Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Thủ tướng mong muốn Samsung tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam

 Thủ tướng Phạm Minh Chính mong muốn Samsung tiếp tục mở rộng đầu tư, mở rộng thị trường đa dạng hóa chuỗi cung ứng, chuỗi liên kết, coi Việt Nam là cứ điểm sản xuất chiến lược, nghiên cứu - phát triển và sản xuất các sản phẩm chủ lực ra thị trường quốc tế.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp ông Lee Jae Yong, Chủ tịch tập đoàn Samsung 

Sáng 2/7, tại thủ đô Seoul, trong chương trình thăm chính thức Hàn Quốc, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tiếp ông Lee Jae Yong, Chủ tịch tập đoàn Samsung.

Tại cuộc tiếp, Chủ tịch Samsung Lee Jae Yong cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ hiệu quả mà phía Việt Nam dành cho tập đoàn, đặc biệt là trong giai đoạn COVID-19 đã giúp Samsung vượt qua các khó khăn, thách thức; cũng như các chính sách mới được Chính phủ Việt Nam chuẩn bị ban hành để tiếp tục hỗ trợ nhà đầu tư trong các lĩnh vực ưu tiên. Chủ tịch Lee Jae Yong cũng cảm ơn Thủ tướng Chính phủ đã dành thời gian dự lễ khai trương Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển của Samsung tại Hà Nội (tháng 12/2022) và sẽ thăm nhà máy bán dẫn của Samsung trong chuyến thăm lần này.

Chủ tịch Samsung Lee Jae Yong đánh giá qua 16 năm, quan hệ hợp tác giữa Samsung với Việt Nam đã phát triển rất rực rỡ, đồng hành với sự phát triển của Việt Nam, "thành công của Việt Nam là thành công của Samsung, sự phát triển của Việt Nam là sự phát triển của Samsung". Ông cho biết hiện 310 công ty Việt Nam đang là các đối tác trong chuỗi sản xuất của Samsung; có 2.500 kỹ sư, nghiên cứu viên tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển (R&D) của Samsung tại Hà Nội, trong đó có cả bộ phận nghiên cứu trí tuệ nhân tạo bằng các ngôn ngữ ngoài tiếng Việt. Samsung cũng đang nghiên cứu, phát triển thiết bị 5G.

Chủ tịch Samsung Lee Jae Yong cho biết, với tư cách nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất, nhà xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, Samsung cam kết luôn đồng hành với Việt Nam trong phát triển bền vững theo đúng tinh thần "lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ" mà Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhiều lần nhắc tới. Trong đó, Samsung có kế hoạch đầu tư mạnh mẽ trong 3 năm tới để nhà máy tại Việt Nam trở thành cứ điểm sản xuất module hiển thị lớn nhất của tập đoàn trên toàn cầu.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao những kết quả của Tập đoàn Samsung trong quá trình đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, đóng góp tích cực vào phát triển các sản phẩm ứng dụng công nghệ hiện đại, xuất nhập khẩu của Việt Nam và phát triển kinh tế xã hội.

Thủ tướng đánh giá có "6 điểm được" nổi bật trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Samsung trong một năm qua sau cuộc tiếp xúc giữa Thủ tướng và Chủ tịch Samsung Lee Jae Yong tại Hà Nội (tháng 6/2023) nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Yoon Suk Yeol.

"6 điểm được" này bao gồm: Sự gắn kết giữa hai bên chặt chẽ hơn, lãnh đạo Samsung đã có nhiều cuộc gặp với Thủ tướng để thúc đẩy hợp tác; Trung tâm R&D của Samsung đã đi vào hoạt động đạt kết quả tốt; việc kết nối, hợp tác giữa Samsung với Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia của Việt Nam được thúc đẩy, nhất là trong đào tạo nhân lực; việc tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan tới hoạt động của Samsung diễn ra tích cực dù vướng mắc về pháp luật cả ở Việt Nam và thế giới; hai bên đẩy mạnh quá trình phục hồi của Samsung sau đại dịch COVID-19; cùng hướng tới tương lai tốt hơn, tập trung cho nghiên cứu, phát triển và các ngành mới nổi như chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo…

Về các vấn đề mà nhiều nhà đầu tư trong đó Samsung quan tâm, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ Việt Nam đang xây dựng nghị định về thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư nhằm đảm bảo sự ổn định, sức cạnh tranh và hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp đầu tư các dự án lớn trong các lĩnh vực khuyến khích đầu tư như công nghệ cao, chip bán dẫn, AI, trung tâm R&D… Chính phủ cũng đang chuẩn bị ban hành nghị định về cơ chế mua bán điện trực tiếp, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong cung ứng điện.

Quan hệ chính trị - ngoại giao rất tốt đẹp giữa hai nước đang tạo nền tảng vững chắc cho các hoạt động hợp tác, đầu tư của Samsung tại Việt Nam, Thủ tướng hoan nghênh các ý định hợp tác của Samsung thời gian tới với các sản phẩm mới, kết quả mới, nhất là tạo đột phá trong hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Thủ tướng Phạm Minh Chính mong muốn Samsung tiếp tục mở rộng đầu tư, mở rộng thị trường đa dạng hóa chuỗi cung ứng, chuỗi liên kết, coi Việt Nam là cứ điểm sản xuất chiến lược, nghiên cứu - phát triển và sản xuất các sản phẩm chủ lực ra thị trường quốc tế. Thủ tướng cho biết Việt Nam đang tiếp tục đàm phán các hiệp định thương mại tự do, mở rộng các thị trường xuất khẩu mới như Trung Đông, Nam Mỹ, châu Phi, điều này cũng sẽ giúp sản phẩm của Samsung mở rộng thị trường.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị Samsung nâng cao tỉ lệ nội địa hóa, hỗ trợ Việt Nam nâng cao hơn nữa năng lực doanh nghiệp trong nước để có thể tham gia có hiệu quả hơn chuỗi giá trị của tập đoàn; đẩy mạnh hợp tác đưa các doanh nghiệp công nghệ số, các đối tác của Việt Nam trở thành đối tác trong hệ sinh thái của Samsung để nghiên cứu, phát triển các sản phẩm mới mang tính đột phá.

Thủ tướng cũng đề nghị đẩy mạnh các hoạt động của Trung tâm R&D của Samsung tại Hà Nội; hỗ trợ đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực mới nổi, hỗ trợ Việt Nam trong thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ.

Đồng thời, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao ban lãnh đạo Samsung Việt Nam rất trách nhiệm, nhiệt tình, quyết liệt trong công việc, luôn thôi thúc Việt Nam đồng hành với Samsung; nhắc lại mong muốn trong tương lai gần có người Việt Nam tham gia ban lãnh đạo của Samsung Việt Nam và khẳng định, nếu phối hợp công nghệ quản lý của Hàn Quốc với trí tuệ người Việt Nam thì chắc chắn sẽ thành công.

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, bất kỳ hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh nào cũng sẽ có những khó khăn, thách thức, điều quan trọng là hai bên cùng lắng nghe, chia sẻ, tìm giải pháp phù hợp để hóa giải và tiếp tục phát huy những thành quả hợp tác đã có.

Thủ tướng cũng cảm ơn Samsung Việt Nam thời gian qua đã đồng hành cùng Việt Nam trong các hoạt động trách nhiệm xã hội; khẳng định Chính phủ Việt Nam luôn ủng hộ, luôn đồng hành và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tập đoàn triển khai các hoạt động đầu tư kinh doanh có hiệu quả, thành công và bền vững tại Việt Nam. Các bộ trưởng sẽ có trách nhiệm thực hiện các thoả thuận giữa Việt Nam với Samsung.

Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ mong được đón tiếp Chủ tịch Samsung tại Hà Nội với những sản phẩm mới, kết quả mới và sự phát triển thần tốc của Samsung ở Việt Nam.

Samsung Electronics (1969) là tập đoàn điện tử đa quốc gia của Hàn Quốc chuyên sản xuất, kinh doanh hàng điện tử, thiết bị mạng, bán dẫn, sản xuất chip, điện thoại thông minh… Năm 2023, doanh thu đạt khoảng 210 tỷ USD, tổng số lao động là 270.000 người. Công ty đang phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) và 5G, công nghiệp bán dẫn hệ thống, chất bán dẫn bộ nhớ.

Tại Việt Nam, Samsung đã đầu tư 22,4 tỷ USD với số lao động khoảng 90.000 người. Năm 2023, Samsung Việt Nam xuất khẩu 55,7 tỷ USD.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TÍCH CỰC ĐẤU TRANH VỚI "BỆNH NGẠI PHÊ BÌNH"!

     Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng đi vào chiều sâu càng cho thấy rõ vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng trong việc quản lý đảng viên!

Từ các trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, phải xử lý nghiêm khắc, nhất là những trường hợp vi phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, cấp ủy cần rút ra bài học là phải sớm phát hiện những hành vi tiêu cực, biểu hiện suy thoái trong đội ngũ đảng viên để ngăn chặn kịp thời, không để tồn tại kéo dài, tích tụ thành khuyết điểm, vi phạm lớn.

Để làm được điều đó, cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng phải thực hiện nghiêm túc công tác tự phê bình và phê bình, đồng thời phải tích cực đấu tranh với "bệnh ngại phê bình" (biết đồng chí của mình có khuyết điểm nhưng nể nang không nói).

Một tập thể sẽ mất sức chiến đấu khi công tác tự phê bình và phê bình không được thực hiện nghiêm, không đúng thực chất ý nghĩa của nó. Tuy nhiên thực tế cho thấy, có những nơi, người đứng đầu cấp ủy chưa coi trọng đúng mức công tác tự phê bình và phê bình, tổ chức thực hiện công tác này còn mang tính hình thức, đồng thời đối với bản thân cũng chưa tự giác kiểm điểm nghiêm túc, thẳng thắn chỉ ra những yếu kém của mình.

Chính vì lẽ đó mà ở nhiều nơi còn diễn ra hiện tượng phổ biến là cán bộ, đảng viên cấp dưới nói chung ngại phê bình, xuê xoa với khuyết điểm của cấp trên; trong sinh hoạt chi bộ thì ngại nói thật hoặc chỉ nói chung chung, không đi vào vấn đề cụ thể. Hiện tượng nêu trên ấy đã làm cho việc phê bình không còn đúng thực chất, mất đi ý nghĩa. Những biểu hiện vi phạm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên vì thế dễ bị bỏ qua hoặc được bao che cho đến khi trở thành sai phạm lớn, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng.

Vì vậy, để công tác tự phê bình và phê bình bảo đảm đúng thực chất, có hiệu quả, góp phần quản lý tốt đảng viên, giữ gìn sức chiến đấu của tổ chức đảng, chúng ta cần tích cực đấu tranh với "bệnh ngại phê bình".

Cần phải chỉ rõ nguyên nhân vì sao cán bộ, đảng viên ngại phê bình, ngại góp ý với đồng chí, đồng nghiệp, "mũ ni che tai" cho lành, nhất là đối với cấp trên; vì sao nhiều người chọn phương án "im lặng là vàng" hoặc phê bình theo kiểu xuôi chiều "không ảnh hưởng đến ai"… để có giải pháp đấu tranh hiệu quả.

Trong cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhắc nhở: Kiểm điểm, tự phê bình và phê bình là khâu mở đầu, mấu chốt, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần được chuẩn bị thật chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận trọng. Cán bộ, đảng viên nghiêm túc tự phê bình, kiểm điểm, tự soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã xác định nhiệm vụ và giải pháp: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình; Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị-xã hội, nhất là cấp ủy, thường vụ cấp ủy, đề cao và thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý".

Gần đây nhất, Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới (Quy định số 144-QĐ/TW) được Bộ Chính trị ban hành ngày 9/5/2024, trong mục 4, Điều 3 nêu rõ: "Trung thực, thẳng thắn, khách quan, công tâm, tích cực đấu tranh tự phê bình và phê bình, không giấu khuyết điểm, không nói sai sự thật; thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh". Đó là những định hướng để chúng ta tăng cường đấu tranh chống "bệnh ngại phê bình". Phê bình thẳng thắn là giải pháp hiệu quả phòng ngừa những nguy cơ mắc khuyết điểm cho mỗi cá nhân, tổ chức đảng, đồng thời tạo sức mạnh cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ./.
Yêu nước ST.

 

Kiên trì, kiên định bảo vệ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bài 3: Ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân (Tiếp theo và hết)

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc, giả dối, gạt bỏ những luồng thông tin xấu độc làm ô nhiễm môi trường tinh thần của xã hội, chúng ta cần giữ vững niềm tin khoa học, bồi dưỡng tình cảm cách mạng và trau dồi bản lĩnh chính trị. Đó là ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ nhân dân.

Giữ vững niềm tin khoa học

Niềm tin khoa học là niềm tin dựa trên cơ sở khoa học, nắm vững lý luận khoa học và cách mạng, hiểu biết quy luật để nhận thức đúng xu thế vận động, biến đổi và phát triển của lịch sử một cách tất yếu, khách quan.

Niềm tin khoa học không tự có sẵn, không hình thành dễ dàng chỉ một lần là xong và có mãi. Nhận thức là một quá trình, từ hiện tượng tới bản chất, từ đơn giản đến phức tạp, không ngừng khám phá, sáng tạo để nắm vững chân lý và hành động tự giác theo chân lý, theo quy luật.

Niềm tin khoa học do đó gắn liền với trình độ học vấn, học thức, với sự trưởng thành của tư duy lý luận, của phương pháp tư duy khoa học. Con người ta không chỉ lĩnh hội tri thức trong sách vở, qua học tập, lại phải có nhu cầu tự học suốt đời, có thói quen tự tu dưỡng, tự rèn luyện như một nhu cầu văn hóa, để tự làm mới nhận thức của mình mà còn phải chú trọng thực hành trong thực tiễn. Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu về tự học-học trong nhà trường, học qua sách vở và nhất là học trong trường đời thực tiễn, học dân, hỏi dân để hiểu dân, tin dân.

Để có niềm tin khoa học, niềm tin của trí tuệ, niềm tin được dẫn dắt và thúc đẩy bởi lý luận khoa học và cách mạng, vượt lên kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng, thiển cận, tầm thường, tự thanh toán khỏi mình bệnh giáo điều, sách vở, chủ quan duy ý chí, bệnh hình thức, lý luận suông và cả thói coi khinh lý luận, tự trói buộc mình bởi chủ nghĩa kinh nghiệm... cần phải thực hành lý luận trong thực tiễn và từ thực tiễn mà kiểm chứng lý luận, phát hiện lý luận mới. Người có niềm tin khoa học là người có năng lực sáng tạo, có tinh thần đổi mới và tự đổi mới, nhạy cảm với cái mới, có đầu óc phê phán cái cũ lạc hậu, lỗi thời, cái sai trái, cái giả để khẳng định và tin theo cái đúng, cái tốt, cái thật. Như thế, niềm tin khoa học hội tụ cả năng lực khoa học, cả phẩm chất đạo đức và về mặt giá trị, đó là một giá trị văn hóa, hướng tới chân-thiện-mỹ.

Kiên trì, kiên định bảo vệ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bài 3: Ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân (Tiếp theo và hết)
Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn 

 

Niềm tin khoa học mang sức mạnh của lý tính, lý trí, tỉnh táo, sáng suốt, được chứng thực, thử thách trong thực tiễn. Vào năm 1959, trong chuyến thăm Indonesia, nói chuyện trước giới trí thức khoa học tại trường đại học ở thủ đô Jakarta, Hồ Chí Minh khiêm tốn nói trước các học giả nước bạn về việc tự học của mình. Người khẳng định rằng, chính thực tiễn cuộc sống và trong đấu tranh cách mạng mà Người lĩnh hội được những tri thức đích thực. Đó là những tri thức đáng tin cậy nhất. Từ trong kháng chiến, khi viết các tác phẩm “Đời sống mới” và “Sửa đổi lối làm việc”, Người căn dặn chúng ta, về mặt giáo dục và nhà trường, “phải đặc biệt chú trọng dạy và học các môn khoa học về tinh thần và đạo đức”.

Thống nhất lý luận với thực tiễn, theo Hồ Chí Minh là bản chất tối cao của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là bảo đảm chắc chắn để xây dựng niềm tin khoa học duy vật và biện chứng. Nhờ đó, không trì trệ, bảo thủ, chủ quan, tư biện mà cũng không cực đoan, siêu hình, không phiêu lưu mù quáng. Niềm tin khoa học là cơ sở của lòng trung thành xét về mặt lý luận, của tinh thần lạc quan cách mạng vì giác ngộ chân lý và quy luật, vững tin ở triển vọng tương lai ngay cả khi gặp khó khăn, thử thách. “Thắng không kiêu, bại không nản” là vì vậy. Khi khẳng định: “Ta nhất định thắng, địch nhất định thua”, “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”, Hồ Chí Minh thể hiện rõ rệt một niềm tin khoa học mãnh liệt và Người đã gieo niềm tin, truyền cảm hứng cho mỗi chúng ta. 

Chính nhờ vững vàng, kiên định niềm tin khoa học ấy mà chúng ta tin tưởng ở Đảng khi Đảng quyết định đổi mới và hội nhập. Vào lúc thử thách hiểm nghèo khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu đổ vỡ chế độ XHCN, Đảng ta nhanh chóng đưa ra Cương lĩnh 1991 thay Cương lĩnh 1951, lại được bổ sung phát triển ở Cương lĩnh 2011. Đảng ta khẳng định rằng dù có trải qua những bước quanh co phức tạp nhưng chủ nghĩa xã hội (CNXH) vẫn là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử loài người. Triển vọng tốt đẹp thuộc về CNXH chứ không phải chủ nghĩa tư bản, dù chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại. Tuyên bố chính trị đó của Đảng nhanh chóng trở thành ngọn cờ tập hợp các lực lượng cách mạng trong nước và có tầm ảnh hưởng quốc tế, củng cố niềm tin khoa học và niềm tự hào chính đáng của chúng ta về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng. Với Đảng, nhờ có niềm tin khoa học mà Đảng ta giữ vững được phương hướng chính trị, có đường lối đúng, đưa nước ta vượt qua khủng hoảng, tồn tại và phát triển như ngày nay. Dân tin Đảng, niềm tin đó của dân được Đảng ta coi là tài sản vô giá phải giữ gìn và phát huy, không được suy giảm, càng không thể mất. Đó cũng là niềm tin khoa học và sự thủy chung của Đảng đối với nhân dân và dân tộc ta.

Văn kiện Đại hội XIII nêu cao khát vọng phát triển đất nước, khơi gợi và phát huy tinh thần cống hiến của mỗi người dân, tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, coi trọng công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đó là những quyết sách chiến lược vô cùng quan trọng và cần thiết. Đảng ta cũng nhấn mạnh phải đổi mới mạnh mẽ thể chế phát triển, để thực hiện thành công các đột phá chiến lược đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Niềm tin khoa học cho chúng ta sức mạnh để khát vọng đó trở thành hiện thực.

Bồi đắp tình cảm cách mạng

Có niềm tin khoa học là có cơ sở để nuôi dưỡng và rèn luyện tình cảm cách mạng. Đó là một trong những động lực tinh thần mạnh mẽ nhất thúc đẩy hành động cách mạng. Tình cảm cách mạng được xây dựng trên các chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính để chí công vô tư, đặt việc nước, việc dân lên trên hết, trước hết.

Khi cách mạng và Đảng cần, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, sẵn sàng hy sinh cả lợi ích và cuộc sống cá nhân riêng tư, vì sự nghiệp chung với tinh thần “dĩ công vi thượng” như Hồ Chí Minh nhấn mạnh. Còn nhớ, gần hai tháng trước khi mất, ngày 14-7-1969, trả lời phỏng vấn của nữ nhà báo Cuba-đồng chí Mácta Rôhát: “Đâu là điều thiêng liêng nhất?”, Người đã nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Đó là lẽ sống cao thượng được thúc đẩy suốt đời bởi tình cảm cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là đạo đức, là bản lĩnh văn hóa đạo đức của Hồ Chí Minh.

Những ai có tình cảm cách mạng trong sáng sẽ có sự bảo đảm bền bỉ để chống lại và đánh bại chủ nghĩa cá nhân-với lòng tham, tính tham, vụ lợi, vị kỷ-để thực hành lòng yêu nước, thương dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm, để hy sinh và tự nguyện cống hiến, vì nước, vì dân. Tình cảm cách mạng xa lạ đối lập với thói vô trách nhiệm, sự hờ hững, hoài nghi, lãnh đạm, vô cảm mà không ít người mắc phải, trở nên suy thoái, hư hỏng, thành tù binh của chủ nghĩa cá nhân. Đến khi rơi vào những việc làm sai trái, những hành vi bất minh, bất chính, bất liêm, vô sỉ thì thành ra kẻ thù của nhân dân vì đã làm hại dân, hại nước.

Có tình cảm cách mạng mới có thể tâm huyết vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, mới có sức mạnh chống lại mọi sai trái, lỗi lầm, mới đủ dũng khí để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, mà thực chất là bảo vệ nhân dân. Một khi tình cảm cách mạng bị nguội lạnh thì niềm tin sẽ bị lung lay, suy yếu, thậm chí từ bỏ niềm tin, lý tưởng, lẽ sống chỉ vì sự cám dỗ của tiền bạc, danh vọng, địa vị, quyền lực. Rơi vào vô cảm, đó là sự suy đồi về đạo đức, nhân cách, không còn sức đề kháng để tự bảo vệ lương tâm, danh dự, liêm sỉ của mình, càng không thể bảo vệ Đảng, chế độ và nhân dân. Đủ hiểu vì sao, vào lúc này, Đảng ta đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao sự gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.

Trau dồi bản lĩnh chính trị

Kết quả tổng hợp từ giữ vững niềm tin khoa học và bồi đắp tình cảm cách mạng, thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thực hành nhân-trí-dũng-liêm-trung từ vị tướng chỉ huy đến chiến sĩ, từ cán bộ lãnh đạo đến đảng viên và quần chúng sẽ dẫn đến bản lĩnh chính trị.

Bản lĩnh chính trị được hình thành, tôi luyện, thử thách trong thực tiễn, trong đối mặt trực tiếp, cọ xát trực tiếp với thực tiễn, tranh đấu với những tình huống phức tạp. Bản lĩnh chính trị có sức mạnh của trí tuệ khoa học, của đạo đức cách mạng, của cốt cách vững vàng về chính trị, không lung lay, dao động, không do dự, không tự đánh mất niềm tin, không xa dân-cội nguồn sức mạnh của Đảng.

Bản lĩnh chính trị là hành động chứ không phải lời nói suông, trung thực, nhất quán giữa nói và làm, không cơ hội, tùy thời, chỉ chăm lo cho cá nhân mình. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong đổi mới hiện nay là dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động quyết liệt vì lợi ích chung như Đảng đã nhấn mạnh.

Đảng ta khuyến khích những con người như thế và tìm tòi cơ chế để bảo vệ họ, đồng thời cũng áp dụng các chế tài cần thiết để xử lý những cán bộ, đảng viên từ bỏ trách nhiệm, không hành động vì sợ sai lầm, vì tìm sự an toàn cho riêng mình. Rơi vào trường hợp này thì không còn dũng khí, lòng trung thực và trách nhiệm vì sự nghiệp chung, không còn là bản lĩnh chính trị nữa mà trở thành vật cản đối với đổi mới và phát triển. Đó là những người “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”, tự coi mình ở ngoài cuộc, vô can, không chịu trách nhiệm, chỉ chăm lo vun vén, tìm kiếm lợi ích cho riêng mình.

Do đó, muốn có bản lĩnh chính trị để chủ động tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân thì phải đồng thời xây dựng niềm tin khoa học, bồi dưỡng tình cảm, đạo đức cách mạng, nêu cao tự phê bình và phê bình, củng cố sức mạnh của đoàn kết, dân chủ, đồng thuận từ trong Đảng đến trong dân và xã hội, thực hành “quyết tâm-tín tâm-đồng tâm” như chỉ dẫn của Bác Hồ.

Bản lĩnh chính trị là hạt nhân của văn hóa chính trị mà chúng ta phải dày công xây dựng. Chúng ta càng thấy dự cảm sâu sắc của Hồ Chí Minh khi Người nhấn mạnh: “Chính trị là đoàn kết và thanh khiết”, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận càng diễn biến phức tạp bao nhiêu thì những điều cốt yếu nói trên càng cần thiết và quan trọng bấy nhiêu. Nó không chỉ bảo đảm cho nhận thức đúng mà còn là điểm tựa vững chắc cho hành động tự giác, sáng tạo, chủ động và tích cực của mỗi chúng ta trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, để kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, giữ vững định hướng XHCN của sự nghiệp đổi mới, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

 

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng (tiếp theo và hết)

Chính nhờ có kỷ luật của Đảng nghiêm minh, các đảng viên nghiêm túc, tự giác chấp hành mà trong suốt 94 năm qua, Đảng ta đã vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đảng mạnh nhờ kỷ luật nghiêm minh

Trong xã hội, mọi tổ chức muốn tồn tại và phát triển, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đều phải xây dựng được hệ thống các quy định, quy chế hoạt động, hay nói cách khác là phải có kỷ luật và tất cả các thành viên trong tổ chức đều phải tuyệt đối thực thi. Rõ ràng, kỷ luật càng chặt chẽ thì tổ chức càng vững mạnh, kỷ luật mà lỏng lẻo, các thành viên trong tổ chức không chấp hành, hoặc chấp hành kỷ luật theo kiểu đối phó, hình thức, vô kỷ luật thì tổ chức khó tránh khỏi tan rã.

Đối với Đảng ta, vấn đề giữ nghiêm kỷ luật là yếu tố sống còn khi Đảng lãnh xướng sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Bởi rằng, mọi hành vi vi phạm kỷ luật của Đảng, dù nhỏ nếu không được phát hiện, điều chỉnh, uốn nắn kịp thời sẽ dẫn đến vi phạm lớn và hệ quả là làm suy yếu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Kỷ luật của Đảng không nằm ngoài mục đích để bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất quán giữa ý chí và hành động, giữa các tổ chức đảng và đảng viên. Kỷ luật càng chặt chẽ, nghiêm minh thì mọi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng sẽ được triển khai thắng lợi và giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự giác chấp hành, luôn đặt mình trong khuôn khổ, “không muốn, không thể và không dám” vi phạm kỷ luật của Đảng. Chỉ có những kẻ “cố ý phá hoại”, những người không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tha hóa, biến chất mới bất chấp tất cả mà vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Đảng mạnh chính là nhờ có kỷ luật nghiêm minh. Về vấn đề này, Lênin đã khẳng định: “Nếu không có kỷ luật sắt hết sức nghiêm khắc thì người Bônsêvich không giữ nổi chính quyền lấy hai tháng rưỡi chứ đừng nói là hai năm rưỡi”. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Lênin, trong các bài nói, bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của việc giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Người khẳng định: “Đảng có những điều kiện kỷ luật bắt buộc mỗi đảng viên phải theo. Không có kỷ luật sắt không có Đảng. Đã vào Đảng thì phải theo tư tưởng của Đảng. Đảng đã chỉ thị nghị quyết là phải làm. Không làm thì đuổi ra ngoài Đảng[1].

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng (tiếp theo và hết)
Kỳ họp thứ 37, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII. Ảnh: Anh Quân 

Hơn một thập kỷ trở lại đây, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã và đang gặt hái được nhiều thành quả to lớn rất đáng ghi nhận, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Đây chính là quá trình Đảng ta siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, để mỗi tổ chức đảng, đảng viên “tự soi”, tự nhìn nhận ra khuyết điểm, hạn chế và ra sức uốn nắn, sửa mình trước khi vượt qua ranh giới, khuôn khổ kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Ngược lại, những con số thống kê về số lượng tổ chức đảng và đảng viên bị thi hành kỷ luật thời gian qua, dẫu có thể khiến chúng ta buồn lòng, thậm chí là đau xót. Nhưng suy cho cùng, đó cũng chỉ là những “con sâu” đã làm mục ruỗng tổ chức, làm suy yếu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng nên nhất thiết phải loại bỏ. Chúng ta vẫn còn đó đội ngũ hơn 5 triệu đảng viên trong toàn Đảng, luôn sục sôi nhiệt huyết, kiên định lý tưởng của người cộng sản và tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn đặt nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân lên trên hết, trước hết.

Sức mạnh của Đảng nằm trong mỗi tổ chức đảng và từng đảng viên, nhưng để sức mạnh của Đảng muôn triệu người như một thì nhất thiết phải đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động. Quan trọng hơn, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu triệt và thực hành thường xuyên tinh thần tự giác chấp hành kỷ luật đảng, tự giác đặt mình trong sự quản lý của tổ chức đảng. Điều đó đòi hỏi mỗi đảng viên, dù đặt trong điều kiện, hoàn cảnh nào, luôn phải tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng. Chấp hành kỷ luật đảng không chỉ cần tinh thần tự giác mà cao hơn là sự bắt buộc. Tuy nhiên, yếu tố “bắt buộc” trong kỷ luật của Đảng không phải là sự ép buộc, càng không phải là miễn cưỡng thực thi mà phải trên cơ sở giác ngộ chính trị, giác ngộ càng cao thì bắt buộc sẽ trở thành tự giác và tự giác càng cao, kỷ luật của Đảng càng nghiêm túc.

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng - mệnh lệnh không lời

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đưa ra cảnh báo về những nguyên nhân dẫn đến làm mất kỷ luật đảng và đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Người đã nhấn mạnh rằng: “do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân[2].

Trong giai đoạn hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần đã mang đến sự phát triển to lớn cho đất nước, nhưng đồng thời cũng đặt ra rất nhiều vấn đề. Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một bộ phận cán bộ, đảng viên do không thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, không thường xuyên tôi rèn bản lĩnh nên sa vào chủ nghĩa cá nhân, sa vào “bẫy” suy thoái, bị thâu tóm và thao túng bởi lợi ích nhóm, bị hấp dẫn bởi ma lực của đồng tiền. Họ dễ dàng gục ngã trước những viên “đạn bọc đường”, dẫn đến tham ô, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và hệ quả nhãn tiền là tù tội, rơi vào vòng lao lý. Hơn hết là bản án lương tâm với đồng chí, đồng nghiệp, với cơ quan, gia đình, dòng tộc khi không chỉ làm mất đi danh dự của bản thân mà còn làm tổn hại thanh danh của Đảng. 

Có thể khẳng định rằng, chính chủ nghĩa cá nhân là thứ đẻ ra mọi loại vi phạm, khuyết điểm, tật ách, tai tương và “bẫy” suy thoái không chừa một ai. Giữ gìn sự nghiêm minh của kỷ luật đảng, hay nói cách khác là phải tuyệt đối chấp hành kỷ luật của Đảng là mệnh lệnh, là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với mọi tổ chức đảng và mọi đảng viên trong mọi giai đoạn, mọi thời điểm. Để làm được điều đó, cần thực hiện tốt một số nội dung sau: 

Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản lĩnh và giữ gìn danh dự người đảng viên, nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Đây là yêu cầu bắt buộc và phải thực hành thường xuyên, như “đánh răng, rửa mặt” hằng ngày, bởi rằng chỉ có đạo đức cách mạng trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững vàng mới có thể vượt qua được mọi cám dỗ, không sa vào chủ nghĩa cá nhân và “bẫy” suy thoái. Đạo đức, danh dự, nhân phẩm của người đảng viên không phải “trên trời sa xuống”, cũng không phải cứ gắn lên mình hai chữ đảng viên là có được. Đó là cả quá trình bền bỉ tu dưỡng, kiên tâm, bền chí rèn luyện hằng ngày, “cũng như ngọc càng mài càng sáng”, nên mỗi người phải biết trân trọng, giữ gìn và bảo toàn, “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, để xứng đáng là người đảng viên của Đảng.

Hai là“Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác...”, vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự giác nghiên cứu, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Chỉ khi nghiêm túc và tự giác học tập, mỗi cán bộ, đảng viên mới thấu triệt và nghiêm túc chấp hành mọi quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khi đó, mỗi người sẽ nghiêm túc và tự giác đặt mình trong khuôn khổ kỷ luật, kỷ cương, phép tắc của Đảng.

Ba là, những năm gần đây, hệ thống pháp luật ở nước ta đã tương đối hoàn thiện và đồng bộ, tuy nhiên, vẫn còn một số quy định chưa theo sát với thực tiễn đang vận động và phát triển liên tục. Mặt khác, thực tế cũng cho thấy, các quy định của Đảng vẫn còn chậm được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật Nhà nước. Cụ thể như, trong Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung nêu rõ: “kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hóa thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng các mô hình, giải pháp...”. Tuy nhiên, phải đến 2 năm sau Chính phủ mới ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29-9-2023 quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung...

Những nguyên nhân trên vô hình trung tạo ra lỗ hổng, kẽ hở khiến cho cán bộ, đảng viên hoặc là sợ sai không dám làm, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, hoặc là những kẻ “cố ý phá hoại”, những kẻ đã sa vào “bẫy” suy thoái bất chấp tất cả mà lợi dụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ, dẫn đến vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước. Do đó, việc hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật; kịp thời thể chế hóa các quy định của Đảng thành chính sách pháp luật Nhà nước là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng pháp luật, hành lang pháp lý và các chế tài phải tiệm cận, đồng bộ với các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng để vừa mang ý nghĩa giáo dục, vừa cảnh báo, răn đe và nghiêm khắc, nghiêm minh, để bảo đảm mọi cán bộ, đảng viên “không thể, không dám, không muốn” vi phạm kỷ luật Đảng. 

Bốn là, thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng có nhiều tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng trong thời gian qua, đó là công tác kiểm tra, giám sát có lúc, có nơi chưa được thường xuyên, kịp thời. Do đó, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần phải duy trì thường xuyên, liên tục công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên cấp dưới. Nhất là tăng cường kiểm tra đột xuất, không chờ đến khi “có dấu hiệu vi phạm” mới tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, giám sát phải được tiến hành nghiêm túc và thực chất, tuyệt đối không được dung túng, bao che, không nhẹ trên, nặng dưới. Làm tốt phần việc này chính là góp phần quan trọng, giúp chấn chỉnh việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương của Đảng; kịp thời phát hiện, xử lý những vi phạm ngay từ khi còn manh nha và ngăn chặn kịp thời, không để những vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm lớn, không để vi phạm của cá nhân thành sai phạm của cả tập thể.

Năm là, người xưa đã răn “thượng bất chính, hạ tắc loạn”, từ thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng thời gian qua cho thấy, ở mọi cơ quan, đơn vị, địa phương, khi người đứng đầu gương mẫu và thường xuyên thực hành nêu gương trong mọi việc, từ lời nói đến hành động thì các đảng viên và quần chúng cấp dưới cũng sẽ theo đó mà học theo, làm theo. Bởi vậy, cần đề cao trách nhiệm, vai trò nêu gương của người đứng đầu các cấp; cấp trên làm gương cho cấp dưới, đảng viên làm gương cho quần chúng trong việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

 

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết

Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 19 tại Singapore ngày 11-6-2022. Ảnh minh họa: qdnd.vn

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.

Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới. 

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.