Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024

Quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang

 Nghị định này quy định mức lương cơ sở áp dụng quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Theo đó, từ ngày 1/7/2024, mức lương cơ sở là 2,34 triệu đồng/tháng thay cho mức 1,8 triệu đồng/tháng như hiện tại.

Chính phủ ban hành Nghị định 73/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. 

Theo đó, từ ngày 1/7/2024, mức lương cơ sở là 2,34 triệu đồng/tháng thay cho mức 1,8 triệu đồng/tháng như hiện tại.

Nghị định này quy định mức lương cơ sở áp dụng đối với người hưởng lương, phụ cấp và chế độ tiền thưởng áp dụng đối với người hưởng lương làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động (sau đây gọi chung là cơ quan, đơn vị) ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (cấp huyện), ở xã, phường, thị trấn (cấp xã), ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và lực lượng vũ trang.

Nghị định nêu rõ, người hưởng lương, phụ cấp áp dụng mức lương cơ sở quy định tại Nghị định này, bao gồm:

1- Cán bộ, công chức từ trung ương đến cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019).

2- Cán bộ, công chức cấp xã quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019).

3- Viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định tại Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019).

4- Người làm các công việc theo chế độ hợp đồng lao động quy định tại Nghị định số 111/2022/NĐ-CP ngày 30/12/2022 của Chính phủ về hợp đồng đối với một số loại công việc trong cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc trường hợp được áp dụng hoặc có thỏa thuận trong hợp đồng lao động áp dụng xếp lương theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

5- Người làm việc trong chỉ tiêu biên chế tại các hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động theo quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ).

6- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng và lao động hợp đồng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam.

7- Sĩ quan, hạ sĩ quan hưởng lương, công nhân công an và lao động hợp đồng thuộc Công an nhân dân.

8- Người làm việc trong tổ chức cơ yếu.

9- Hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; hạ sĩ quan và chiến sĩ nghĩa vụ thuộc Công an nhân dân;

10- Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố.

Từ ngày 01/7/2024, mức lương cơ sở là 2,34 triệu đồng/tháng

Nghị định nêu rõ, mức lương cơ sở dùng làm căn cứ tính mức lương trong các bảng lương, mức phụ cấp và thực hiện các chế độ khác theo quy định của pháp luật đối với các đối tượng quy định trên; tính mức hoạt động phí, sinh hoạt phí theo quy định của pháp luật; tính các khoản trích và các chế độ được hưởng theo mức lương cơ sở.

Đối với các cơ quan, đơn vị đang được áp dụng các cơ chế tài chính, thu nhập đặc thù ở trung ương: Thực hiện bảo lưu phần chênh lệch giữa tiền lương và thu nhập tăng thêm tháng 6 năm 2024 của cán bộ, công chức, viên chức với tiền lương từ ngày 01/7/2024 sau khi sửa đổi hoặc bãi bỏ cơ chế tài chính và thu nhập đặc thù. Trong thời gian chưa sửa đổi hoặc bãi bỏ các cơ chế này thì thực hiện mức tiền lương và thu nhập tăng thêm hằng tháng tính theo mức lương cơ sở 2.340.000 đồng/tháng theo cơ chế đặc thù từ ngày 01/7/2024 bảo đảm không vượt quá mức tiền lương và thu nhập tăng thêm được hưởng tháng 6 năm 2024 (không bao gồm phần tiền lương và thu nhập tăng thêm do điều chỉnh hệ số tiền lương ngạch, bậc khi nâng ngạch, nâng bậc). Trường hợp tính theo nguyên tắc trên, nếu mức tiền lương và thu nhập tăng thêm từ ngày 01/7/2024 theo cơ chế đặc thù thấp hơn mức tiền lương theo quy định chung thì thực hiện chế độ tiền lương theo quy định chung.

Chính phủ điều chỉnh mức lương cơ sở sau khi báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định phù hợp khả năng ngân sách nhà nước, chỉ số giá tiêu dùng và tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Kinh phí thực hiện

Nghị định nêu rõ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương:

1- Sử dụng 10% tiết kiệm chi thường xuyên (trừ các khoản tiền lương, phụ cấp theo lương, khoản có tính chất lương và các khoản chi cho con người theo chế độ) dự toán năm 2024 tăng thêm so với dự toán năm 2023 đã được cấp có thẩm quyền giao.

2- Sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ năm 2024 sau khi trừ các chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí.

Riêng đối với số thu từ việc cung cấp các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, y tế dự phòng và dịch vụ y tế khác của cơ sở y tế công lập sử dụng tối thiểu 35% sau khi trừ các chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí.

3- Sử dụng nguồn thực hiện cải cách tiền lương năm 2023 chưa sử dụng hết chuyển sang (nếu có).

Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương:

1- Sử dụng 10% tiết kiệm chi thường xuyên (trừ các khoản tiền lương, phụ cấp theo lương, khoản có tính chất lương và các khoản chi cho con người theo chế độ) dự toán năm 2024 tăng thêm so với dự toán năm 2023 đã được cấp có thẩm quyền giao.

2- Sử dụng 10% tiết kiệm chi thường xuyên (trừ các khoản tiền lương, phụ cấp theo lương, khoản có tính chất lương và các khoản chi cho con người theo chế độ) dự toán năm 2023 đã được cấp có thẩm quyền giao.

3- Sử dụng 50% tăng thu ngân sách địa phương dự toán năm 2024 so với dự toán năm 2023 được Thủ tướng Chính phủ giao (không kể: thu tiền sử dụng đất; xổ số kiến thiết; thu cổ phần hóa và thoái vốn doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý; tiền thuê đất một lần được nhà đầu tư ứng trước để bồi thường, giải phóng mặt bằng và thu từ xử lý tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị được cơ quan có thẩm quyền quyết định sử dụng để chi đầu tư theo quy định; thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa; phí tham quan các khu di tích, di sản thế giới; phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu; phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản; phí bảo vệ môi trường đối với nước thải; thu từ quỹ đất công ích, thu hoa lợi, công sản tại xã và thu tiền cho thuê, cho thuê mua, bán nhà thuộc sở hữu nhà nước).

4- Sử dụng 70% tăng thu ngân sách địa phương năm 2023 thực hiện so với dự toán được Thủ tướng Chính phủ giao (không kể: thu tiền sử dụng đất; xổ số kiến thiết; thu cổ phần hóa và thoái vốn doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý; tiền thuê đất một lần được nhà đầu tư ứng trước để bồi thường, giải phóng mặt bằng và thu từ xử lý tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị được cơ quan có thẩm quyền quyết định sử dụng để chi đầu tư theo quy định; thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa; phí tham quan các khu di tích, di sản thế giới; phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu; phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản; phí bảo vệ môi trường đối với nước thải; thu từ quỹ đất công ích, thu hoa lợi, công sản tại xã và thu tiền cho thuê, cho thuê mua, bán nhà thuộc sở hữu nhà nước).

5- Sử dụng nguồn thực hiện cải cách tiền lương năm 2023 chưa sử dụng hết chuyển sang (nếu có).

6- Sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ năm 2024 sau khi trừ các chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí.Riêng đối với số thu từ việc cung cấp các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, y tế dự phòng và dịch vụ y tế khác của cơ sở y tế công lập sử dụng tối thiểu 35%.

Nghị định nêu rõ, ngân sách trung ương bổ sung nguồn kinh phí còn thiếu do điều chỉnh mức lương cơ sở và thực hiện chế độ tiền thưởng năm 2024 cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi đã thực hiện các quy định nêu trên.

Kinh phí thực hiện cải cách tiền lương, thực hiện chế độ tiền thưởng của viên chức, người lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập nhóm 1, nhóm 2 do đơn vị tự đảm bảo theo quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế Nghị định số 60/2021/NĐ-CP (nếu có).

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 02/7

“Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”.
       Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài: “Vệ sinh yêu nước” (Phong trào diệt ruồi, muỗi), đăng trên Báo Nhân dân, số 1572, ngày 02 tháng 7 năm 1958. Đây là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
         Theo Hồ Chí Minh, yêu nước không thể tách rời thương yêu nhân dân, yêu nước không phải là cái gì chung chung, trừu tượng, mà nó được bắt đầu từ những việc nhỏ nhất và thể hiện ở việc làm cụ thể của mỗi người trong đời sống hằng ngày. Người có tinh thần yêu nước sẽ luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân và dù khó khăn, gian khổ thế nào cũng ra sức làm cho kỳ được, còn việc gì có hại cho nhân dân phải ra sức trừ cho kỳ hết. Người cho rằng, ruồi muỗi là bạn đồng minh của giai cấp bóc lột. Nó gây ra nhiều tật bệnh, làm cho nhân dân ta ốm đau. Người ốm đau thì sức lao động bị giảm sút, công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải ra sức tiêu diệt những kẻ địch độc ác bảo vệ sức khỏe, tính mạng và tài sản của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực của một người chiến sĩ cách mạng đã hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang và cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
         Quán triệt và thực hiện lời dạy trên của Người, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, chấp hành nghiêm 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, được nhân dân tin yêu, ghi nhận và trao tặng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Tích cực làm công tác dân vận, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,.... Các binh đoàn, đoàn kinh tế - quốc phòng đã gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng - an ninh, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, bao tiêu sản phẩm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới, làm thay đổi bộ mặt nông thôn trên địa bàn đóng quân. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; củng cố, phát huy tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em, xây dựng quê hương giàu mạnh, văn minh.

KIÊN QUYẾT QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Thực tiễn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Để đủ sức lãnh đạo đất nước và xã hội, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (CNCN) nói riêng.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”. Đảng ta xác định đấu tranh chống CNCN vừa là một nội dung trọng tâm, vừa là một giải pháp rất quan trọng trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, trước bất cứ nhiệm vụ gì, Đảng ta đều đặc biệt coi trọng và gắn chặt với cuộc đấu tranh chống CNCN. Nhằm giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng, trong đó có nội dung liên quan đến CNCN, từ năm 1939, Đảng ta đã tổ chức đợt sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng. Đặc biệt, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ cụ thể 15 căn bệnh nguy hiểm trong Đảng bắt nguồn từ CNCN. Đảng ta nhận thức rõ nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ đảng viên, làm tha hóa Đảng ta không gì khác là CNCN. Từ chỗ coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”, Đảng xác định phải kiên quyết tuyên chiến với loại “giặc nội xâm” này. Vụ án Đại tá Trần Dụ Châu, Giám đốc Nha Quân nhu, vì CNCN mà phạm tội tham nhũng phải lĩnh án tử hình là ví dụ điển hình chứng minh cho tinh thần kiên quyết đấu tranh với CNCN trong Đảng.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đều có các văn kiện chuyên đề về đấu tranh chống CNCN. Đặc biệt, từ Đại hội VI đến nay, tinh thần kiên quyết đấu tranh chống CNCN của Đảng ta được thể hiện rất rõ nét. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm minh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần “kiên quyết đấu tranh quét sạch CNCN trong toàn Đảng”. Tại Điều 3 của Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, Đảng ta cũng nêu rõ đảng viên không được vướng vào “… CNCN, cơ hội, vụ lợi…”.
Nhờ thường xuyên coi trọng công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống CNCN nói riêng mà năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta ngày càng được nâng lên. Đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng và con đường XHCN; phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu thực sự làm nòng cốt đi đầu trong công cuộc đổi mới và lãnh đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến được nhân rộng, lan tỏa trong đời sống xã hội. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đảng ta vẫn vững vàng chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt lên đ

 

Không để thế lực thù địch lợi dụng trẻ em

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch đã sử dụng mọi thủ đoạn, lôi kéo mọi lực lượng nhằm kích động, tạo sóng ngầm, gây mất ổn định chính trị. Trẻ em - những thế hệ măng non của đất nước cũng được chúng sử dụng để thực hiện mưu đồ chính trị này. Trong khi nhiều trẻ em được sinh sống, học tập, vui chơi lành mạnh, được ôm ấp, chở che trong vòng tay yêu thương của gia đình, thì cũng đã có những trẻ em vô tình bị lợi dụng để phục vụ cho ý đồ chính trị của các thế lực phản động. Trẻ em đã và đang bị kẻ xấu lợi dụng như thế nào? Vì sao chúng lại lợi dụng trẻ em để chống phá đất nước? Chúng ta hãy cùng tìm câu trả lời trong bài viết dưới đây.

Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo quyền được chăm sóc, vui chơi, học hành của trẻ em. 

“Trẻ em như búp trên cành/ Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”. Lời dạy và nhắn nhủ của Bác Hồ với các em nhỏ là điều mà mỗi bậc làm cha, làm mẹ ai cũng mong muốn và luôn dành tất cả những điều tốt đẹp để con em mình trở thành những mầm non tươi xanh của đất nước. Thế nhưng, đi ngược lại với luân thường, đạo lý, nhiều đối tượng đã dùng trẻ em như một công cụ, thủ đoạn để kích động chống phá đất nước. Trẻ em với tâm hồn ngây thơ, trong sáng, muốn được đến trường để vui chơi, học tập. Thế nhưng, ước mơ trong sáng, hồn nhiên, tươi vui của các em đã bị một số thành phần có tư tưởng thù địch, chống đối chế độ lấy đi vì những mục đích chính trị đen tối. Để thực hiện âm mưu chống phá Việt Nam, chúng đã kích động, xúi giục các gia đình bắt con em mình bỏ trường, bỏ lớp, thậm chí xuống đường cầm theo băng rôn, biểu ngữ biểu tình, gây rối.

Trong vấn đề này, ngoài sự xúi giục của các thế lực thù địch, kích động giật dây, điều hành từ nước ngoài, chúng ta cũng thấy có trách nhiệm rất lớn của gia đình, nhà trường và xã hội. Người lớn đã vô tình biến con em mình thành công cụ cho các đối tượng chống phá đất nước. Sự trong sáng của trẻ em bị họ lấy đi một cách vô tình mà cha mẹ không biết, hoặc biết mà vẫn cố tình nghe theo vì một lợi ích mơ hồ, viển vông, không thực tế. Câu hỏi đặt ra là, ai sẽ được lợi trong việc này? Chắc chắn không phải là trẻ em, chắc chắn cũng không phải là gia đình và cũng không phải là xã hội. Hậu quả thì đã rõ, trẻ em không đến trường, việc học tập bị gián đoạn, gia đình thì rơi vào chia rẽ, địa phương mất ổn định, chính trị, xã hội, an ninh trật tự không được bảo đảm. Và đất nước sẽ mất thêm nhiều thời gian, công sức để giải quyết hậu quả. Vậy thì người được lợi chắc chắn không ai khác, đó là các thế lực thù địch, phản động. Trong khi những gương mặt non nớt của trẻ thơ còn bơ phờ, lạc lõng bám theo đoàn người gây rối thì những đối tượng xấu, những kẻ chủ mưu của sự lợi dụng ấy lại đang mỉm cười, hả hê phía sau bàn phím.

Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội của chúng ta đã và đang có rất nhiều chủ trương, hành động để chăm sóc, bảo vệ trẻ em, vun đắp cho trẻ em có được tương lai tươi sáng. Chính phủ cũng đã có chỉ thị về việc tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em. Chỉ thị yêu cầu, cần xử lý nghiêm các hành vi xâm hại trẻ em; cần lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của trẻ em; ưu tiên xây dựng các điểm vui chơi cho trẻ em vùng khó khăn.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nói chung vào BĐBP nói riêng đã và đang có nhiều việc làm ý nghĩa để giúp đỡ những trẻ em nghèo khó. Đó là Dự án “Cán bộ, chiến sĩ nâng bước em tới trường”, chương trình "Nâng bước em tới trường - Con nuôi đồn Biên phòng" đỡ đầu các em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn, dạy học miễn phí cho trẻ em, đóng góp từng đồng lương, phụ cấp ít ỏi của mình để nấu những bát cơm, nồi cháo cho các em nhỏ trên các địa bàn biên giới. Ngay trong đại dịch Covid-19 vừa qua, nhiều em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn đã được các đơn vị quân đội đỡ đầu, trợ cấp và nuôi dạy. Chương trình “Mẹ đỡ đầu” đã được triển khai ở nhiều cấp hội phụ nữ trong toàn quân. Chương trình đã giúp cho các em nhỏ mồ côi có thêm niềm tin và nghị lực sống, vượt qua những tháng ngày khó khăn.

Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai. Trẻ em là mầm non tương lai của đất nước. Nhưng thế giới ngày mai, đất nước ngày mai sẽ như thế nào nếu trẻ em của chúng ta hôm nay cứ mãi bị cuốn vào những hành vi kích động như đã từng xảy ra ở một số địa phương thời gian qua? Những ai còn tin theo kẻ xấu, bắt con em mình bỏ học để tham gia biểu tình, tụ tập đông người chống đối chính quyền, thì hãy nhìn sang các quốc gia ở Trung Đông, Tây Á và châu Mỹ. Những đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn, tuổi học hành được các đối tượng khủng bố huấn luyện để trở thành vật thế thân trong các cuộc chiến tranh, xung đột. Những đứa bé không có tương lai, không có gia đình, không nơi nương tựa. Cuộc sống của các em chìm trong khói súng và bạo lực. Nhiều trẻ em đã bỏ mạng chỉ vì sự ngông cuồng, ích kỷ trong sự mưu toan lợi ích của các phe nhóm, đảng phái chính trị.

Hành vi lợi dụng trẻ em để trục lợi đã vi phạm Công ước của Liên hợp quốc về quyền bảo vệ trẻ em, vi phạm quyền con người và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của trẻ em. Đó cũng là dấu hiệu cấu thành tội phạm tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước. Theo luật pháp Việt Nam, hành vi tuyên truyền chống phá nhà nước là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Và cũng theo Luật Bảo vệ trẻ em, những ai lợi dụng trẻ em để trục lợi có thể bị xử phạt tới 30 triệu đồng, trường hợp đặc biệt sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hãy dành thời gian, công sức chăm lo, vun trồng cho trẻ em những điều tốt đẹp. Mỗi chúng ta hãy vào cuộc để đấu tranh với bất kỳ hành động nào cố tình lợi dụng trẻ em để trục lợi. Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai và ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Nhân “Tháng hành động vì trẻ em” năm 2024, chúng ta hãy cùng chung tay bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đem đến cho các em những điều tốt đẹp nhất, vì một thế hệ tương lai tươi sáng của đất nước.

CĐ, VS (st)

 

Núp bóng môi trường chống phá đất nước

Môi trường và ô nhiễm môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu. Tất cả các quốc gia, không phân biệt trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị, xã hội đều đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, với cách nhìn thiếu thiện chí và chống phá đất nước, các thế lực thù địch đã đưa ra những quan điểm, thủ đoạn xuyên tạc cho rằng, chỉ có ở Việt Nam mới có tình trạng ô nhiễm môi trường. Đồng thời, các thế lực thù địch còn vu cáo Việt Nam bắt bớ, bỏ tù những nhà hoạt động môi trường.


Nhà nước Việt Nam đã và đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp để giữ gìn môi trường sống xanh, sạch, đẹp. 

Ngày 28/9/2023, bà Hoàng Thị Minh Hồng, sinh năm 1972, bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 3 năm tù về tội trốn thuế. Tại tòa, bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng đã thừa nhận hành vi phạm tội và rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình. Có điều đáng ngạc nhiên là, sau khi bà Hoàng Thị Minh Hồng bị bắt, trên các trang mạng như RFA, VOA tiếng Việt... liên tục đăng tải các bài viết vu cáo xuyên tạc cho rằng, Việt Nam đàn áp các nhà hoạt động môi trường. Phi lý hơn, chúng còn kêu gọi các tổ chức và quốc gia nước ngoài can thiệp, yêu cầu Việt Nam phải trả tự do cho Hoàng Thị Minh Hồng.

Liên quan đến vụ việc này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Phạm Thu Hằng đã khẳng định: “Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ những thông tin sai sự thật với dụng ý xấu về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của Việt Nam cũng như về quan hệ đối ngoại. Đây đều là những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam và đã bị điều tra, khởi tố và xét xử theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam”.

Môi trường là vấn đề toàn cầu, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang có nhiều nỗ lực, cố gắng cao nhất để giảm thiểu các hoạt động gây ô nhiễm môi trường. Nhưng các thế lực có ý đồ xấu chống phá Việt Nam luôn tìm cách để đào bới, khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm. Chỉ một vụ việc nhỏ liên quan đến xả thải ra môi trường, hay xây dựng các công trình làm ô nhiễm nguồn nước... là ngay lập tức các đối tượng quy kết, quy chụp thành bản chất của chế độ chính trị.

Nhiều đối tượng còn hô hào lập nhóm, tổ chức diễn đàn trao đổi, thảo luận về vấn đề môi trường ở Việt Nam, nhưng thực chất là để kích động, chống phá Việt Nam. Thiếu tướng Trần Kim Tuyến, nguyên Cục trưởng Cục Phòng chống phản động, Bộ Công an cho biết: “Nói về những diễn đàn bảo vệ môi trường thì theo tôi, cái mục đích của họ không phải là bảo vệ môi trường, mà là lợi dụng vấn đề danh nghĩa bảo vệ môi trường để tiến hành những hoạt động phá rối an ninh trật tự”.

Mạng xã hội đã và đang trở thành một công cụ hữu hiệu để các đối tượng chống phá Việt Nam sử dụng để thổi phồng các vấn đề liên quan đến môi trường ở Việt Nam, tạo thành những điểm nóng thu hút sự quan tâm của dư luận. Đặc biệt, dưới sự điều hành của tổ chức phản động Việt Tân, các đối tượng liên tục tung tin, hình ảnh về các hoạt động gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam. Chúng tạo dựng, cắt ghép, nhào nặn thông tin nhằm làm cho người đọc mơ hồ, hoang mang, hoài nghi, mất niềm tin vào chế độ.

Nhớ lại sự việc ô nhiễm môi trường diễn ra tại Khu kinh tế Vũng Áng do Công ty Formosa gây ra vào năm 2016, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, môi trường đã kích động người dân tập trung đông người tuần hành trái phép, chống người thi hành công vụ, phá hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng. Đặc biệt, đối tượng Hoàng Đức Bình đã nhiều lần sử dụng facebook phát trực tiếp với những hình ảnh, lời lẽ vu khống lực lượng chức năng, mang tính kích động, xuyên tạc sự thật. Theo điều tra của lực lượng chức năng, Hoàng Đức Bình đã từng tham gia nhiều hội nhóm phản động, quan hệ, móc nối với các đối tượng phản động, chống đối trên địa bàn, thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên facebook cá nhân những thông tin, tài liệu tuyên truyền nói xấu chế độ.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Cảnh Thìn, Phó Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống cho rằng, đằng sau những chiêu trò của các thế lực thù địch, không đơn thuần là vấn đề môi trường mà đó là nuôi dưỡng tiến hành một cuộc cách mạng màu ở Việt Nam, nhằm lật đổ chế độ chính trị của Việt Nam. “Chúng ta biết rằng, các thế lực thù địch, phản động không ưa gì chế độ chúng ta. Dù chúng ta có đạt thành tựu đến đâu chăng nữa và có tiến bộ xã hội đến đâu chăng nữa, thì các đối tượng không bao giờ thừa nhận. Cái thứ hai là, chúng lợi dụng tất cả các sự kiện thổi phồng, cắt ghép, bóp méo xuyên tạc kích động, trong đó có vấn đề về môi trường, bé biến thành to, nhỏ biến thành lớn, nhằm gây bất ổn ở Việt Nam” - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Cảnh Thìn cho biết.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng, tác động rất lớn từ biến đổi khí hậu và môi trường. Việt Nam cũng đã chung tay cùng cộng đồng quốc tế để làm cho trái đất xanh hơn. Rất nhiều chương trình được triển khai như trồng 1 tỷ cây xanh, giảm thiểu đun đốt xả thải khí CO2. Tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 diễn ra vào tháng 12/2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 và cam kết giảm phát thải khí methane toàn cầu vào năm 2030, tham gia tuyên bố về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”. Như vậy, Việt Nam luôn tích cực, nỗ lực cố gắng để bảo đảm môi trường sống trở nên trong sạch và thân thiện hơn. Đồng thời, luôn tạo điều kiện tốt nhất cho các tập thể, cá nhân tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường. Những cá nhân, tổ chức nào vi phạm về môi trường sẽ bị xử lý công bằng, nghiêm minh, đúng người, đúng tội.

CĐ, VS (st)

ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TẤT YẾU CỦA THỜI ĐẠI!

BÀI 3: GÓC NHÌN QUỐC TẾ VỀ NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VIỆT NAM!
(Tiếp theo và hết)
     Con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn ngày càng tỏ rõ tính ưu việt và chứng minh sức sống, sức phát triển mạnh mẽ. Điều này đã được nhiều học giả, chính khách quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận!

Đường lối đối ngoại rộng mở góp phần khẳng định vị thế Việt Nam
Với đường lối đối ngoại đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Vì thế, có rất nhiều nước, trong đó có các cường quốc hàng đầu trên thế giới, muốn thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện và đối tác đặc biệt với Việt Nam.

Tính đến tháng 9-2023, ngoài 3 quốc gia thiết lập quan hệ đặc biệt với Việt Nam là Lào, Campuchia và Cuba, có 12 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam, gồm: Nam Phi, Chile, Brazil, Venezuela, Argentina, Ukraine, Đan Mạch, Myanmar, Canada, Hungary, Brunei và Hà Lan.

Ở mức đối tác cao hơn, có 13 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, gồm: Nhật Bản, Tây Ban Nha, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Đức, Italy, Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp, Malaysia, Philippines, Australia, New Zealand. Ở mức độ đối tác cao nhất có 5 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ.

Việc Hoa Kỳ từng là quốc gia cựu thù với Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài 30 năm, cũng là nước đứng đầu thế giới tư bản công nhận thể chế chính trị của nước ta, ủng hộ một nước Việt Nam mạnh, độc lập, thịnh vượng và tự cường để thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện là hợp tác lâu dài, tin cậy lẫn nhau và sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực, cùng mang lại lợi ích chiến lược cho cả hai bên.

Kể từ khi đổi mới, Việt Nam không chỉ chủ động hội nhập quốc tế mà còn đóng góp nhiều sáng kiến để hóa giải các vấn đề toàn cầu. Là thành viên tích cực và chủ động, Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc và được quốc tế đánh giá cao. Ông Kamal Malhotra, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022, nhận định: "Nếu chúng ta nói về những kết quả trong 10 năm trở lại đây, Việt Nam có thể tự hào khi đứng trong hàng ngũ các nước đi đầu thực hiện các mục tiêu của Liên hợp quốc. Việt Nam cam kết mạnh mẽ để không ai bị bỏ lại phía sau". Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đánh giá: Việt Nam luôn là đối tác mạnh nhất của Liên hợp quốc kể từ khi gia nhập năm 1977; vai trò đầu tàu trong việc đạt được các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là nền tảng vững chắc giúp Việt Nam triển khai Chương trình phát triển bền vững 2030. Việt Nam đã và đang có những đóng góp quan trọng trong việc ủng hộ hòa bình bền vững.

Nhận được sự tín nhiệm cao của cộng đồng quốc tế, năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu ủng hộ cao nhất trong số 14 nước thành viên mới (184/192). Tiếp đến, ngày 11-10-2022, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Ngày 7-6-2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021. Với 15 thành viên, trong đó có 10 thành viên không thường trực, Hội đồng Bảo an là một trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc được trao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tiếp theo nhiệm kỳ đầu tiên của Việt Nam trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2008-2009, năm 2019 là lần thứ hai Việt Nam được bầu làm thành viên của cơ quan quyền lực cao nhất này của Liên hợp quốc.

Thành tựu của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận
Uy tín Việt Nam có được là nhờ những thành tựu của Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Các chuyên gia thuộc Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) nhận định: Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và có nhiều tác động khó lường, ảnh hưởng lớn đến kinh tế-xã hội, khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo trên toàn cầu, việc Việt Nam vẫn duy trì được vị trí trong nhóm 50 quốc gia dẫn đầu thế giới là một nỗ lực rất lớn, đồng thời là tấm gương cho các nước đang phát triển khác. Theo Báo cáo về xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2021, Việt Nam được xếp thứ 44/132 quốc gia, nền kinh tế. Việt Nam là tấm gương cho các nước đang phát triển khác trong việc coi đổi mới sáng tạo là một ưu tiên quốc gia.

Nhiều hãng truyền thông quốc tế như AP, Reuters, Bloomberg, Global Times... khi đưa tin về Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã ca ngợi thành công về kinh tế và khả năng của Việt Nam ứng phó với đại dịch Covid-19, trở thành hình mẫu của thế giới về phòng, chống đại dịch và là điểm sáng của phát triển kinh tế khu vực châu Á với GDP năm 2020 đạt mức tăng trưởng 2,91% trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới lâm vào suy thoái. Báo Times Kuwait nhận định: “Việt Nam được biết đến là một quốc gia an toàn và chỉ số về an ninh con người đang được cải thiện. Với sự ổn định về chính trị, người dân Việt Nam tin tưởng vào hệ thống chính trị và các cấp lãnh đạo của Đảng, do đó các quyết sách quan trọng của Đảng thường được người dân Việt Nam hoàn toàn ủng hộ”.

Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá: “Với nền kinh tế ngày càng mở, đa dạng và đầu tư lớn vào nghiên cứu và phát triển, bao gồm cả lĩnh vực kinh tế số, Việt Nam là đối tác quan trọng trên mọi lĩnh vực, là nền kinh tế năng động, có môi trường đầu tư thân thiện, hệ thống chính trị ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác đối ngoại và là nhân tố quan trọng trong hợp tác kinh tế quốc tế”. Trang tin focus1.kr (Hàn Quốc) cho rằng: “Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là dấu mốc lớn trong quá trình phát triển của Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng tương lai phát triển của đất nước”.

Giáo sư Alexander Sokolovsky tại Khoa Châu Á-Thái Bình Dương, thuộc Viện Phương Đông của Đại học Viễn Đông (Nga) nhận định: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là Đảng của nhân dân, vì nhân dân, luôn biết lắng nghe mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Đảng đã kịp thời đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kể từ Đại hội lần thứ VI đến nay. Trong thế giới toàn cầu hiện đại, Việt Nam đã vươn tầm khỏi biên giới khu vực Đông Nam Á và tự tin bước trên con đường hợp tác quốc tế với tất cả các nước trên thế giới. 

Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đến năm 2025, Việt Nam sẽ vượt qua Philippines và Singapore vươn lên đứng thứ ba Đông Nam Á với GDP hơn 571 tỷ USD. Trong vòng hai thập kỷ, Việt Nam đã thực sự đổi mới thành công, trở thành công xưởng sản xuất đang lên của thế giới. Ngân hàng HSBC nhận định, với xuất phát điểm chỉ là một nước xuất khẩu hàng may mặc và da giày có giá trị gia tăng thấp, đến nay Việt Nam đã trở thành một trung tâm sản xuất quan trọng trong lĩnh vực công nghệ. Tờ The Diplomat nhận định: “Việt Nam đã phát triển từ một trong những nền kinh tế "nhỏ nhất" trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất. Năm 1986, khi bắt đầu đổi mới, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam lên tới 378% và Việt Nam là một trong những quốc gia nghèo nhất trong khu vực với tỷ lệ người nghèo hơn 70%. Đến năm 2020, lạm phát xuống mức 4%, tỷ lệ người nghèo còn 5%. Nhờ đạt được nhiều thắng lợi trên mặt trận kinh tế, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng 10 lần, từ dưới 300USD vào thập niên 1980 lên 2.800USD vào năm 2020.

Nhìn lại toàn bộ sự phát triển theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có thể hoàn toàn tự tin khẳng định: Đường lối cách mạng của Đảng nhằm đưa Việt Nam phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở trung thành, kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, vừa phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại trong kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là đóng góp thực tiễn và lý luận có ý nghĩa rất quan trọng của Đảng ta vào hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học trên thế giới./.
Yêu nước ST.

ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TẤT YẾU CỦA THỜI ĐẠI!

BÀI 2:  CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM LÀ ĐÚNG ĐẮN, HỢP THỜI!
     Mặc dù chủ nghĩa xã hội (CNXH) tạm thời lâm vào thoái trào sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trung thành, kiên định với Chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam để đưa đất nước tiếp tục phát triển đi lên CNXH và đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng!

Con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam
Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: CNXH là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”.

Con đường phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm ra cách đây hơn một thế kỷ khi Người tiếp cận Luận cương của Lênin về các dân tộc thuộc địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô-nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và trực tiếp lĩnh hội tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

Người nhận định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất đứng lên tự giải phóng. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(1).

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc cho ra đời tác phẩm “Đường Kách mệnh”-giáo trình lý luận để huấn luyện các chiến sĩ cộng sản đầu tiên, tạo tiền đề để tổ chức Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Hội nghị thông qua Cương lĩnh, Chính cương và Điều lệ vắn tắt của Đảng.

Đây là những văn kiện đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng xác định đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (năm 1951) xác định nhiệm vụ hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH. 

Thực hiện Cương lĩnh của Đảng, sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc là yếu tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết định thắng lợi của nước ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước vào năm 1975. 

Sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử
Trong thập niên 1980, tình hình thế giới trải qua những chuyển biến kinh tế và chính trị sâu sắc. Trong đó, Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ. Trên cơ sở nhận định nhạy bén và sáng suốt rằng công cuộc cải tổ ở Liên Xô đi ngược lại những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về CNXH, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) thông qua nghị quyết có ý nghĩa lịch sử về thời kỳ quá độ phát triển theo con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam.

Đường lối đổi mới của Đảng ta đề ra tại Đại hội VI là sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam mà cụ thể là chính sách kinh tế mới của Lênin. Theo đó, Đảng ta thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; kế thừa và áp dụng thành tựu về quản lý kinh tế theo cơ chế kinh tế thị trường; chấp nhận sự tồn tại đan xen của các loại hình sở hữu nhà nước, tập thể và tư nhân; chăm lo đến lợi ích thiết thân của người lao động.

Đồng thời, Đảng ta quyết định thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, với chủ trương Việt Nam là bạn với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh xác định: “Phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống được những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên”. Cương lĩnh chính trị không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta mà còn đối với phong trào cách mạng thế giới.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển), một lần nữa khẳng định: "Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) tiến hành tổng kết 30 năm đổi mới và đưa ra nhận định: “Đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) nhận định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”; đồng thời khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Thành tựu đổi mới đất nước là minh chứng sinh động
Thành tựu của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới đã được khẳng định bằng các số liệu “biết nói”. Trước đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, khủng hoảng kinh tế-xã hội diễn ra gay gắt, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, quy mô Tổng sản phẩm nội địa (GDP) năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, đưa nước ta trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, đạt mức 3.512USD.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, hiện nay Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới. Việt Nam coi việc phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa-xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình hằng năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 3% năm 2020(2).

Với đường lối đối ngoại đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với khoảng 190 quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập quan hệ đối ngoại Đảng với 254 chính đảng ở 114 quốc gia.

Đến nay, đã có hơn 70 quốc gia công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đã ký kết 15 Hiệp định tự do thương mại (FTA) khu vực và song phương. Các FTA Việt Nam tham gia bao phủ khoảng 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế-thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. 

Cách đây hơn 30 năm, năm 1992, đồng chí Nguyễn Phú Trọng trên cương vị Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản công bố bài viết “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” từng đưa ra nhận định, thất bại của CNXH ở Liên Xô chỉ là tạm thời, còn quy luật khách quan không ai cưỡng lại được vẫn là CNXH sẽ phủ định và thay thế chủ nghĩa tư bản (CNTB). 

Gần 30 năm sau, năm 2021, trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu vấn đề: “Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên CNXH ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên CNXH lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của CNXH, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác CNXH, ca ngợi một chiều CNTB. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo Chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay CNTB, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?”. 

Bằng những lập luận khoa học, sắc bén, có sức thuyết phục cao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định rằng, ngay từ khi thành lập, Đảng ta luôn trung thành, kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đưa đất nước ta tiếp tục phát triển đi lên CNXH phù hợp xu thế tất yếu của thời đại./.
-----------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 1980, tập 12, tr.461
(2) “Những thành tựu to lớn sau gần 40 năm đổi mới đất nước”; https://tuyengiao.vn/thoi-su/nhung-thanh-tuu-to-lon-sau-gan-40-nam-doi-moi-dat-nuoc-146363, 13-9-2023.
(còn nữa)
Yêu nước ST.

ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TẤT YẾU CỦA THỜI ĐẠI!

BÀI 1: KHÔNG PHẢI LÀ “ SỰ CÁO CHUNG CỦA LỊCH SỬ”!
     Sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô và một số nước Đông Âu sụp đổ (năm 1991), trên thế giới xuất hiện luận thuyết chính trị về "sự cáo chung của lịch sử” với hàm ý chủ nghĩa tư bản (CNTB) sẽ vĩnh viễn ngự trị trên thế giới, còn chủ thuyết về CNXH được xây dựng trên cơ sở hệ tư tưởng Mác-Lênin sẽ bị lịch sử đào thải. Tuy vậy, những thành tựu to lớn trong xây dựng CNXH ở một số nước đã khẳng định nhận định trên là vội vàng, quy chụp. Sự thật cho thấy, sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đang minh chứng rõ ràng về xu hướng đi lên CNXH là quy luật tất yếu của lịch sử loài người!

Diễn biến tình hình thế giới trong hơn 30 năm kể từ khi mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô sụp đổ đã đặt dấu hỏi nghi vấn về luận thuyết chính trị “sự cáo chung của lịch sử”. Vì thực tế một số quốc gia rất thành công khi vẫn kiên định lựa chọn con đường phát triển đi lên CNXH, điển hình là Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác. Trong khi đó, CNTB trong kỷ nguyên toàn cầu hóa sau Chiến tranh lạnh đã lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống, đẩy thế giới tới tình cảnh bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội ngày một lớn.

Những khiếm khuyết khó có thể lấp đầy dưới chế độ tư bản
Sau Chiến tranh lạnh, CNTB từng bước lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống; mức sống của người dân ngày càng giảm sút do giá cả và lạm phát tăng cao; người dân phải đóng thuế cho các cuộc chiến tranh và xung đột triền miên; sự suy thoái các giá trị tinh thần-đạo đức truyền thống; tệ quan liêu của giới tinh hoa chính trị cầm quyền; tệ tham nhũng; nạn di cư ồ ạt trên phạm vi toàn cầu; sự biến đổi khí hậu trái đất chưa được ngăn chặn; nạn ma túy, chủ nghĩa khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia hoành hành ở nhiều nước trên thế giới.

Nhận định về cuộc khủng hoảng của CNTB, cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel từng nói: “Đã đến lúc thế giới phải chấp nhận thực tế là, sau gần một phần tư thế kỷ kể từ khi nước Đức thống nhất và kết thúc Chiến tranh lạnh, thế giới đang bước sang một kỷ nguyên lịch sử khác thay thế kỷ nguyên ưu thế thuộc về phương Tây”.

Diễn đàn Kinh tế thế giới tại Davos năm 2019 với chủ đề “Toàn cầu hóa 4.0: Định hình cấu trúc thế giới trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đưa ra nhận định, CNTB thế giới đang bước vào kỷ nguyên của những chuyển dịch căn bản do tác động của cục diện kinh tế và chính trị trên phạm vi toàn cầu trong giai đoạn chuyển tiếp từ Cách mạng công nghiệp 3.0 tới Cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó đang diễn ra quá trình sắp xếp lại bức tranh kinh tế và chính trị toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, đại dịch Covid-19 đã phần nào phơi bày những “ung nhọt” của các nước tư bản hàng đầu thế giới. Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres nhận định: “Đại dịch Covid-19 chứng tỏ, đã đến lúc thế giới (CNTB) cần tiến hành công cuộc tái cấu trúc hướng tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế và cộng đồng xã hội bình đẳng, toàn diện, bao trùm, có khả năng phát triển bền vững hơn khi phải đối mặt với các rủi ro như đại dịch, biến đổi khí hậu, sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư, nạn nghèo đói, sự cạn kiệt tài nguyên, nạn ô nhiễm môi trường trên quy mô toàn cầu, tội phạm xuyên quốc gia và khủng bố quốc tế"(1). 

Đại dịch Covid-19 chứng tỏ mô hình dân chủ tự do ở đa số các nước phương Tây không còn là khuôn mẫu thế giới, làm tan biến huyền thoại về tính ưu việt của mô hình kinh tế và chính trị của CNTB. Giáo sư Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2020 nhận định: Khi Covid-19 mới bùng phát, nhiều người dự báo đại dịch này sẽ tạo ra sự bình đẳng vĩ đại, trong đó không còn phân biệt người nghèo và người giàu, nhưng thực tế lại chứng tỏ đại dịch này đã khoét sâu thêm sự bất bình đẳng trong xã hội. Nếu không có các biện pháp hóa giải, tất cả các quốc gia, dưới hình thức này hay hình thức khác, sẽ phải đối mặt với sự bất ổn xã hội ngày càng gia tăng. Đại dịch Covid-19 đã đẩy CNTB thế giới tới trước một sự lựa chọn mang tính lịch sử: Tiếp tục phát triển theo mô hình hiện hành mà không thể hóa giải được những thách thức mang tính toàn cầu hoặc là phải tái cấu trúc để chuyển sang mô hình khác có khả năng hóa giải các thách thức đó(2).

Chủ nghĩa tư bản không ngừng điều chỉnh để thích nghi
Để tái cấu trúc mô hình hiện hành của CNTB, nhóm chuyên gia kinh tế hàng đầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới đề xuất phát triển nền kinh tế bao trùm, hoặc nền kinh tế toàn diện, với 5 yếu tố: Cùng tham gia, bình đẳng, tăng trưởng, ổn định và bền vững.

“Cùng tham gia” có nghĩa là tạo cơ hội cho tất cả mọi người, không có ngoại lệ, được tham gia các quá trình kinh tế như tiếp cận thị trường với tư cách là người lao động, người tiêu dùng và chủ doanh nghiệp.

“Bình đẳng” có nghĩa là tạo cơ hội cho tất cả mọi người, không có ngoại lệ, được tiếp cận hàng hóa, dịch vụ, cơ sở hạ tầng công cộng, giáo dục, y tế, và được hưởng môi trường không khí trong lành và nước sạch; các công ty phải có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu của tầng lớp lao động sống dưới mức nghèo khổ.

“Tăng trưởng” có nghĩa là chuyển đổi nền kinh tế để cải thiện điều kiện sống của tất cả mọi người, kể cả người nghèo; thay thế việc sử dụng GDP như là chỉ số tăng trưởng kinh tế bằng các chỉ số khác phản ánh mức độ hạnh phúc của người dân.

“Ổn định” có nghĩa là mọi người dân phải được bảo đảm về xã hội, các quyết sách của chính phủ phải được minh bạch và có thể dự báo được.

“Bền vững” có nghĩa là phải tính đến lợi ích dài hạn khi sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên xã hội và con người(3).

Theo Giáo sư Klaus Schwab, đã đến lúc CNTB phải đổi mới mô hình phát triển. Hiện nay trên thế giới đang vận hành 3 mô hình CNTB. Một là, mô hình CNTB cổ đông (shareholder capitalism) đang được hầu hết các nước tư bản trên thế giới áp dụng nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận bằng mọi giá. Hai là, mô hình CNTB nhà nước (state capitalism) hiện được áp dụng ở đa số các nước đang phát triển, chủ yếu là ở châu Á, trong đó chính phủ nắm trong tay mọi cơ hội, khả năng và đòn bẩy để định hướng phát triển kinh tế. Ba là, mô hình CNTB toàn diện (inclusive capitalism), hoặc CNTB có trách nhiệm xã hội, trong đó các công ty bắt đầu nhận thấy họ không chỉ là tổ chức kinh tế mà còn là tổ chức xã hội, được xã hội ủy thác, hoạt động không chỉ nhằm thu được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế cao mà còn phải tập trung nỗ lực khắc phục hậu quả tiêu cực đối với xã hội như sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, ô nhiễm môi trường, nạn thất nghiệp, tham nhũng(4). 

Mô hình được áp dụng nhiều nhất hiện nay trên thế giới là CNTB cổ đông, đã từng trở nên phổ biến ở Mỹ trong thập niên 1970 và lan tỏa trên toàn cầu trong những thập kỷ tiếp theo. Sự phát triển nhanh chóng của mô hình này thu hút hàng trăm triệu người trên khắp thế giới phát triển thịnh vượng, đứng ra thành lập các công ty cổ phần để tìm kiếm thị trường và tạo việc làm nhằm thu về lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, do CNTB cổ đông thường theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn và không chú ý đến các mục tiêu dài hạn, nên đã từng gây ra hậu quả tiêu cực đối với xã hội và môi trường. Vì thế, hiện nay, CNTB cổ đông đang từng bước được thay thế bằng CNTB có trách nhiệm xã hội, hoặc CNTB toàn diện. Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres cho rằng, với CNTB có trách nhiệm xã hội, thế giới sẽ phải hành động chung và nhanh để cải cách tất cả các lĩnh vực đời sống và nền kinh tế, từ giáo dục đến y tế.  

Như vậy, CNTB thế giới đang đứng trước sự phát triển có tính bước ngoặt lịch sử, phải tiến hành cuộc “tái cấu trúc” hướng tới các giá trị như xóa bỏ bất bình đẳng xã hội, đề cao nhân phẩm con người, xóa bỏ tận gốc tình cảnh nghèo đói và tình trạng thất nghiệp, chống tham nhũng, bảo vệ môi trường, xây dựng hệ thống giáo dục và y tế phổ cập toàn dân... Những giá trị đó tương đồng với mục tiêu và các giá trị của CNXH hiện thực trong thế kỷ 20.

Những giá trị tốt đẹp của CNXH và xu thế tất yếu của thời đại
Không phải ngẫu nhiên mà ngay trong lòng các nước tư bản phát triển hàng đầu thế giới, các giá trị của CNXH lại đang thu hút được sự quan tâm của đông đảo người dân và cả giới tinh hoa chính trị. Có khoảng 57% dân số ở các nước tư bản phát triển hàng đầu thế giới không hài lòng với mô hình CNTB hiện hành ở Mỹ và nhiều nước phương Tây. Các tầng lớp xã hội ở nhiều quốc gia bị vỡ mộng với mô hình dân chủ tự do của CNTB. 

Theo kết quả thăm dò dư luận của Viện Galupp (Mỹ), trong năm 2018, có đến 51% thanh niên Mỹ và 57% đảng viên Đảng Dân chủ Mỹ có cảm tình với các giá trị của CNXH. Ở Cộng hòa Liên bang Đức, người dân đã từng sống ở Cộng hòa Dân chủ Đức đang muốn được quay trở lại chế độ XHCN. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội tiến hành trong năm 2023, có tới 80% người Nga được hỏi ý kiến coi chế độ XHCN thời Xô viết là tốt đẹp và có 63% ý kiến tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô. Trong bối cảnh đó, Francis Fukuyama, tác giả của luận thuyết về “sự cáo chung của lịch sử” cũng phải thừa nhận rằng mô hình CNTB hiện hành đang trên đà suy thoái.  

Rõ ràng là, CNXH hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào cuối thế kỷ 20 hoàn toàn không phải là “sự cáo chung của lịch sử” mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể. Còn CNXH với những giá trị tốt đẹp nhất như là một nấc thang phát triển của loài người để tiến lên chủ nghĩa cộng sản vẫn là xu thế tất yếu của thời đại và đã từng được V.I.Lênin, lãnh tụ của cuộc cách mạng XHCN đầu tiên trên thế giới ở nước Nga dự báo cách đây hơn 100 năm: “CNTB nhà nước độc quyền là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho CNXH, là phòng chờ đi vào CNXH”(5)./.
------------------------
(1) Valentin Katasonov, “Covid 19 khởi đầu cuộc tái cấu trúc vĩ đại”; https://www.fondsk.ru/news/2020/12/19/covid-19-nachalo-velikoj-perestrojki-52510.html, 19-12-2020
(2) Klaus Schwab và Thierry Malleret,“Cuộc tái cấu trúc vĩ đại”; http://digital-economy.ru/mneniya/the-great-reset-klausa-shvaba-i-terri-mallereta-kak-novyj-manifest-ultraglobalistov, 23-3-2021
(3) Mikhail Overchenko, “Diễn đàn Davos công bố tuyên ngôn cho giới doanh nghiệp”; https://www.vedomosti.ru/economics/articles/2020/01/14/820569-davosskii-forum-manifest-biznesa, 14-1-2020
(4) Klaus Shhwab, “Chúng ta muốn phát triển loại chủ nghĩa tư bản nào?”; https://www.project-syndicate.org/commentary/stakeholder-capitalism-new-metrics-by-klaus-schwab-2019-11, 2-12-2019
(5) “Phân tích của Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước”; https://laws.studio/istoriya-ekonomiki-knigi/leninskiy-analiz gosudarstvenno-45648.html.
(Còn nữa).
Yêu nước ST.

KHÔNG ĐỂ CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG CUỘC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM!

     Thời gian qua, lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thông qua nhiều âm mưu nham hiểm nhằm xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam!

Sự nham hiểm của những luận điệu xuyên tạc
Biển là không gian chiến lược mở, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đường lối, chiến lược và tương lai phát triển của đất nước. Biển Đông là “bản lề” nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là nơi hội tụ lợi ích chiến lược và thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn. Về mặt tiềm năng phát triển, Biển Đông có nhiều lợi thế. Nơi đây đã và đang trở thành tâm điểm của sự cạnh tranh lợi ích, quyền lực và tầm ảnh hưởng của các nước lớn, được các chuyên gia quân sự ví như vùng “chảo lửa” trên bàn cờ chính trị của khu vực với nhiều diễn biến phức tạp, nhạy cảm.

Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị khai thác triệt để, biến tấu thành nhiều bài viết, hình ảnh, video nhằm bịa đặt tình hình, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; lợi dụng các trang mạng xã hội để lan truyền, tán phát thông tin, gây tâm lý hoang mang, bất ổn, chia rẽ đoàn kết trong nước và quốc tế.

Với những nội dung xuyên tạc xảo trá, họ thường lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng: “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông”; Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước lớn, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình Biển Đông, không có giải pháp đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo... Những thông tin xuyên tạc này ít nhiều đã tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là kiên quyết, kiên trì đấu tranh quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên các vùng biển, đảo quốc gia. Sinh thời, khi đến thăm cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.

Những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ phát triển mạnh kinh tế-xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo”. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng không thể tách rời, bất khả xâm phạm của Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc nói chung, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, bảo đảm an ninh, an toàn và lợi ích quốc gia-dân tộc trên các vùng biển, đảo nói riêng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình hoạch định và triển khai thực hiện đường lối bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để phát triển kinh tế biển gắn với quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia bằng biện pháp hòa bình
Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và hoàn toàn có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn.

Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.

Trên thực tế, trong những thời điểm mà quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình trên các diễn đàn quốc tế, khu vực thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi đoàn các cấp trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao; chủ động kiềm chế, không có các hành động khiêu khích, không làm phức tạp tình hình; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thể hiện thiện chí để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình để giải quyết bất đồng, tranh chấp với các bên, các nước có liên quan, như biện pháp ngoại giao (đàm phán hòa bình; thương lượng; điều tra; trung gian hòa giải; sử dụng các tổ chức quốc tế, khu vực; ký kết các hiệp định song phương, đa phương...).

Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để xử lý các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển; duy trì quan hệ hữu nghị với các bên, các nước. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm nhưng cũng không để xảy ra xung đột; kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở thượng tôn luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và nguyên tắc chung sống hòa bình. Coi trọng thúc đẩy xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác đa phương trên các lĩnh vực bảo đảm an ninh, nghiên cứu khoa học-công nghệ, phòng, chống tội phạm trên biển... để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Một mặt, Việt Nam không tạo phe, không kết nhóm, không chọn bên, không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam nhằm tấn công các nước khác, không đi theo nước này để chống lại nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, chúng ta cũng không mơ hồ, mất cảnh giác, né tránh, nhân nhượng vô nguyên tắc, không thụ động, không dựa dẫm, không trông chờ ỷ lại; không mắc mưu lôi kéo, kích động, khiêu khích của bất cứ thế lực nào; chỉ chọn theo chân lý, đứng về lẽ phải, dựa trên luật pháp quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển.

Nhằm quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ tối đa sự đồng thuận, ủng hộ của các bên liên quan cùng các nước trong khu vực và trên thế giới để hạn chế những bất đồng, khắc phục sự khác biệt, triệt để khai thác các nhân tố có lợi từ bên ngoài tạo thành sức mạnh tổng hợp.

Tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư, dân quân tự vệ biển) vững mạnh; xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng chính trị-tinh thần vững chắc.

Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ biển, đảo phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc phòng về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.

Những quan điểm nêu trên là đường lối chính trị, căn cứ pháp lý để xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nước, quốc tế, tạo thành nền tảng và sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời là cơ sở để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; để dư luận quốc tế hiểu rõ về lập trường, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia trong tình hình hiện nay./.
Yêu nước ST.

BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN LÝ LUẬN GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN!

     Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực phản động, thù địch và cơ hội chính trị đưa ra nhiều luận thuyết, quan điểm khác nhau nhưng đều hòa chung một “dàn hợp xướng” tiến công Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy, việc nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ, giữ vững bản chất khoa học, cách mạng lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong tình hình hiện nay có ý nghĩa cấp thiết!

Một “mũi nhọn” chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin
Ngay sau khi ra đời, Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp đã vấp phải sự xuyên tạc, chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Hiện nay, lợi dụng những biến động, phức tạp của tình hình thế giới, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động lại càng ra sức chống phá lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin quyết liệt hơn.

Trong “dàn hợp xướng” đó, một số học giả tư sản do không hiểu đúng hoặc cố tình không hiểu bản chất lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nên họ cho rằng: Ngay từ khi lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời đã là sai lầm và hiện nay càng lỗi thời, không phù hợp; việc khẳng định đấu tranh giai cấp là một trong những động lực trực tiếp của sự phát triển lịch sử, là tuyệt đối hóa vai trò của đấu tranh giai cấp, của bạo lực cách mạng là “chia rẽ, cực đoan”, kích động chiến tranh, cổ vũ cho bạo lực trong xã hội (!).

Lợi dụng sự khủng hoảng, sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội xét lại càng được dịp tung hô: Đây là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp (!). Lợi dụng sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản, họ rêu rao rằng: Ngày nay chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất, đã trở thành “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, nhà nước tư bản đã là “nhà nước phúc lợi chung”, không còn dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê; công nhân ở các nước tư bản không còn bị bóc lột và địa vị của người công nhân đã có sự thay đổi căn bản, ở nhiều nhà máy, công ty, công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu, họ không còn là giai cấp vô sản nữa. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản cũng không còn mang tính chất đối kháng như trước đây (!).

Còn ở Việt Nam, họ cho rằng: Trong xã hội Việt Nam kết cấu giai cấp có tính đặc thù nên khác với các quốc gia, dân tộc khác, vì vậy việc vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là không phù hợp; giai cấp công nhân Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc; ngày nay, trong điều kiện hòa bình, hội nhập, thời kỳ của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của kinh tế tri thức, của “văn minh trí tuệ”, nên chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới làm chủ được xã hội, lực lượng tiền phong, có vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam đưa đất nước phát triển văn minh, hiện đại (!). 

Nhận thức đúng về lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Thực ra, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là sự tiếp nối lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại. Thời cổ đại, trong các học thuyết về chính trị xã hội của các nhà tư tưởng như: Heraclitus, ‎Democritos, Sokrates, Platon đều thừa nhận trong xã hội có sự phân chia giai cấp, tầng lớp đối lập nhau và thường xuyên đấu tranh với nhau. Điển hình trong quan niệm về nhà nước lý tưởng của Platon gồm có các tầng lớp người như: Các nhà thông thái, nhà triết học ở địa vị cao nhất; các chiến binh ở địa vị thấp hơn, thứ nữa là những người nông dân và thợ thủ công có nhiệm vụ lao động sản xuất... Sau Platon là Aristoteles, trong tác phẩm “Chính trị và chính thể Aten”, ông cũng đã thừa nhận trong xã hội có người thống trị và người bị trị.

Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội diễn ra gay gắt, đó là cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến, vì vậy quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trở nên rõ ràng hơn. Phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp thời kỳ này thuộc về các học giả: G.Phrangxoa Ghido (1778-1874), Oguytxtanh Chiery (1785-1856) và Phrangxoa Minhe (1796-1884). Các ông cho rằng, những thay đổi quan hệ sở hữu về tài sản, chủ yếu là quan hệ sở hữu về ruộng đất đã đưa tới sự thay đổi về quan hệ giai cấp và sự thay đổi chế độ chính trị.

Kế thừa những tư tưởng giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, C.Mác, Ph.Ăngghen đã đưa ra lý luận khoa học và cách mạng về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tiếp đó, V.I.Lênin đã kế thừa, bổ sung, phát triển toàn diện lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của C.Mác đáp ứng với sự đòi hỏi khách quan của lịch sử. Như vậy, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là sự tư biện, chủ quan của các nhà kinh điển mác-xít, mà chỉ là sự tiếp nối tư tưởng giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại.

Lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện đầy đủ bản chất khoa học, cách mạng của mình, không chỉ ở sự kế thừa những tinh hoa của các nhà tư tưởng triết học trong lịch sử khi bàn về giai cấp và đấu tranh giai cấp, mà còn được thể hiện ở phương pháp tiếp cận và những nội dung hoàn bị về lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ở phương pháp tiếp cận, các nhà kinh điển đã chỉ ra phương pháp luận khoa học đúng đắn, làm cơ sở cho xem xét giai cấp và đấu tranh giai cấp, đó là gắn giai cấp và đấu tranh giai cấp với phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử. Điều đó khác hẳn với phương pháp tiếp cận duy tâm, siêu hình về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà tư tưởng triết học trong lịch sử.

Lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin từ khi ra đời đến nay luôn là cơ sở khoa học cho việc phân tích sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người trong xã hội có giai cấp. Đó là cơ sở khoa học để các chính đảng cộng sản vạch ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn của mình, đáp ứng yêu cầu phát triển của từng quốc gia, dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, chính đảng cộng sản nào trung thành, kiên định và vận dụng đúng đắn, sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng thì cách mạng thành công, phát triển. Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, chính đảng cộng sản nào nhận thức và vận dụng không đúng lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì đều gây thiệt hại cho sự nghiệp cách mạng, thậm chí bị đổ vỡ mất chế độ xã hội.

Trung thành, vận dụng sáng tạo quan điểm mác-xít về lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp
Việc đấu tranh, bảo vệ, giữ vững bản chất khoa học, cách mạng lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin hiện nay là một trong những vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là chúng ta cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng về những vấn đề giá trị cốt lõi lý luận giai cấp, đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Tạo ra sự đồng thuận, thống nhất trong toàn Đảng và toàn xã hội về những vấn đề có tính nguyên tắc, đó là: Kiên định, trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp, đấu tranh giai cấp.

Cần hiểu rằng, trung thành không có nghĩa là khư khư nắm giữ những câu chữ của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai cấp, đấu tranh giai cấp mà phải nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của nó, phải vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của từng quốc gia, dân tộc. Trong việc bảo vệ và phát triển đòi hỏi người cộng sản phải nỗ lực vượt qua bằng bản lĩnh chính trị, bằng năng lực tư duy lý luận sáng tạo, bằng việc tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, bảo thủ cũng như chủ nghĩa cơ hội, xét lại lẫn phương pháp tư duy siêu hình, cực đoan. Qua đó khẳng định rõ những luận điểm nào về giai cấp và đấu tranh giai cấp có giá trị bền vững; những luận điểm nào trước kia đúng nhưng do điều kiện lịch sử đã thay đổi nên không còn phù hợp và cần bổ sung, phát triển cho phù hợp với tình hình mới; những luận điểm nào mà chúng ta hiểu sai do không nghiên cứu đến nơi đến chốn thì hiện nay cần nghiên cứu để hiểu cho đúng; đồng thời phát triển những luận điểm mới về giai cấp và đấu tranh giai cấp mà các nhà kinh điển trước đây chưa đề cập đến.

Đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và của cả hệ thống chính trị, trong đó cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang là lực lượng quan trọng. Vì vậy, mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cần có nhận thức đúng về chức trách, nhiệm vụ của mình; đề cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, nghiên cứu lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt, các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu trong Quân đội cần tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin gắn với lý luận quân sự, quốc phòng, an ninh nhân dân; biên soạn tài liệu định hướng đấu tranh phản bác quan điểm thù địch, phản động và cơ hội chính trị, góp phần hoạch định đường lối bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong tình hình mới.

Lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin là một trong những nội dung lý luận trọng yếu, rường cột của Đảng. Vì vậy, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị không từ bỏ mọi thủ đoạn tấn công, chống phá, xuyên tạc, phủ nhận lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, kiên quyết đấu tranh, bảo vệ, giữ vững lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay./.
Yêu nước ST.

SỰ THẬT CÁI GỌI LÀ “VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN”!

     Những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, với động cơ thiếu trong sáng, vẫn có một số tổ chức quốc tế cố tình đưa ra những báo cáo phiến diện nhằm xuyên tạc tình hình, phủ nhận các thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam!

Đánh tráo khái niệm, xuyên tạc thực tế
Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31-10-2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn xuyên tạc thực tế khi đưa ra đánh giá “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” với minh chứng là cơ quan chức năng xử lý các trang Facebook cá nhân của một vài đối tượng hoạt động chống phá Nhà nước trên mạng xã hội.

Song, điều nực cười là báo cáo trên đã phớt lờ sự thật, rằng internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Internet có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Nhờ đó, sau gần 30 năm kết nối internet, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Trung bình người Việt Nam dành gần 7 giờ/ngày để sử dụng internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Rõ ràng, internet ở Việt Nam đã “bùng nổ” mạnh mẽ, hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như nội dung nêu trong Báo cáo nhân quyền năm 2023. Không thể đồng nhất việc xử lý các đối tượng lợi dụng internet, lợi dụng mạng xã hội để tán phát những thông tin sai trái, chống phá Nhà nước, xâm hại lợi ích của tổ chức, cá nhân, với cái gọi là “hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Bởi việc xử lý các đối tượng dùng internet vi phạm pháp luật là biện pháp đã và đang được tất cả quốc gia áp dụng nhằm lành mạnh hóa môi trường internet, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó có một số nội dung về Việt Nam vừa được công bố hôm 22-4 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22-4-2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam”.

Không thể phủ nhận nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

Thực tế, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Theo đó, nhiều năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Từ năm 2019 đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua 44 luật, trong đó nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Mặt khác, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng...

Đặc biệt, năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình cho sự ghi nhận ấy là việc ngày 11-10-2022, Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người.

Đến đây, chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ cái gọi là “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... được đề cập trong Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ là những nhận định thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam./.
Yêu nước ST.

Đấu tranh đẩy lùi thái độ bàng quan, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

 


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Soi xem mình được mấy “dám”?

 


Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần "7 dám" là quan điểm chỉ đạo được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương nhấn mạnh tại Hội nghị Quân ủy Trung ương 6 tháng đầu năm 2023. Quán triệt, thực hiện tinh thần “7 dám” vừa là giải pháp rất quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, vừa góp phần tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...

Phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, chống quan điểm sai trái để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới

 


Trong cuộc đấu tranh để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh-hệ thống tư tưởng mang ý nghĩa và giá trị thời đại, thì việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Vấn đề này luôn là cốt yếu nhằm thống nhất những nhận thức chưa đúng, đồng thời phản bác sự xuyên tạc nhằm hạ thấp, phủ nhận những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.