Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

XÂY DỰNG BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN LÀ GÓP PHẦN ĐẤU TRANH CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ VAI TRÒ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Đảng ta cần đổi mới tư duy về công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, cần vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng viên. Trước hết cần xây dựng các tiêu chí cụ thể để đáng giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, xem xét về bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó cần khắc phục triệt để cách đánh giá cán bộ, đảng viên một cách chung chung, hình thức bởi cách đánh giá đó sẽ không tạo được động lực để cán bộ, đảng viên phấn đấu vươn lên, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Tuy nhiên, khi xem xét, đánh giá cán bộ, đảng viên nói chung, đánh giá về bản lĩnh chính trị nói riêng cần phải căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương mà họ công tác
1. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam đều nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp và phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Các phần tử thù địch này thường rêu rao những luận điệu như:
“(1) Đảng Cộng sản bản chất là không dân chủ và do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo và cầm quyền là vi phạm nền dân chủ;
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội tức là theo chế độ đảng trị, “đảng chủ”;
(3) Một đảng duy nhất cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị;
(4) Chế độ một đảng lãnh đạo, độc quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền;
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam hơn ai hết và trước hết nên thẳng thắn sám hối những sai lầm của mình; tình trạng khủng hoảng và đói nghèo ở Việt Nam hoàn toàn là hệ quả của chính sách cai trị độc tài dựa theo chủ nghĩa Mác - Lênin mà Đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt trên đất nước Việt Nam;
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền; duy trì sự thống trị của giới thượng lưu;
(7) Đảng không nên giữ vai trò lãnh đạo, không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối, phải đa đảng…”.
Các thế lực thù địch âm mưu tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, các trang mạng nhằm hạ bệ uy tín của Đảng, kêu gọi thực hiện “đa đảng”, từ đó tiến tới xây dựng một chế độ chính trị mới ở Việt Nam do các thế lực thù địch, phản động giật dây, điều khiển. Do đó, Đảng vạch rõ các luận điệu của các thế lực thù địch về vai trò cầm quyền của Đảng, phản bác các quan điểm đó bằng luận chứng, luận cứ khoa học có căn cứ từ thực tiễn cầm quyền của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên trên cơ sở đó xây dựng bản lĩnh chính trị cho Đảng. Khi bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng, mọi đường lối, quyết sách chính trị đúng đắn của Đảng được thực hiện thắng lợi, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước. Nhân dân được thụ hưởng trên thực tế các thành quả của công cuộc đổi mới đất nước là bằng chứng rõ nhất làm vô hiệu mọi luận điệu sai trái, thù địch đối với vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên - nhân tố bảo đảm vai trò cầm quyền của Đảng
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là tổng hợp các phẩm chất đạt đến trình độ có thể tự quyết định một cách độc lập, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của mình trước những bước ngoặt và tình huống phức tạp về chính trị thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên biểu hiện ở các phương diện sau: sự vững vàng, kiên định và nhạy cảm trước những biến động chính trị - xã hội; tích cực tham gia vào các quá trình chính trị - xã hội trên cương vị chức trách được giao; giải quyết chính xác, nhanh chóng và có hiệu quả những vấn đề nảy sinh ở cơ quan, đơn vị theo thẩm quyền.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với; sự phát triển mọi mặt của bản thân cán bộ, đảng viên; công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là một trong những yếu tố quan trọng hình thành bản lĩnh chính trị của Đảng. Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng được thể hiện ở tính tự quyết định một cách độc lập thái độ, hành động của mình, không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi quan điểm, đường lối, chiến lược, sách lược; ở sự mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược, thái độ và khả năng xử lý các tình huống phức tạp; ý chí và khả năng đấu tranh chống lại sự tấn công của kẻ thù; sự nhạy cảm với cái mới và khả năng tự đổi mới. Nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Do đó, trải qua các thời kỳ, Đảng đều coi trọng xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên - nhân tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên là toàn bộ các hoạt động của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên nhằm làm cho cán bộ, đảng viên độc lập, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của mình trước những bước ngoặt và tình huống phức tạp về chính trị, thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao.
Hoạt động xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên bao gồm các nội dung như: Nâng cao năng lực nhận thức, trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước; Bồi dưỡng ý chí kiên định với mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa; Bồi dưỡng năng lực tự định hướng và vươn lên trong học tập, công tác, làm chủ tri thức tổng hợp, tri thức chuyên môn, tri thức lý luận chính trị; Nâng cao năng lực tự rèn luyện, tu dưỡng trong thực tiễn về phẩm chất đạo đức, nhân cách, phương pháp công tác, kỹ năng làm việc; Nâng cao khả năng tôi luyện ý chí tư tưởng, khả năng đấu tranh với những lệch lạc, sai trái; khả năng làm chủ trước những cám dỗ vật chất, những tiêu cực của mặt trái của kinh tế thị trường; cảnh giác với những thủ đoạn của âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...
Xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên là có vai trò vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong tình hình: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” . Đây là một trong các nguy cơ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Cần thiết phải khắc phục nguy cơ này để góp phần giảm thiểu, kìm chế tác động, ảnh hưởng của nguy cơ khác. Do đó, Đảng cần thực hiện hệ thống giải pháp đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ, trước mắt là xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
3. Nội dung xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên giai đoạn hiện nay
Một là, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn luôn bám sát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về cán bộ, đảng viên.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở để nâng cao giác ngộ chính trị, niềm tin, tình cảm cách mạng và ý chí chiến đấu của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên trở nên nhanh nhạy, quyết đoán, chủ động trước các bước ngoặt, tình huống khó khăn khi họ nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng, quyết định công tác xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hai là, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm mục tiêu nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên chính là sự cụ thể hóa bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang bản chất giai cấp công nhân, cì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do đó, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thành công việc xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ba là, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tiến hành đồng bộ, từ việc nâng cao nhận thức tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, nâng cao năng lực công tác, phương pháp làm việc, tác phong công tác; phối hợp nhiều lực lượng cùng tham gia.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên được hình thành, phát triển thông qua quá trình hoạt động thực tiễn, thông qua giáo dục, rèn luyện, phấn đấu và tích lũy thường xuyên, lâu dài. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên do nhiều yếu tố tạo nên, trong đó, chủ yếu là các yếu tố như: trình độ nhận thức, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, lý tưởng chiến đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; các tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, nhất là tri thức lý luận chính trị; tình cảm cách mạng, lòng yêu Tổ quốc, yêu thương nhân dân, tâm hồn trong sáng, thể chất khoẻ mạnh; sự tôi luyện trong thực tiễn, đối mặt với những khó khăn, thách thức và sự tích lũy các kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
Nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên không tách rời việc nâng cao đạo đức cách mạng, khắc phục có hiệu quả các biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống...
Bốn là, đề cao vai trò tự giác tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên.
Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên là một cách thức quan trọng để nâng cao bản lĩnh chính trị của họ. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Năm là, xác định các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và tạo môi trường thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chính trị sẽ cung cấp cho người cán bộ, đảng viên những tri thức về đời sống chính trị, giúp họ làm giàu trí tuệ của mình, khắc phục hạn chế thiếu sót, củng cố niềm tin và lòng dũng cảm. Nhờ đó mà họ dám đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ, thách thức, thậm chí chấp nhận hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên không ngừng được trau dồi, rèn luyện, củng cố, tăng cường thông qua thực tiễn hoạt động chính trị bởi lẽ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chính trị giúp cán bộ, đảng viên giải quyết các tình huống chính trị nảy sinh đồng thời nâng cao niềm tin vào sự đúng đắn của đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4. Tăng cường xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần đấu tranh phòng, chống những quan điểm sai trái, thù địch về vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên giai đoạn hiện nay
Cần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của việc xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên. Việc phát huy tính tiền phong của đảng viên có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo nên bản lĩnh chính trị của Đảng, ảnh hưởng quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở năng lực đề ra các quyết sách chính trị đúng đắn và hiện thực hóa các quyết sách đó. Khi bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao sẽ góp phần đẩy lùi các nguy cơ đối với đảng cầm quyền đồng thời nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng. Do đó, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với việc củng cố vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, thực hiện nghiêm chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị được Trung ương và các cấp ủy quan tâm tổ chức thực hiện, góp phần nâng cao trình độ lý luận, quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng. Cần quán triệt, thực hiện tốt hơn nữa các Nghị quyết, Quy định của Đảng về học tập lý luận chính trị, trong đó, tập trung thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Quy định số 164-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý… Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trong hệ thống các trường chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, chú trọng xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thiết thực, hiệu quả. Mục tiêu các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống trường Đảng phải nâng cao trình độ lý luận chính trị, mở rộng tầm nhìn, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho các thế hệ học viên.
Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác rèn luyện bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và xây dựng cơ chế thúc đẩy cán bộ, đảng viên tự nâng cao bản lĩnh chính trị
Tự học tập, tự giác tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên là phương thức chủ yếu và trực tiếp để họ tự mình nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực công tác đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Muốn vậy, các cấp ủy đảng cần tăng cường công tác giáo dục thường xuyên cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về tiêu chuẩn đảng viên, về tầm quan trọng của việc tự tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Bên cạnh đó, các cấp ủy cần tạo môi trường, điều kiện, nhất là tạo ra các phong trào để cán bộ, đảng viên tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị.
Bốn là, tạo môi trường cho cán bộ, đảng viên được thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị
Bản lĩnh chính trị của cán bộ đảng viên có điều kiện được bộc lộ khi họ được hoạt động trong môi trường có nhiều thử thách, trong tình huống phức tạp về chính trị. Càng nhiều khó khăn, thử thách, thì càng bộc lộ rõ bản lĩnh chính trị. Bên cạnh đó, bản lĩnh chính trị được được tôi luyện, vững vàng trong môi trường công tác có nhiều khó khăn, thử thách, có nhiều cám dỗ. Tình huống phức tạp về chính trị là dung môi tốt nhất để thử, để nhận biết về bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên.
Năm là, đổi mới công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, chú trọng đánh giá về bản lĩnh chính trị
Đảng ta cần đổi mới tư duy về công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, cần vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng viên. Trước hết cần xây dựng các tiêu chí cụ thể để đáng giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, xem xét về bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó cần khắc phục triệt để cách đánh giá cán bộ, đảng viên một cách chung chung, hình thức bởi cách đánh giá đó sẽ không tạo được động lực để cán bộ, đảng viên phấn đấu vươn lên, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Tuy nhiên, khi xem xét, đánh giá cán bộ, đảng viên nói chung, đánh giá về bản lĩnh chính trị nói riêng cần phải căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương mà họ công tác./.

PHÁT HUY VÀ LAN TỎA GIÁ TRỊ VĂN HÓA “BỘ ĐỘI CỤ HỒ” TRONG TÌNH HÌNH MỚI


Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Đối với Quân đội, quan điểm về xây dựng nền văn hóa đó đã được kết tinh thành những giá trị cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” và không ngừng lan tỏa bằng những hành động, việc làm vì Tổ quốc, vì nhân dân của cán bộ, chiến sĩ Quân đội trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành.
Phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ” cũng là đại diện tiêu biểu cho phẩm chất đạo đức của người chiến sĩ cộng sản, người quân nhân cách mạng; được Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI khái quát: “Kiên định vững vàng, động cơ trong sáng, trách nhiệm cao, hành động đẹp; đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; có tri thức khoa học, trình độ quân sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác và sức khỏe tốt; dân chủ, kỷ luật tự giác, nghiêm minh; đoàn kết, tôn trọng, gắn bó máu thịt với Nhân dân, có tinh thần quốc tế trong sáng”. Đó cũng là những giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” mà dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được phát huy, lan tỏa để hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm tròn chức năng đội quân công tác. Sự lan tỏa đó được biểu hiện rõ trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, toàn quân đều thực hiện tốt công tác dân vận, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, xóa đói, giảm nghèo,... làm sâu sắc hơn mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Quân đội với nhân dân, góp phần tăng cường lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế, các phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; chương trình “Cảnh sát biển đồng hành cùng ngư dân”, “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”, “Nâng bước em tới trường”, “Bò giống giúp người nghèo nơi biên giới”, “Con nuôi đồn biên phòng”,… đã được triển khai phù hợp thực tiễn ở từng cơ quan, đơn vị, mang lại hiệu quả cao trong công tác dân vận. Riêng từ năm 2020 đến 2022, Quân đội vừa huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực, chủ động đi đầu trong phòng, chống dịch Covid-19; phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhân dân. Đặc biệt, trong năm 2022, Quân đội đã huy động 119.503 lượt cán bộ, chiến sĩ và 5.634 lượt phương tiện tham gia cứu nạn hiệu quả 1.105 vụ, cứu được 1.107 người, 231 phương tiện; dập cháy 629 nhà và 310,43 ha rừng; di dời 32.142 hộ dân đến nơi an toàn tránh bão lũ; sửa chữa 3.559 nhà, 198 km đường giao thông; thu hoạch 23.540 ha lúa và hoa màu, v.v.
Những kết quả trên đã tiếp tục khẳng định truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” luôn có mặt kịp thời ở những nơi khó khăn gian khổ, kề vai sát cánh giúp đỡ nhân dân trong ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân, góp phần lan tỏa giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội; được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường; qua đó, ngày càng làm sâu sắc hơn, tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới,... cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, xứng đáng là Quân đội của Nhân dân, Quân đội trong lòng dân”3.
Ở nước ta, những năm gần đây, cùng với sự xuất hiện các giá trị văn hóa mới, những hiện tượng phản văn hóa ngày một gia tăng, làm sói mòn, thậm chí phá vỡ một số chuẩn mực thiêng liêng đã được xây dựng từ ngàn đời trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, văn hóa, xã hội; làm phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh, gia tăng tội phạm, tệ nạn xã hội, v.v. Một số người đề cao các yếu tố vật chất đã hình thành, phát triển lối sống thực dụng, bỏ qua những giá trị, chuẩn mực đạo đức, nhân cách con người, văn hóa xã hội để làm giàu, kiếm tiền bằng mọi thủ đoạn, kể cả chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Tất cả đều thuộc về những nhận thức, hành vi phản văn hóa đã và đang tồn tại trong đời sống xã hội nước ta, đòi hỏi phải đấu tranh khắc phục, xóa bỏ trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng hiện nay.
Để đấu tranh loại bỏ những hành vi phản văn hóa hiện nay, bên cạnh những biện pháp hành chính và pháp luật mang tính răn đe, cần lan tỏa những điều tốt đẹp, nhân rộng những tấm gương bình dị và trong sáng, người tốt, việc tốt trong toàn xã hội; để “mỗi người tốt, việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp” như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy và không ngừng lan tỏa giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội chính là nhằm thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, góp phần làm trong sạch, lành mạnh môi trường văn hóa xã hội ở nước ta hiện nay. Theo đó, cần tập trung vào một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là truyền thống quyết chiến, quyết thắng, mưu trí, dũng cảm, kiên cường, bất khuất, “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Theo đó, trong điều kiện hiện nay, các cơ quan, đơn vị cần phát huy và làm lan tỏa tinh thần kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và tìm mọi biện pháp để vượt qua; dám đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần; luôn đấu tranh với tư tưởng bàn lùi, né tránh, trông chờ, ỷ lại, không nỗ lực phấn đấu vươn lên, v.v. Giữ vững và tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó máu thịt quân - dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chức năng “đội quân công tác” trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Trong thực hiện, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần coi trọng việc tuyên truyền, vận động cán bộ, chiến sĩ tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng đời sống văn hóa và nông thôn mới, giảm nghèo bền vững; nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo” và công tác tuyên truyền đặc biệt, góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết quân - dân, giữa nhân dân với Đảng.
Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp và vai trò xung kích của đoàn viên, thanh niên khi tổ chức lực lượng thực hiện nhiệm vụ tuyến đầu. Cán bộ chủ trì các cấp cần có tinh thần quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho bộ đội tham gia phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu giúp nhân dân; tập trung cao độ tinh thần, trí tuệ để tìm ra những phương pháp, cách thức tổ chức điều hành linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải hăng hái, xung phong nhận việc khó, nơi phức tạp, vị trí tiềm ẩn nhiều nguy hiểm để làm gương, mang lại sức mạnh hiệu triệu, cổ vũ tinh thần cho bộ đội trong thực hiện chức năng “đội quân công tác”. Bên cạnh đó, cấp ủy, chỉ huy đơn vị cần có biện pháp huy động sức trẻ, sự năng động, sáng tạo, xung kích của thanh niên Quân đội. Cần xác định đây là lực lượng nòng cốt ở các vị trí, thời điểm thiết yếu để thường xuyên giáo dục, động viên, nêu cao tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng xả thân vì nhân dân của đoàn viên, thanh niên. Tăng cường huấn luyện, rèn luyện và thường xuyên định hướng, uốn nắn, chỉ bảo để đoàn viên, thanh niên hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tham gia phòng, chống thiên tai, dịch bệnh; nhất là, khi hoạt động độc lập, dưới sự quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Đổi mới tư duy và hành động trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp đối với tổ chức thực hiện Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Đặt trọng tâm Cuộc vận động vào việc giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” với nội dung mới phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Đồng thời, cũng cần hướng vào việc thu hút nhân tài, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của quá trình hiện đại hóa Quân đội trong những năm tới; nhất là, nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho các lĩnh vực tiến thẳng lên hiện đại, như: tác chiến không gian mạng, tác chiến điện tử, không quân, hải quân, công nghiệp quốc phòng, thông tin liên lạc, v.v.
Tiếp tục triển khai các hoạt động xây dựng môi trường văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng cảnh quan, môi trường ngày càng “sáng, xanh, sạch, đẹp” và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Trong đó, tập trung xây dựng các mối quan hệ văn hóa ngày càng tốt đẹp, chuẩn mực, trở thành hình mẫu trong đời sống xã hội, như: quan hệ cấp trên - cấp dưới, đồng chí - đồng đội; đoàn kết gắn bó máu thịt quân - dân; đoàn kết hữu nghị, hiểu biết, tin cậy với quân đội và nhân dân các nước láng giềng của các đơn vị đóng quân ở các địa bàn biên giới, v.v. Cùng với đó, thường xuyên quan tâm đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức Quân đội ngày càng đông đảo về số lượng, tinh mạnh về chất lượng; có cơ chế mạnh mẽ động viên, khuyến khích đội ngũ này phát huy tối đa năng lực sáng tạo, lòng nhiệt huyết trong nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa quân sự Việt Nam trong tình hình mới. Đây cũng là lực lượng nòng cốt trong sáng tác, biểu diễn, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao phản ánh đầy đủ đời sống của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay, góp phần làm lan tỏa những giá trị cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội.
Bằng những hành động, việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả, cán bộ, chiến sĩ toàn quân tiếp tục phát huy và làm lan tỏa những giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” cao đẹp để góp phần đẩy lùi, dẹp bỏ những nhận thức, hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ nghĩa./.
Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Có thể là hình ảnh về 5 người và văn bản
Tất cả cảm xúc:
2

ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN - MỘT SỐ NỘI DUNG TRỌNG TÂM CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG


Thấy được sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với Tổ quốc, dân tộc, giai cấp công nhân, nhân dân lao động, trong cuộc đời, sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Để Đảng xứng đáng là đội tiên phong, bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, Người thường xuyên chăm lo đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Từ thực tiễn lịch sử lãnh đạo và tổ chức của Đảng ta về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có thể thấy, Hồ Chí Minh là người xây đắp nên nền móng lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân vừa là một nội dung trọng tâm, vừa là một biện pháp rất quan trọng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
94 năm qua, Đảng ta đã nhiều lần tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam và những biểu hiện sai lầm, sự nguy hại dẫn đến nguy cơ đe dọa đến sự lãnh đạo của Đảng, mà Đảng ta đã tiến hành nhiều đợt chỉnh đốn và chỉnh huấn Đảng với những mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp thực hiện khác nhau.
Năm 1939, Đảng tiến hành sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng, khắc phục hạn chế, giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng trong phong trào Mặt trận dân chủ. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm Tự chỉ trích, xác định mục tiêu, phương châm: “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch ra lỗi lầm của mình và tìm phương pháp sửa chữa, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không làm yếu Đảng và làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch nhân lợi dụng chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”. Trái lại nếu “đóng cửa bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bên trong là hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đấy mới chính là để kẻ thù chửi rủa, hơn nữa đó tỏ ra không phải là một Đảng tiên phong cách mạng mà là một Đảng hoạt đầu cải lương”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã kịp thời chấn chỉnh với những khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên vừa mới có chút chức quyền trong tay. Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945, Người đã phê phán, ngăn đe, cảnh báo một số căn bệnh của một số đồng chí nắm chức vụ quyền hạn trong bộ máy chính quyền nhà nước như: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo…
Sau khi cả nước bước vào kháng chiến chống Pháp, tháng 10-1947, Hồ Chủ tịch viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Đây là tác phẩm rất quan trọng, có tính chất kinh điển về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ở đó, lần đầu tiên Người dùng từ “chỉnh đốn Đảng”. Người vừa nêu lên những ưu điểm, vừa phê phán những sai lầm khuyết điểm của cán bộ, đảng viên; xác định 12 chuẩn mực về tư cách của Đảng chân chính cách mạng; đúc kết, nhắc nhớ: “Muốn cho Đảng được vững bền/ Mười hai điều ấy chớ quên điều nào”. Trong đó, chủ nghĩa cá nhân, được xác định “như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Riêng bệnh cá nhân, Người đã tập trung nhận diện, phân tích 10 biểu hiện chi tiết; rồi kết luận: “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng. Từ đó, Người đòi hỏi trong chỉnh đốn Đảng phải “kiên quyết chống lại “bệnh cá nhân”. Phận sự của người đảng viên và cán bộ là: “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết. Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”; phải rèn luyện đạo đức cách mạng - nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Những năm cuối kháng chiến chống Pháp, Đảng ta lại mở cuộc chỉnh Đảng. Tháng 5-1952, tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản”. Năm 1961, khi nhân dân miền Nam đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc phải phát huy và thể hiện rõ vai trò là hậu phương lớn của cả nước, Đảng ta lại mở đợt chỉnh huấn trong toàn Đảng. Mục đích, nhiệm vụ của chỉnh huấn, được Hồ Chí Minh xác định: “Trung ương Đảng sẽ mở cuộc chỉnh huấn cho đảng viên, đoàn viên và tất cả mọi người, làm cho tất cả hiểu rõ hơn trách nhiệm làm chủ của mình, hiểu rõ nhiệm vụ sản xuất và tiết kiệm trong giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, phê phán lối suy nghĩ cá nhân chủ nghĩa”. Năm 1965, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trở nên quyết liệt, để tập trung sức người, sức của cho tiền tuyến, trong quá trình chỉnh huấn Đảng, Người xác định: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt. Chính vì vậy mà cuộc chỉnh huấn lần này của Đảng ta nhằm mục đích tẩy rửa chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản”…
Sau khi đất nước thống nhất, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta tiếp tục chăm lo công tác xây dựng Đảng; thường xuyên tự chỉnh đốn nội bộ, mở nhiều đợt xây dựng, chỉnh đốn sâu rộng. Việc chỉnh đốn Đảng được coi trong hơn từ Hội nghị Trung ương 6, Trung ương 7 (khóa 6) năm 1989, nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trước tác động to lớn từ sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới. Khi Liên Xô tan rã (8-1991), Đại hội VII đã xác lập Cương lĩnh 1991, Hội nghị Trung ương 3 (2-1992) đã ban hành Nghị quyết “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Trong đó, chỉ ra những khuyết điểm đã trở thành nguy cơ không thể xem thường, nổi bật là: “một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động mất lòng tin, trong đó có một số người chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại muốn đi con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hóa, hư hỏng, ăn chơi hưởng lạc”… Cùng với triển khai nhiều chủ trương, giải pháp lớn để chỉnh đốn Đảng, Trung ương đã coi trọng: “Xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch của cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế; chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, tệ làm ăn gian dối, lối sống xa hoa, trụy lạc”.
Đến Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa 😎 tháng 1-1999, Trung ương triển khai Nghị quyết Số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999 “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; quyết định gắn xây dựng chỉnh đốn Đảng với học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh tổ chức, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ quan trọng về chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết đã xác định nhiều nội dung, biện pháp cụ thể về đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, như: “Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; đồng thời, chú ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện”, “Tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả”, “Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng”.
10 năm gần đây, Đảng ta vừa tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vừa coi trọng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trước những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mà nguyên nhân cơ bản, sâu sa bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, hai Hội nghị Trung ương 4 của khóa 11 và khóa 12 đã ban hành nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Ở đó, những dấu hiệu, biểu hiện, nguyên nhân của chủ nghĩa cá nhân được làm rõ, cụ thể chi tiết hơn; các biện pháp về tư tưởng, chính trị và tổ chức đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân được xác định thống nhất và đồng bộ hơn.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ ra: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”; đồng thời xác định đồng bộ các chủ trương, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Ở đó, cùng với xây dựng Đảng về mọi mặt, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân cũng được xác lập bằng nhiều biện pháp, cách thức đồng bộ về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, công tác cán bộ, pháp chế, tăng cường mối quan hệ mặt thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Nhìn lại quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng thấy rõ, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, từ sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với dân tộc mà trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh về mọi mặt. Sự thành công nhiều hay ít của các đợt xây dựng, chỉnh đốn Đảng đều tùy thuộc vào sự thắng lợi nhiều hay ít của việc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi như Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng thống nhất nhận định: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt. Chính vì vậy mà cuộc chỉnh huấn lần này của Đảng ta nhằm mục đích tẩy rửa chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản”.
Từ những vấn đề trên, từ những yêu cầu, nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và để làm cho Nghị quyết Trung ương 4 khóa 12 “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” tiếp tục tỏ rõ hiệu lực trong Đảng và hiệu quả trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước ta, mọi cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên cần tiếp tục nâng cao nhận thức, thấy rõ tầm quan trọng của đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc mục tiêu, quan điểm và nghiêm chỉnh thực hiện triệt để các nhiệm vụ, giải pháp, cách thức xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Nghị quyết Trung ương 4 đã đề ra; quan tâm, chú trọng hơn nữa tới việc triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi thắng lợi của cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói riêng và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội nói chung đều không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Phải hết sức phòng ngừa, cảnh giác và đấu tranh với những biểu hiện coi thường, xem nhẹ, bỏ qua, hữu khuynh hoặc tả khuynh trong đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân. Phải chú ý đến biểu hiện những của người đứng đầu, người chủ trì hoặc cả một bộ phận cấp ủy viên khi triển khai và tổ chức tự phê bình và phê bình một cách qua loa, chiếu lệ, hình thức; bởi đó là một cách mà những người này đã “sa xuống cái hố cá nhân chủ nghĩa” nên họ rất sợ tự phê bình và phê bình một cách thiết thực như Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Việc nâng cao nhận thức và thống nhất hành động trong Đảng và toàn xã hội, nhất là dựa vào nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân cùng tham gia vào các mắt khâu, quá trình giám sát, phản biện, góp ý xây dựng tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên… cần tiếp tục được phát huy; làm cho các tầng lớp nhân dân chung sức, đồng lòng phòng, chống các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân ở cán bộ, đảng viên, viên chức nhà nước, trước hết là đối với những người có chức, có quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền nhà nước và địa phương sẽ góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, thống nhất “ý Đảng, lòng dân” để đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay./.
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
Có thể là hình ảnh về 3 người, mọi người đang học và văn bản
Tất cả cảm xúc:
2