, đánh giá, kiểm định một cách trung thực và chính xác theo bộ tiêu chí đã được ban hành, nhằm tránh những sai sót đáng tiếc, tránh bỏ sót người tài và tránh để lọt vào bộ máy những kẻ bất tài nhưng giỏi luồn lách. Những người có trách nhiệm trong việc lựa chọn nhân tài phải tránh “Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực”.
Sau khi phát hiện được nhân tài, xác định được người có tài cả trong Đảng và ngoài Đảng thuộc các lĩnh vực khác nhau, thì các bộ phận có trách nhiệm liên quan phải tạo điều kiện và môi trường thuận lợi nhất để nuôi dưỡng, chăm sóc, bồi đắp, phát triển và hoàn thiện các năng lực và phẩm chất của nhân tài. Chỉ có những người lãnh đạo thật sự tài năng, công tâm, trung thực, trân trọng tài năng mới sử dụng được người tài, kể cả người tài trong Đảng hay người tài ngoài Đảng. Cũng chỉ như vậy, người tài mới yên tâm hiến dâng tất cả trí tuệ, tài năng của mình cho sự nghiệp mà họ đeo đuổi, hết lòng phụng sự cho đất nước, phục vụ nhân dân.
Thời gian qua, việc thực hiện các nguyên tắc và quy chế của công tác cán bộ là do trách nhiệm tập thể, nhưng phải thẳng thắn mà nói rằng, không hiếm hiện tượng có các cá nhân đã lợi dụng quy trình công tác cán bộ và vai trò tập thể một cách rất tinh vi để “cài cắm”, sắp xếp, bố trí người quen, người thân, người nhà vào những chỗ quan trọng để tạo nên “nhóm lợi ích”. Vì vậy, hơn lúc nào hết, Đảng và Nhà nước ta phải có những quy định, chế tài nghiêm ngặt để ngăn chặn, xử lý những sai phạm, kiên quyết không để lọt vào bộ máy Đảng, Nhà nước những người bất tài, kém đức, suy thoái. Cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt để nhân tài phát huy hết năng lực bản thân và cống hiến tài năng cho công cuộc phát triển đất nước; đồng thời, xử lý thật nghiêm những hành vi lạm dụng quyền lực để gây cản trở, trù dập nhân tài.
Đặc biệt, chúng ta cũng cần ủng hộ, động viên, khuyến khích những người Việt Nam có tài năng thật sự trong một lĩnh vực nào đó, cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài, tự giới thiệu mình cho tổ chức, để tổ chức xem xét, đánh giá, tuyển chọn, bố trí công việc thích hợp. Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, song chúng ta chưa làm tốt việc thu hút các nhân tài ngoài Đảng đang làm việc và sinh sống ở nước ngoài. Có rất nhiều nhân tài nổi tiếng ngoài Đảng thuộc nhiều ngành khoa học, công nghệ cao và nhiều lĩnh vực quan trọng khác nhau, hiện đang làm việc ở các nước phát triển. Điều đáng nói nhất là, nhiều người trong số họ được cử đi đào tạo ở nước ngoài, nhưng khi thành tài lại không về nước làm việc. Chúng ta cần nghiêm túc đánh giá lại chính sách, cơ chế trong việc tuyển chọn, sử dụng, tạo môi trường, điều kiện làm việc cho người ngoài Đảng cũng như số lưu học sinh được cử đi học bằng ngân sách nói trên. Chắc chắn là, nếu có chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài cùng với cách tuyển dụng dân chủ, minh bạch, thật sự trân trọng tài năng, có môi trường xã hội thuận lợi, có chế độ đãi ngộ xứng đáng thì sẽ thu hút được những người tài năng ngoài Đảng, nhờ đó mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho đất nước trong kỷ nguyên công nghệ số và trí tuệ nhân tạo mà chúng ta mới bắt đầu bước vào và đang rất cần những tài năng.
Muôn phát hiện được người tài, muốn có đội ngũ trí thức tinh hoa giỏi, muốn người tài phát huy hết khả năng phục vụ Tổ quốc thì điều cốt lõi là phải có chính sách phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài thật tốt. Chính sách ở đây không chỉ là chính sách đãi ngộ vật chất hay tiền lương, mặc dù không thể thiếu chúng. Đặc biệt là khi hệ thống bậc lương hiện nay rất không khuyến khích những người làm việc tốt, chưa nói gì đến người tài hay nhân tài. Vấn đề quan trọng hơn là, Đảng và Nhà nước ta cần phải tạo điều kiện, môi trường làm việc thật tốt, phương pháp quản trị tiên tiến để phát huy tối đa thế mạnh của mỗi người.
Trong điều kiện cạnh tranh nhân tài diễn ra rất gay gắt giữa các nước, hiện nay, việc phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài là nhiệm vụ rất quan trọng và phải trở thành “quốc sách”, thành chủ trương, chính sách nhất quán, có hiệu quả cao để tăng cường sức mạnh của đất nước, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính vì vậy, chủ trương phải “trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng” do Đại hội XIII của Đảng đề ra là hết sức đúng đắn và kịp thời. Khi chủ trương này được thực hiện nghiêm chỉnh và hiệu quả, nhất định sẽ góp phần thiết thực để đưa nước ta đạt được mục tiêu: “Đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao”./.
Tư tưởng của Bác về bảo về chính trị nội bộ
VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chính trị nội bộ trong xây dựng Đảng nhằm xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh.
Trong tình hình hiện nay, để bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng, chống mọi quan điểm, tư tưởng thù địch và những biểu hiện cơ hội, sai trái đạt hiệu quả, góp phần thực hiện tốt chủ trương xây dựng chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, thì việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chính trị nội bộ là một việc làm có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết thể hiện những nội dung chính sau:
Thứ nhất, bảo vệ Đảng về chính trị. Trước hết là phải bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Theo Hồ Chí Minh Cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn là một vấn đề “gốc”, nền tảng, cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Vì vậy, muốn thực hiện được điều đó, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin trong cán bộ, đảng viên. Trong bài Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc ngày 07/9/1957, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận vạch cho Đảng con đường đúng đắn tiến lên chủ nghĩa cộng sản”. Để bảo vệ chính trị nội bộ trong xây dựng Đảng, Người lưu ý: cán bộ, đảng viên phải rèn luyện “tính đảng”. “Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên.
Tính đảng là gì? Một là: Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; Hai là: Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn; Phải hiểu rằng: Đảng có hiểu rõ tình hình thì đặt chính sách mới đúng... Ba là: Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên trong bảo vệ Đảng về chính trị phải tránh bệnh kém “tính đảng”, biểu hiện như: “Bệnh ba hoa, bệnh địa phương, bệnh ham địa vị, bệnh thiếu kỷ luật, bệnh cẩu thả (gặp sao hay vậy), bệnh xa quần chúng, bệnh chủ quan, bệnh hình thức, bệnh ích kỷ, bệnh hủ hóa, bệnh thiếu ngăn nắp, bệnh lười biếng. Mắc phải một bệnh trong mười hai bệnh đó tức là hỏng việc”. Theo Người, bảo vệ Đảng về chính trị cần phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn hết sức phong phú, sâu sắc thì mới có đủ cơ sở, điều kiện để đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng.
Thứ hai, bảo vệ Đảng về tư tưởng. Trước hết phải đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bảo vệ Đảng về tư tưởng cũng đặt ra yêu cầu đấu tranh, phê phán và gột rửa những biểu hiện của tư tưởng “phi vô sản” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; giáo dục đạo đức cách mạng, đấu tranh với sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Để bảo vệ Đảng, phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng. Đó là, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, luôn trung thành và vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ... Người đã vạch trần những thủ đoạn, lời nói mị dân, xuyên tạc hình ảnh người cộng sản, hòng bôi nhọ Đảng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam, Hồ Chí Minh luôn lưu tâm đến hoạt động phá hoại tư tưởng của đế quốc Mỹ và bọn tay sai bán nước, kêu gọi toàn Đảng, toàn dân phải luôn cảnh giác, chống lại những hoạt động phá hoại của chúng. Người chỉ rõ: “Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì bọn Mỹ - Diệm không muốn cho chúng ta thành công. Chúng âm mưu phá hoại ta bằng nhiều cách. Chúng còn bịa đặt tin đồn nhảm, phá hoại tinh thần nhân dân ta”.
Thứ ba, bảo vệ Đảng về tổ chức. Đó là chống lại bọn phản động cài cắm người của chúng vào nội bộ Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc tích cực, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, xử lý kịp thời và nghiêm minh những trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng. Người lưu ý, bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng cần phải giữ vững các nguyên tắc tổ chức, duy trì kỷ luật nghiêm minh là một biện pháp rất quan trọng để bảo vệ Đảng. Người yêu cầu đảng viên phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của Đảng, nếu kỷ luật Đảng lỏng lẻo thì những phần tử phản động sẽ có cơ hội chui vào Đảng để phá hoại. Đối với những kẻ xấu phá hoại Đảng đã bị phát hiện phải xử lý nghiêm minh, phải xác định rõ từng đối tượng để xử lý đúng người, đúng tội. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải giữ bí mật, đồng thời phê phán nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên để lộ bí mật của Nhà nước. Trước âm mưu, thủ đoạn phá hoại Đảng, phá hoại cách mạng rất thâm độc, xảo quyệt của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, Người luôn luôn chú trọng đến việc phòng gian, bảo mật: “Phải có tinh thần cảnh giác, phòng gian, bảo mật... Bệnh ba hoa còn nhiều; còn làm mất tài liệu bí mật…”. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý việc phải dựa vào nhân dân, tổ chức và động viên nhân dân tích cực tham gia bảo vệ Đảng. Người cho rằng: “Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng mấy chục triệu tai mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân, thì việc gì cũng xong”.
Trong bối cảnh hiện nay và những năm tiếp theo, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên; việc điều chỉnh chiến lược và sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn khiến các nước nhỏ luôn phải ứng phó với những biến động khó lường... Các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: an ninh tài chính, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, an ninh mạng, dịch bệnh… ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững đất nước.
Ở trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng tới sự nghiệp đổi mới. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá về chính trị, tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động, thực hiện “diễn biến hòa bình”. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng ngày càng nghiêm trọng hơn. Tình trạng vi phạm pháp luật, tội phạm có xu hướng gia tăng và xuất hiện nhiều loại tội phạm mới, đặc biệt là loại tội phạm có tổ chức, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp… Tình hình nêu trên sẽ tác động mạnh, nhiều chiều đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ ra phương hướng trong công tác xây dựng Đảng: “Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ…”. Nhằm tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ trong xây dựng Đảng, cần có những giải pháp đồng bộ, nắm vững, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới.
Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng, nhân sinh quan cách mạng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Đặc biệt, tiếp tục “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị số 05-CT/W của Bộ Chính trị khóa XII, ngày 15/5/2016 một cách thiết thực, hiệu quả. Cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước phải thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng. Chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc hại trên in-tơ-nét, mạng xã hội…Có những biện pháp kịp thời, thiết thực, hiệu quả để ngăn chặn những diễn biến xấu về chính trị, tư tưởng, phòng chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, nói không đi đôi với làm trong nội bộ Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, lực lượng tiến hành bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng là toàn dân tộc. Trong đó lực lượng nòng cốt là các cấp ủy đảng, các tổ chức đảng, hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên phối hợp triển khai thực hiện. Đây là những lực lượng rất quan trọng, giữ vai trò chủ đạo, xung kích. Để bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng có hiệu quả, đòi hỏi người làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng phải có chuyên môn cao, am tường, hiểu sâu, nắm chắc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin… những vấn đề của thực tiễn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng của thế giới đương đại và trong nước thì mới có khả năng tác chiến, bảo vệ hiệu quả, thành công. Qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biễn”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng; làm thất bài mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới.
Ba là, Thực hiện tốt mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Vì dân là “gốc” của nước lực lượng to lớn của Đảng. Trí tuệ, năng lực sáng tạo của Đảng đều bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Người chỉ rõ: “Dễ mười lần không dân cũng chịu/Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Dân “liệu” ở đây không chỉ có nghĩa là dân chỉ góp công sức, của cải vào cuộc cách mạng, mà quan trọng hơn Dân còn bày mưu, hiến kế cùng với Đảng để vạch ra Cương lĩnh, đường lối đúng đắn cho cách mạng. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với dân không chỉ thể hiện ở mục đích hoạt động của Đảng, nó còn được biểu hiện sinh động trong phương pháp, cách thức hoạt động của Đảng trong quan hệ với dân, nhất là hoạt động của các cơ sở đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự trong sạch “cần, kiệm, liêm, chính” để cho dân tin, dân phục, dân yêu.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chính trị nội bộ trong xây dựng Đảng nhằm xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh./.
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với đất nước của Lênin
Vào ngày này (30/6) cách đây 101 năm, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã lần đầu tiên đặt chân đến nước Nga, trực tiếp nghiên cứu lý luận và thực tiễn chủ nghĩa xã hội hiện thực theo hình mẫu nước Nga Xô viết, đặt nền tảng cho mối quan hệ lịch sử đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam và Nga.
Cách đây hơn 107 năm, vào năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Nguyễn Ái Quốc như nắm bắt được hơi thở thời đại, đã chăm chú dõi theo, vui mừng nhìn thấy ở cách mạng này một lối thoát cho dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, Liên Xô (trước đây) là điểm dừng chân đặc biệt để Nguyễn Ái Quốc hoàn thiện và củng cố vững chắc hơn những luận điểm cơ bản trong con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Quảng thời gian sống, làm việc tại Liên Xô đã góp phần giúp Nguyễn Ái Quốc đưa sự nghiệp cách mạng của Nhân dân Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người Việt Nam đầu tiên đã tiếp cận, tiếp thu và vận dụng sáng tạo rất thành công những tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười vào sự nghiệp cách mạng nước ta. Năm 1920, khi đọc bản Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lê-nin, Người đã rất cảm động, phấn khởi, vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong phòng mà Người nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta".
Tiếp đó, Người đã vượt qua mọi gian nguy để đến với đất nước Xô-viết, tham gia hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, đồng thời trực tiếp tìm hiểu kinh nghiệm cách mạng của Liên Xô để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngay trong thời kỳ đó, Người đã cử nhiều thanh niên cách mạng Việt Nam ở trong nước sang học tập tại Liên Xô, trong đó có các đồng chí sau này trở thành Tổng Bí thư của Đảng ta, cùng nhiều nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối khác.
Nước Nga những năm 20 của thế kỷ XX được tiếp cận ở nhiều góc độ. Đối với giai cấp phong kiến, tư sản cho nước Nga là một địa ngục. Còn những người theo khuynh hướng cộng sản thấy ở nước Nga là một thiên đường. Đối với Nguyễn Ái Quốc, nước Nga lúc bấy giờ nhất định không phải là một địa ngục nhưng lúc bấy giờ chưa hẳn đã phải là một thiên đường.
Những điều được chứng kiến đầu tiên khi Nguyễn Ái Quốc đến nước Nga đó là hình ảnh một đất nước đang trong quá trình khắc phục những hậu quả của chiến tranh, vừa chống thù trong vừa chống giặc ngoài, một nước Nga đang trong quá trình xây dựng, kiến thiết lại mang trong mình cả những ưu điểm và tất nhiên cũng chưa kịp sửa chữa hết những khuyết điểm. Song những khó khăn không làm lu mờ hình ảnh một đất nước cách mạng đã làm một việc vĩ đại, lần đầu tiên đưa vị thế của giai cấp công nhân và nông dân lên làm chủ chính quyền, tạo niềm tin, hy vọng cho các dân tộc bị áp bức trong đó có nhân dân Đông Dương.
Người nhớ về quê hương của mình, “quốc mẫu” lúc nào cũng rao giảng tự do, bình đẳng, bác ái nhưng chúng chỉ tìm cách khai thác, bóc lột Nhân dân. Nguyễn Ái Quốc đã đi, đã đến và chứng kiến đời sống hiện thực ở nhiều nước, cả thuộc địa lẫn tự do, cả đất nước bị áp bức lẫn đi áp bức nhưng bước chân của Nguyễn Ái Quốc chỉ tới được đích khi Người đặt chân đến nước Nga Xô viết, từ thực tiễn những gì được chứng kiến, nhận thấy đây là một hình mẫu lý tưởng mà Người muốn xây dựng trên chính quê hương mình.
Chưa trực tiếp gặp Lênin, nhưng chính những tư tưởng giải phóng của Lênin, cuộc đời và đạo đức cao đẹp của Lênin đã là một tấm gương sáng mà Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ suốt đời. Ngay từ khi được đọc bản sơ thảo của Lênin tháng 7 năm 1920, đường lối hợp tác các dân tộc vì một mục đích chung của Lênin đã có sức hấp dẫn đặc biệt đối với Nguyễn Ái Quốc. Lênin, ngoài tài năng, tinh thần cách mạng, còn là những phẩm chất rất phương Đông, đó chính là tấm gương sống tiêu biểu. Mặc dù bị cấm truyền bá, lưu hành nhưng chủ nghĩa thực dân không sao ngăn cản được ánh sáng chói lọi của Người tỏa sáng đến các dân tộc bị áp bức trong đó có Đông Dương.
Khi nói về Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã chia sẻ: “Không phải chỉ thiên tài của Người mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao đến các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”.
Ngay khi vừa đặt chân lên nước Nga, Nguyễn Ái Quốc đã rất muốn gặp người lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản nhưng khi đó Lênin đang ốm nặng, và cơ hội để Người được trực tiếp gặp Lênin đã không thể thực hiện được khi ngày 21/1/1924, trái tim lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã ngừng đập. Lênin qua đời là một mất mát to lớn không chỉ của nhân dân Liên Xô mà cả cho nhân dân thế giới.
Những năm tháng ở trên quê hương Lênin chính là thời gian thể hiện xuất sắc hình ảnh người học trò Lênin của Nguyễn Ái Quốc. Người đã tham gia sôi nổi các hoạt động quốc tế, đấu tranh bảo vệ và phát triển những lý luận của Lênin về cách mạng vô sản và mối quan hệ giữa giai cấp vô sản với nhân dân các nước thuộc địa. Lần đầu tiên được tham dự Đại hội của Quốc tế Cộng sản với vai trò là đại biểu tư vấn nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng đã rất mạnh mẽ và thẳng thắng phê phán Quốc tế Cộng sản vẫn còn chưa chú trọng đến các vấn đề của các nước thuộc địa, điều đó hoàn toàn đi ngược lại với mong muốn lúc sinh thời của Lênin.
Thời gian được học tập, nghiên cứu, lao động, tham gia sôi nổi vào các hoạt động trên quê hương Cách mạng Tháng Mười đã mang lại cho Nguyễn Ái Quốc những nhận thức mới mẻ, đồng thời cũng là những cơ sở lý luận và thực tiễn bổ sung vào học thuyết cách mạng mà Người đang xây dựng và hoàn chỉnh cho Việt Nam.
Những thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và kiến thiết nước nhà về sau này của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, không thể không khẳng định tầm ảnh hưởng to lớn từ những thành quả của Cách mạng Tháng Mười, từ những tư tưởng vĩ đại của Lênin./.
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG TRUYỀN THÔNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI!
CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: CHỮ QUAN LIÊU VIẾT NHƯ THẾ NÀO!
Việt Nam luôn quan tâm chăm lo, bảo vệ quyền lợi của người lao động
Với
thái độ cực đoan, thiếu thiện chí, nhiều năm qua Tổ chức Theo dõi Nhân quyền
(HRW) thường xuyên đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, xuyên tạc về tình
hình dân chủ, nhân quyền ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Lợi dụng sự việc Bộ Thương mại Mỹ tổ chức phiên điều trần về nâng cấp quy chế
kinh tế thị trường cho Việt Nam, HRW tiếp tục đưa thông cáo xuyên tạc việc bảo
đảm quyền của người lao động, phủ nhận vai trò của tổ chức công đoàn ở Việt
Nam, gây bức xúc dư luận.
Ngày 8/5/2024, Bộ Thương mại
Hoa Kỳ tổ chức phiên điều trần công khai tiến hành đánh giá về việc có phân
hạng Việt Nam là “nền kinh tế thị trường” hay không. Tại phiên điều trần, đại
diện của Việt Nam nêu rõ các lập luận, thông tin, số liệu khẳng định nền kinh
tế Việt Nam hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí của quy chế kinh tế thị trường; đồng
thời nhấn mạnh, nền kinh tế Việt Nam còn làm tốt hơn so với nhiều nền kinh tế
đã được công nhận quy chế kinh tế thị trường.
Chia sẻ trên Reuters ông Ted
Osius, cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, hiện là Chủ tịch Hội đồng Kinh doanh Mỹ -
ASEAN khẳng định: “Việt Nam đã là nền kinh tế thị trường rồi. Việt Nam đáp ứng
các tiêu chí quan trọng, như khả năng chuyển đổi của tiền tệ và sẵn sàng để
được công nhận một cách chính xác. Doanh nghiệp Mỹ đầu tư mạnh tay vào Việt
Nam, qua đó công nhận tiềm năng tăng trưởng của nước này”.
Tuy nhiên với thái độ thù địch,
thiếu thiện chí HRW lập tức đưa ra thông cáo cho rằng chính quyền Việt Nam đang
đưa ra các thông tin sai lệch hoặc dễ gây hiểu lầm cho phía Hoa Kỳ và các đối
tác kinh tế khác để đạt được hay duy trì các quy chế ưu đãi thương mại. Cùng
với đó, HRW đưa ra những phân tích, đánh giá sai sự thật về quyền của người lao
động. Cụ thể ông John Sifton, Giám đốc Vận động Ban Á châu của Tổ chức Theo dõi
Nhân quyền đưa ra đánh giá tiêu cực rằng: “Lời tuyên bố tôn trọng quyền của
người lao động của Việt Nam chỉ dựa trên các ngôn từ và lời hứa sáo rỗng, các
văn bản luật pháp và quy định xa rời thực tế về hiện trạng quyền của người lao
động ở quốc gia này”; “Ở Việt Nam không hề tồn tại bất kỳ một công đoàn độc lập
nào hay các khung pháp lý khả thi cho việc thành lập công đoàn hoặc cho người
lao động có thể đòi thi hành các quyền của mình”.
Thực tế cho thấy trong suốt
nhiều năm qua, với thái độ thiếu thiện chí, HRW không từ bỏ bất cứ một “cơ hội”
nào, từ các sự kiện chính trị, ngoại giao, cho đến các hoạt động trong các lĩnh
vực kinh tế - chính trị, hay tư pháp... để công kích, xuyên tạc, gây sức ép, hạ
thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Những đánh giá thường xuyên bóp
méo hiện trạng về việc bảo đảm quyền lợi người lao động tại Việt Nam tiếp tục
minh chứng cho điều này.
Về phiên điều trần của Bộ
Thương mại Hoa Kỳ xem xét việc công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt
Nam, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao vào chiều 9/5, Người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nêu rõ, Việt Nam hoan nghênh Bộ Thương mại
Hoa Kỳ tổ chức phiên điều trần. Đồng thời Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng
cho biết đến nay đã có 72 nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường,
trong đó có những nền kinh tế lớn, như Anh, Canada, Australia, Nhật Bản... Việt
Nam cũng đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với
hơn 60 đối tác trải rộng khắp các châu lục. Kết quả này phần nào cho thấy những
nỗ lực của Việt Nam trong việc xây dựng một nền kinh tế thị trường năng động,
hiệu quả đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, và là cơ sở quan trọng cho các
quan hệ hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu.
Do đó những luận điệu của HRW
cố tình phủ nhận nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa ra những thông tin
không phản ánh đúng sự thật về quyền của người lao động Việt Nam là thiên kiến,
cực đoan, khó có thể chấp nhận.
Thực tiễn cho thấy lao động và
việc làm là một trong những quyền cơ bản của công dân được Đảng, Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm và được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật cũng như bảo
đảm thực thi trong đời sống. Tại Điều 35, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Công dân
có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm
công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được
hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động,
sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”.
Trên cơ sở quy định của Hiến
pháp, Bộ luật Lao động năm 2019 tại Khoản 1, Điều 4 Chính sách của Nhà nước về
lao động làm rõ: “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động, người làm việc không có quan hệ lao động; khuyến khích những thỏa thuận
bảo đảm cho người lao động có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp
luật về lao động”.
Đồng thời Luật cũng xác định
quyền và nghĩa vụ của người lao động, đó là: hưởng lương phù hợp với trình độ,
kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao
động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động; nghỉ theo
chế độ, nghỉ hằng năm có hưởng lương và được hưởng phúc lợi tập thể. Cùng với
đó người lao động được thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện
người lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp
luật; yêu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng
tập thể với người sử dụng lao động và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy
của người sử dụng lao động.
Tại Đại hội XIII của Đảng, đề
cập đến nội dung phát triển tổ chức công đoàn, Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII tiếp tục khẳng định: “Định hướng, quản lý tốt sự
ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức
công đoàn hiện nay”.
Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam
nhiệm kỳ 2023-2028 diễn ra vào tháng 12/2023 cũng đã chỉ rõ trong bối cảnh gặp
nhiều khó khăn, thách thức so với dự báo, song hoạt động công đoàn tiếp tục có
bước chuyển quan trọng, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong đại diện,
chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, người lao
động.
Các cấp công đoàn đã chủ động,
tích cực đổi mới và nâng cao chất lượng tham gia xây dựng chính sách, pháp luật
liên quan đến người lao động và hoạt động công đoàn; phát hiện, đề xuất nhiều
kiến nghị, góp ý xây dựng luật để chăm lo, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người
lao động.
Vai trò của công đoàn trong
việc tham gia xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh
nghiệp tiếp tục được khẳng định. Các mô hình chăm lo cho đoàn viên, người lao
động ngày càng thiết thực, hiệu quả, được lan tỏa mạnh mẽ.
Đặc biệt, thời điểm dịch
COVID-19 bùng phát trên cả nước khiến nhiều người lao động bị ảnh hưởng. Chính
trong bối cảnh khó khăn đó, các cấp công đoàn đã tích cực vào cuộc, vừa tham
gia phòng chống dịch bệnh vừa đồng hành với người lao động. Tiêu biểu có thể kể
đến là việc triển khai các gói hỗ trợ dành cho người lao động bị ảnh hưởng bởi
dịch bệnh; tặng sổ tiết kiệm công đoàn cho con đoàn viên bị mồ côi do COVID-19
với tổng số tiền hỗ trợ gần 6.000 tỷ đồng. Song song đó, nhiều phong trào thi
đua trong thời điểm dịch COVID-19 đã được triển khai hiệu quả, như “Công nhân,
viên chức, lao động nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch
COVID-19”, được cụ thể hóa bằng Chương trình “75 nghìn sáng kiến vượt khó, phát
triển” và Chương trình “1 triệu sáng kiến nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm
chiến thắng đại dịch COVID-19” đã sớm đạt mục tiêu với nhiều sáng kiến có giá
trị, ý nghĩa xã hội lớn...
Những kết quả nổi bật kể trên
cho thấy sự quan tâm, chăm lo của các cấp công đoàn cả nước đối với người lao
động. Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam cũng đã đặt ra chỉ tiêu đến hết nhiệm kỳ
là cả nước có 15 triệu đoàn viên công đoàn, thành lập tổ chức cơ sở ở 100%
doanh nghiệp có từ 25 lao động trở lên; ít nhất 83% doanh nghiệp, đơn vị có tổ
chức công đoàn đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được công đoàn thương
lượng, ký kết được thỏa ước lao động tập thể theo quy định của pháp luật; phấn
đấu 90% trở lên số vụ việc về lao động khởi kiện tại tòa án được công đoàn hỗ
trợ, tham gia tố tụng bảo vệ khi đoàn viên có yêu cầu.
Một trong những khâu đột phá
trong nhiệm kỳ tới được Đại hội lựa chọn là đẩy mạnh đối thoại, thương lượng
tập thể, trọng tâm là tiền lương, tiền thưởng, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi, an toàn vệ sinh lao động.
Cũng cần nhấn mạnh rằng từ năm
1992, Việt Nam tái gia nhập Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Từ đó đến nay Việt
Nam luôn thể hiện nỗ lực cam kết và thực hiện các công ước quốc tế nói chung,
các công ước quốc tế về quan hệ lao động nói riêng, nhằm thúc đẩy và bảo đảm
tiêu chuẩn lao động cơ bản cho người lao động ở Việt Nam theo đúng các chuẩn
mực quốc tế về quyền của người lao động. Cụ thể, Việt Nam đã tham gia 25 công
ước của ILO. Chỉ riêng trong năm 2019, Việt Nam đã phê chuẩn 3 công ước của
ILO, bao gồm Công ước 88 về tổ chức dịch vụ việc làm, Công ước 159 về tái thích
ứng việc làm cho người khuyết tật, Công ước 98 về quyền thương lượng tập thể.
Các nội dung quan trọng trong các công ước cơ bản của ILO đều đã được phản ánh
trong các quy định trong Bộ luật Lao động.
Với đường lối, chủ trương đúng
đắn của Đảng, Nhà nước cùng với sự nỗ lực chủ động và tích cực của tổ chức công
đoàn, trong suốt nhiều năm qua quyền lợi của người lao động Việt Nam luôn được
bảo đảm. Đây là cơ sở quan trọng tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế
và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cũng như góp phần thúc
đẩy phát triển nền kinh tế thị trường của nước ta. Thực tiễn sinh động này
chính là căn cứ quan trọng nhất góp phần bác bỏ những luận điệu bóp méo, xuyên
tạc vấn đề người lao động ở Việt Nam./.
HÀ NHÂN
Nêu gương, xin chớ 'diễn gương'!
Câu chuyện kỷ luật lãnh đạo
huyện không dưng lại ồn ào đến lạ mấy hôm rày.
Mà ồn ào cũng là đúng. Vừa mới hơn năm trước, ông ấy còn đĩnh
đạc trình bày báo cáo điển hình ở huyện về tấm gương tiêu biểu trong công tác
lãnh đạo. Từ phong cách dân chủ, lắng nghe; gần gũi cán bộ, chia sẻ khó khăn;
rồi cả tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chưa hết, ông ấy còn
tự nhận mình là “nòng cốt” trong gây dựng sự đoàn kết tập thể được “anh em” suy
tôn vừa là thủ lĩnh, vừa là thủ trưởng… Đùng một cái, năm nay, ông ấy bị kỷ
luật bởi vi phạm nguyên tắc tập trung, dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo; độc
đoán, chuyên quyền trong công việc; trù úm, đe dọa nhân viên trái ý… Biết luận
việc này như thế nào cho đúng?
Nghe phong thanh cũng nhiều ý kiến trái chiều. Người không
biết thì bảo, ông ấy chắc mới thoái hóa, biến chất; lại cũng có người nghi ngờ
“lợi ích nhóm này” “phe cánh nọ” đấu đá nhau, phân chia không đều nên mâu
thuẫn.
Nhưng quan sát mới thấy, lạ nhất là không ít trong đám “anh
em” cấp dưới – những người đã từng tôn vinh ông ấy lại hỉ hả trong lòng khi sếp
“lĩnh án”. Tìm hiểu mới vỡ lẽ ra, rằng việc “vậy mà không phải vậy”, cái
“gương” kia suy cho cùng chỉ là “diễn gương” mà thôi. Dân chủ gì khi chỉ “giả
vờ” họp hành, ra vẻ muốn “lắng nghe” ý kiến tham mưu của anh em, nhưng cuối
cùng, ông tự quyết định theo ý mình, ai trái ý, ông gọi riêng “chỉnh đốn”. Khi
cấp dưới tranh luận, phản biện, ông lấy quyền tự quyết của người đứng đầu, để
“chốt hạ”, ông bảo đó là “dám nghĩ, dám làm”, và dĩ nhiên, “tôi chịu trách
nhiệm, chứ các anh chị có chịu trách nhiệm cho tôi đâu” – ông “khảng khái”. Ông
“ngọt ngào” với anh em mỗi kỳ bỏ phiếu tín nhiệm; “hiền lành, tốt tính”, hòa
đồng mỗi dịp bình bầu thi đua cuối năm; “gần gũi”, ra vẻ thân thiết khi nhà có
việc… nhưng rồi chẳng mấy ngày sau mà ông trở mặt lạnh tanh, “quan dạng” …
- “Biết ông ấy thế, sao không ai phản ánh, góp ý, mà còn bỏ
phiếu bầu, tôn vinh dù biết chỉ là “diễn gương”?”
- Ai hơi đâu mà dại, dính vào ông ấy như dính vào “chảo lửa”,
ông ấy muốn thì mình cho ông ấy thành gương. Chứ ai mà chẳng biết, gương vỡ,
gương giả, “gương diễn”? Mình chẳng “tôn vinh” ông ấy thì cũng chẳng xong, đầy
người bỏ phiếu cho ông ấy đó thôi.
Hóa ra, biết là “gương giả”, “gương diễn” nhưng cả tập thể,
các cá nhân vẫn nhất trí “nêu gương” ông ấy. Và rồi, khi cái gương ấy “vỡ”, vẫn
tập thể, vẫn các cá nhân ấy lại “cười” bởi cái “mặt nạ” đã rơi, vai diễn kết
thúc. Suy cho cùng, trên sân khấu này, không chỉ ông quan huyện “diễn gương” mà
cả tập thể, cả tổ chức, cả bao cá nhân đều cùng là “diễn viên” xuất sắc. Thật
đáng buồn!
Đương nhiên, sẽ chẳng có “đất dụng võ” cho những vai “diễn
gương” nếu như mỗi cá nhân, tập thể dám thẳng thắn đương đầu, góp ý, phê bình,
phản biện, tranh luận và dĩ nhiên là từ chối bỏ cho những vai diễn yếu kém về
đạo đức như ông huyện kia.
Câu chuyện nhỏ ở huyện như một lời cảnh tỉnh mỗi chúng ta.
Nêu gương, xin chớ diễn gương!
Song Minh
Chặt đứt 'nọc độc' căn bệnh trầm kha
Bệnh 'nhận vơ' thành
tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm như virus độc hại, gặm nhấm, để lại trăm thứ hệ
lụy dai dẳng. Cán bộ, đảng viên mắc bệnh này sẽ đánh mất vai trò tiên phong, vì
làm việc gì cũng mưu cầu vụ lợi, mánh khóe, nơm nớp lo âu bị phanh phui. Đây là
mối nguy trong Đảng cần phải triệt hạ tận gốc bằng những giải pháp mạnh mẽ,
trong đó chú trọng xây dựng nền đạo đức chính trị, liêm chính, công minh.
TRĂM THỨ HỆ LỤY DAI DẲNG
Bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm đẻ ra
trăm thứ tác hại trong đời sống cán bộ, đảng viên hiện nay, song hệ lụy trước
tiên đó là làm băng hoại đạo đức, biến con người thành cá nhân chủ nghĩa, gây
mất đoàn kết nội bộ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều lần người đứng đầu Đảng ta
đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất trong sáng.
Sự hoài nghi, đố kỵ, ghen ghét, sợ người khác, tổ chức khác
hơn mình nên lúc nào cũng tìm mọi cách để “đứng trên đầu, trên cổ” người ta,
bằng các thủ đoạn chạy chọt, vơ vét thành tích, đùn đẩy trách nhiệm cho người
khác... Nhưng tiếc thay, thành tích mà họ có được là thành tích ảo, sức mạnh
giả tạo. Đây chính là căn nguyên làm mất sự dân chủ, đoàn kết nội bộ, gây mất niềm
tin trong cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân.
Ở góc độ kinh tế - xã hội, bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn
đẩy, lo sợ trách nhiệm cũng chính là hành vi tham nhũng, gây thiệt hại về vật
chất cho Đảng, Nhà nước, kìm hãm sự phát triển nói chung. Bởi thông thường
những cán bộ, đảng viên mắc phải căn bệnh này thì lòng tham không đáy. Một khi
họ đã tranh được công, đổ được tội, thu lợi bất chính thì sẽ tiếp tục có những
hành động tham ô khác, không từ một thứ gì miễn là vun vén lợi lộc cho mình.
Các chuyên gia cũng nhận định, căn bệnh vơ thành tích, đùn đẩy trách nhiệm này
cũng sẽ gián tiếp tác động đến việc ban hành chính sách. Hay nói cách khác để
có lợi cho bản thân, họ sẽ “chạy” các chính sách theo hướng mang lợi cho họ,
không nghĩ đến tập thể.
Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm
diễn ra khá phổ biến, có tác động trực tiếp tới sự phát triển của các lĩnh vực,
ngành và sự vững mạnh của các tổ chức. Căn bệnh lo sợ trách nhiệm khiến cán bộ,
đảng viên không dám làm, triệt tiêu sự sáng tạo, đổi mới; làm cho nhiều công
việc trở nên trì trệ, ách tắc, không khai thông được nguồn lực, kìm hãm sự phát
triển.
Tại Kỳ họp Quốc hội lần thứ bảy, khóa XV mới đây, lý giải
nguyên nhân vì sao đầu tư công sau 4 tháng đầu năm 2024 chỉ đạt 17,46% kế
hoạch, trong đó hơn 310 dự án có tỷ lệ giải ngân 0%; 28 địa phương giải ngân
dưới mức trung bình của cả nước? Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng một phần là
do tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm còn khá nặng nề. Hệ quả là làm chậm quá trình
phát triển của tổ chức, sự tiến bộ của cá nhân, nghiêm trọng hơn làm giảm sút
niềm tin trong quần chúng với Đảng, Nhà nước, chế độ.
Đấu tranh ngăn chặn căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy,
lo sợ trách nhiệm là nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta hiện nay. Bởi như Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng căn dặn “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một
Đảng hỏng”. Một trong những điểm mới nổi bật ở Kết luận số 21-KL/TW của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XIII đó là đã đề ra mục tiêu trong công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng: Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy
lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"...
Theo số liệu của Ban Nội chính Trung ương, trong năm 2023,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương
đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; thi hành
kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó 22 ủy viên, nguyên ủy viên
Trung ương Đảng, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 2-2024. Trong số
đó, không ít cán bộ, đảng viên từng là những tấm gương với nhiều thành tích.
LIỀU KHÁNG SINH ĐIỀU TRỊ CĂN BỆNH NGUY HẠI
Đấu tranh với căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ
trách nhiệm là nhiệm vụ cấp bách nhưng không phải ngày một, ngày hai. Bởi đây
là cuộc chiến mà "địch" ở phía bên trong ta, không có giới tuyến rõ
ràng, phức tạp vì khó nhận định tội; cần phải kiên trì, kiên quyết, lâu dài,
vừa xây, vừa chống. Và đặc biệt là cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính
trị, từ thay đổi nhận thức chính trị đến hành động.
Trước hết, các tổ chức đảng cần tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân, nhất là biểu hiện tranh thành tích, đùn đẩy trách nhiệm.
Thực tế, rất nhiều cán bộ, đảng viên vẫn nhận thức mơ hồ, cho rằng “vơ thành
tích”, “đùn đẩy trách nhiệm” là làm lợi cho tập thể mình.
Đó là cách lý giải ngụy biện bởi thành tích ảo để lại trăm hệ
lụy, về lâu dài làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Do vậy, các tổ chức đảng cần
thường xuyên đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua hội họp,
sinh hoạt hoặc lồng ghép vào các hoạt động phong trào, giúp cán bộ, đảng viên
nâng cao nhận thức về những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
trong giai đoạn mới theo Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị
về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Song cùng với đó, để tránh việc đùn đẩy trách nhiệm, mỗi cán
bộ, đảng viên không ngừng phát huy trách nhiệm của bản thân trong tự phê bình
và phê bình, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng. Một
mặt cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa; phát huy những điểm mạnh, tự sửa những
khuyết điểm, hạn chế; mặt khác đóng góp cho đồng đội trên tinh thần xây dựng,
phê bình việc chứ không phê bình người; cùng nhau học tập, nâng cao chất lượng
công tác, tiến bộ. Đây cũng là giải pháp nâng cao sức chiến đấu của tổ chức
đảng trước những thói hư, tật xấu.
Để chữa bệnh lo sợ trách nhiệm đòi hỏi phải có cơ chế chính
sách khuyến khích, đãi ngộ cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ. Bộ Chính
trị ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và
bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung với những tư duy mới. Trong
đó có một điểm rất đáng chú ý đó là đề cao cán bộ: Dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá, dám chịu trách nhiệm.
Trên tinh thần này, mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần 4
“dám”, đặc biệt là dám chịu trách nhiệm. Mặt khác cấp ủy, tổ chức đảng cần có
đánh giá khách quan về cán bộ 4 dám, vì thực tế cán bộ xông xáo, dám nghĩ dám
làm thì dễ sai, thậm chí nhiều lần sai, do vậy cần phải công tâm khách quan,
vừa giúp cán bộ, đảng viên nhận ra khuyết điểm, lại vừa giúp họ sửa sai, đột
phá, sáng tạo vì tập thể; đồng thời có các chính sách đãi ngộ để họ phát huy
sáng tạo, đổi mới.
Các tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra,
giám sát cán bộ, đảng viên. Thời gian qua, không ít cán bộ sai phạm nhưng ngay
trong tập thể không phát hiện ra; thậm chí che giấu, sợ liên lụy mất thành
tích, rồi “mũ ni che tai”, “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Điều này cho thấy công tác
kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng chưa làm tròn trách nhiệm.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng răn dạy: “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết,
hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”. Trên tinh thần ấy,
mỗi tổ chức đảng cần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát, kiên quyết loại trừ ra khỏi đảng những cán bộ, đảng viên
tranh công, đổ lỗi; động cơ không trong sáng, gian dối, để giữ gìn sự trong
sạch của tổ chức đảng. Đồng thời, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân
trong giám sát, kiểm tra cán bộ, đảng viên.
Để xảy ra căn bệnh “nhận vơ” thành tích, đùn đẩy, lo sợ trách
nhiệm cũng phải nhìn nhận thẳng vấn đề đó là công tác thi đua, khen thưởng thời
gian qua chưa thực sự hữu hiệu. Bằng chứng là nhiều nơi, khen thưởng chưa kịp
thời, chưa đúng người, cào bằng, thậm chí thiếu chính xác, dẫn đến chưa tạo
động lực phấn đấu. Giải quyết vấn đề này, vừa qua Luật Thi đua, khen thưởng
(sửa đổi) đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2024 với nhiều điểm mới, đột phá.
Theo đó, việc khen thưởng cần bảo đảm tính toàn diện, hợp lý;
đúng nguyên tắc, quy trình; hướng về cơ sở, người trực tiếp lao động; trên quan
điểm thành tích đến đâu khen thưởng đến đó, khen thưởng phải kịp thời từ những
việc làm tốt, hành động ý nghĩa; tạo động lực cho cán bộ, đảng viên có niềm
tin, động lực thi đua mới bằng khả năng của mình.
Trị bệnh chủ nghĩa cá nhân nói chung, bệnh “nhận vơ” thành
tích, đùn đẩy, lo sợ trách nhiệm nói riêng là nhiệm vụ lâu dài của Đảng ta.
Trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, công việc này càng
quan trọng, cấp thiết, đòi hỏi sự kiên trì, kiên quyết của cả hệ thống chính
trị, có như vậy mới đạt được như kỳ vọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Mỗi
cá nhân cũng trở nên tốt hơn, phát huy được nhiều hơn phẩm chất và năng lực của
mình”./.
qdnd.vn


