Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2024

Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Bác: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Quân đội ta đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, quân và dân ta đã thực hiện trọn vẹn điều khát khao của Bác trước lúc đi xa "Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất".

Chính trị làm “gốc” để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị

Khắc ghi những lời Bác dặn dò, cán bộ chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam đoàn kết một lòng, thực hiện Di chúc của Người trong nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
 Bác Hồ với các cháu thiếu nhi dũng sĩ miền Nam ra thăm miền Bắc (13-2-1969). Ảnh: Tư liệu

Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới do Đảng và Bác Hồ kính yêu sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện về mọi mặt; được Nhà nước tập trung xây dựng và nhân dân đùm bọc, chở che, nuôi dưỡng. Trải qua gần 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, Quân đội ta đã thể hiện sâu sắc bản chất, truyền thống quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Thực tiễn gần 80 năm qua đã khẳng định, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, lấy chính trị làm “gốc” để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở xây dựng chất lượng tổng hợp, nâng cao sức mạnh chiến đấu có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn, là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng quân đội cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội ta, làm nên phẩm chất nhân cách Bộ đội Cụ Hồ - Bộ đội của nhân dân.

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bộ đội miền Nam tập kết đang huấn luyện tại tỉnh Nghệ An (6-1957). Ảnh: Tư liệu

Ngay sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện Di chúc của Bác, Quân đội nhân dân Việt Nam có thêm nguồn động lực tinh thần để xây đắp nên những truyền thống cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, trong những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tập trung lãnh đạo xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Quân đội tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng theo hướng tinh, gọn, mạnh, linh hoạt, có cơ cấu tổ chức hợp lý, vũ khí trang bị ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.     

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song thế giới đang đứng trước khó khăn khi cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn đã và đang bộc lộ rõ những rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc tế. Tình hình đó đặt ra nhiều vấn đề hệ trọng và cấp thiết đối với việc triển khai và tiếp tục hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới.

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
 Bộ đội chiếm cao điểm 13, phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Tư liệu

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo đó, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc không đơn thuần là để ứng phó với chiến tranh; mà vấn đề quan trọng và thiết yếu hơn là, tạo ra sức mạnh để giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, nhằm xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, là sự vận dụng nhuần nhuyễn lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Bảo vệ phải gắn với xây dựng, xây dựng phải đi đôi với bảo vệ. Mục tiêu của bảo vệ là để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho xây dựng và phát triển đất nước; và xây dựng, phát triển đất nước sẽ tác động trở lại tạo cơ sở, tiền đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Ngăn ngừa đẩy lùi và đập tan các nguy cơ xung đột, bất ổn, sẵn sàng ứng phó và ứng phó thành công trong mọi tình huống

Phương châm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc là vấn đề rất quan trọng, là cơ sở để xác định đúng mục tiêu, phương thức, cách thức để bảo vệ sự bất khả xâm phạm của quốc gia, bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Những nội dung trọng yếu cần được bổ sung thêm là: Nắm chắc tình hình và giải quyết đồng bộ các vấn đề do thực tiễn đặt ra; dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực, tình hình trong nước và từng địa bàn cụ thể; nhận rõ các thách thức quốc phòng, an ninh, các tình huống xảy ra; đưa ra các định hướng hành động chính xác, kịp thời, linh hoạt để đối phó có hiệu quả với mọi tình huống, không để bất ngờ, bị động. Mục tiêu tối ưu của việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chính là ngăn ngừa đẩy lùi và đập tan các nguy cơ xung đột, bất ổn, sẵn sàng ứng phó và ứng phó thành công trong mọi tình huống.

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bộ đội Không quân nhân dân Việt Nam (9-2-1967). Ảnh: Tư liệu

Đối với nước ta, sau những năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ, nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bao gồm cả thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa là thách thức lớn đối với nước ta, nhất là trong bối cảnh các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta trên nhiều lĩnh vực thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với nhiều âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt... 

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bộ đội diễn tập năm 1957. Ảnh: Tư liệu

Trước tình đó, cùng với việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả; việc quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, linh hoạt, có cơ cấu tổ chức hợp lý, bảo đảm phù hợp với đường lối quân sự của Đảng, nghệ thuật chiến tranh nhân dân, vũ khí trang bị và nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, hướng tới mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là yêu cầu tất yếu khách quan.     

Con người là yếu tố quyết định, vũ khí trang bị là yếu tố rất quan trọng

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Sức mạnh của Quân đội cách mạng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như: Con người, vũ khí trang bị, nghệ thuật, cách đánh..., nhưng trong đó, con người và vũ khí trang bị là hai yếu tố cơ bản nhất. Trong đó, con người là yếu tố quyết định, vũ khí trang bị là yếu tố rất quan trọng.       

Bởi, ngày nay xu hướng sử dụng vũ khí trang bị công nghệ cao ngày càng phổ biến trong các cuộc chiến tranh. Các cuộc chiến tranh gần đây đã chỉ rõ, nếu chúng ta không nâng cấp, hiện đại hóa vũ khí trang bị thì dù con người và các yếu tố khác được chuẩn bị tốt cũng khó có thể phát huy được sức mạnh tổng họp để đánh thắng chiến tranh xâm lược bằng các loại vũ khí công nghệ cao của đối phương. Vì thế, xây dựng Quân đội nhân dân hiện đại về vũ khí trang bị trong giai đoạn mới là vấn đề hết sức cấp thiết đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Hiện đại hóa vũ khí trang bị cho Quân đội phải là một quá trình thường xuyên, liên tục, nhằm không ngừng củng cố khả năng quốc phòng của đất nước. Để hiện thực hóa chủ trương xây dựng Quân đội tinh gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030, xây dựng QĐND chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. 

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm các chiến sĩ lực lượng phòng không bảo vệ Thủ đô (25-9-1966). Ảnh: Tư liệu

Tuy nhiên, Đảng ta luôn xác định “chủ động phòng ngừa” là chính, ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”.

Đây là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm “giữ nước từ lúc chưa nguy”, phát triển tư tưởng bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” để xác định rõ phương thức, giải pháp “chủ động phòng ngừa” là chính. 

Điều đó thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Đảng về quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, nhằm chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi, giải tỏa các “điểm nóng”, các nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang; nhất là việc chủ động ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống đang ngày càng gia tăng và đe dọa trực tiếp đối với an ninh quốc gia và toàn cầu hiện nay.

Đồng thời, nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện nội dung, hình thức, biện pháp kết hợp đấu tranh quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng, hành động sai trái, thù địch, xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tích cực, chủ động quan hệ sâu rộng, toàn diện với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên tinh thần Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. 

Xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân

Xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Xét trong tính tổng thể, các phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc được sử dụng một cách tổng hợp, linh hoạt, mềm dẻo, đặt trong mối quan hệ và sự tương tác lẫn nhau để huy động sức mạnh tổng hợp và vai trò của mọi lĩnh vực, mọi lực lượng để bảo vệ Tổ quốc. 

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
Người thăm bộ đội tên lửa, trước ngày đơn vị ra quân đánh thắng trận đầu, bắn rơi máy bay Mỹ (26-8-1965). Ảnh: Tư liệu

Phát huy sức mạnh tổng hợp là phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, mọi tầng lớp nhân dân, của toàn dân với một ý thức tự giác cao nhất trong bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự cộng hưởng ở mức độ cao, sức mạnh được huy động từ các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đó là sức mạnh từ chính trị, sức mạnh của chế độ chính trị, hệ thống chính trị, sức mạnh từ lòng tin của nhân dân, sự đồng thuận của nhân dân, sự vững chắc của “thế trận lòng dân” được thường xuyên quan tâm xây dựng. Đó là sức mạnh của nền kinh tế, nền tảng vật chất của quốc phòng, an ninh, BVTQ, sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế là sự bảo đảm ngày càng tốt hơn cho quốc phòng, an ninh, nhất là bảo đảm cho hiện đại hóa quốc phòng, an ninh. Sức mạnh từ nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, nền tảng tinh thần của dân tộc, cội nguồn sức mạnh của đất nước, đó là sức mạnh từ lòng yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc của các thế hệ người Việt Nam. 

Triển khai toàn diện, đồng bộ các giải pháp xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt

Từ khi có Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI của Đảng (còn gọi là Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25-10-2013) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, quân và dân ta đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. 

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
 Tiến công căn cứ lính thủy đánh bộ Mỹ ở Khe Sanh, phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Tư liệu

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã triển khai toàn diện, đồng bộ các giải pháp xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng; kiện toàn, củng cố vững chắc một số tổ chức quân sự có liên quan, đáp ứng tốt yêu cầu bảo đảm và tương xứng với sự phát triển của nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 

Mặt khác, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã khẩn trương xây dựng và trình Bộ Chính trị ban hành Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quân sự, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia... Đồng thời, xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án và làm nòng cốt trong triển khai thực hiện các Chiến lược ấy một cách đồng bộ, toàn diện và hiệu quả trong các bộ, ngành, địa phương và toàn quân; đưa nội dung các Chiến lược vào hoạt động thực tiễn, nâng cao ý thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.    

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Ngọn cờ đoàn kết, dẫn dắt toàn dân tộc đi tới tương lai tươi sáng - Bài 4: Toàn quân đồng lòng thực hiện Di chúc của Bác
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm, kiểm tra công tác huấn luyện, hiệp đồng, sẵn sàng chiến đấu của một số đơn vị Quân đội tại trường bắn TB1, Bắc Giang, ngày 19-11-2017.
 Ảnh: TRỌNG HẢI 

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã phối hợp, kết hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị nước ta, tập trung xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh. 

Để xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, có khả năng cơ động cao, tạo sự cân đối hợp lý giữa các lực lượng; giải quyết đúng đắn, hợp lý mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa con người và vũ khí, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu. Thực hiện được điều này, là toàn quân đã thực hiện đúng lời căn dặn về “Củng cố quốc phòng” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về định hướng cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thực hiện đường lối quân sự, xây dựng nền quốc phòng toàn dân. 

Với tình cảm sâu nặng, sự kính trọng, lòng biết ơn vô hạn và trách nhiệm chính trị cao, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn học tập và thực hành tinh thần “Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó chính là sự tiếp nối và phát huy bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, là ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhằm thực hiện trọn vẹn mong muốn của Người./.

ST.

Nỗ lực chăm lo cuộc sống người dân theo di nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ "luôn vì nước, vì dân, phấn đấu, hy sinh cho độc lập, thống nhất của Tổ quốc, chăm lo đời sống tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam và góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại".

Người luôn căn dặn: Chăm lo đời sống cho nhân dân để an dân, yên đất nước là nhiệm vụ chính trị trung tâm và ưu tiên; là thước đo và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm trong toàn bộ hoạt động tổ chức, điều hành, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Những quan điểm, tư tưởng của Người về chăm lo cho đời sống nhân dân đến nay vẫn còn nguyên giá trị; đồng thời, đã, đang và sẽ tiếp tục được Đảng, Nhà nước Việt Nam vận dụng, phát huy và phát triển trên hành trình xây dựng thành công nước Việt Nam "hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" như di nguyện cuối cùng của Người.

Muôn vàn tình thương yêu con người

Sinh thời, Người từng nói: Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị áp bức, đau khổ. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân Việt Nam khẳng định những quyền cơ bản thiêng liêng của con người, đó là: Con người sinh ra có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đồng thời tuyên bố với thế giới rằng người dân được sống an toàn và được bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm chỉ trong điều kiện đất nước độc lập, tự do, bình đẳng, không có áp bức bất công...

Nỗ lực chăm lo cuộc sống người dân theo di nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đồng bào Hùng Sơn, xã Phục Linh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (1954). Ảnh tư liệu (Nguồn: tinhuybinhphuoc.vn)

Trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngoài ngày 21-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh bộc bạch: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Người luôn căn dặn các đồng chí của mình: Sự quan tâm, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân là bổn phận, trách nhiệm của Đảng, bởi lợi ích của Đảng không nằm ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Có như vậy, nhân dân mới có niềm tin vững chắc vào Đảng; một lòng một dạ đi theo Đảng để cuộc sống càng ngày càng tốt đẹp hơn.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đảng phải có trách nhiệm chăm lo cho nhân dân: Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.

Đặc biệt, trong bản Di chúc thiêng liêng mà Người để lại trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn không quên nhấn mạnh: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Người chỉ rõ, để nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, trước hết phải xây dựng nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Công việc của Chính phủ phải nhằm mục đích duy nhất là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, để gánh vác việc chung cho dân, đặc biệt, “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Hoàn thiện thể chế và đa dạng hóa hoạt động chăm lo đời sống người dân

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống cho nhân dân, Đảng, Nhà nước ta không ngừng nâng cao nhận thức, hoàn thiện thể chế và đa dạng hóa các hoạt động chăm sóc đời sống nhân dân.

Đảng và Nhà nước luôn coi trọng phát triển thể chế và đa dạng hóa các hoạt động chăm sóc đời sống người dân: Đồng bộ hóa các hệ thống quy định pháp lý và các tổ chức chuyên trách; xây dựng và triển khai các kế hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia và địa phương liên quan trực tiếp cũng như gián tiếp về chăm sóc đời sống người dân; không ngừng mở rộng quy mô và đa dạng hóa các nguồn vốn, các kênh và cách thức chăm lo đời sống người dân.

Quốc hội đã sớm thông qua Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Trẻ em và nhiều chính sách trợ giúp xã hội giảm nghèo như: Các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; chương trình hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; một số chính sách đặc thù cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số về đất ở, đất sản xuất, nhà ở và nước sinh hoạt...

Chính phủ đã đầu tư ngày càng nhiều cho việc thực hiện các chính sách xã hội, thông qua điều chỉnh các mức hưởng, diện đối tượng hưởng và cả số lượng chính sách; nhất là chính sách đối với người có công, chính sách bảo trợ xã hội và các chính sách, biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động, người dân gặp khó khăn, phát triển hạ tầng dịch vụ xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số...

Đồng thời, công tác kiểm tra, thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân.

Hằng năm, Nhà nước đã dành 21% ngân sách cho phúc lợi xã hội, là mức cao nhất trong số các nước ASEAN. Tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội tăng dần, từ 2,85% GDP năm 2005 lên khoảng 6,7% GDP năm 2021. Bên cạnh vốn ngân sách nhà nước, nhiều nguồn lực khác đã được huy động cho công cuộc giảm nghèo như vốn ODA, đóng góp của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và tư nhân. Trong thực tế đã xuất hiện ngày càng nhiều mô hình hợp tác công-tư trong giảm nghèo và bảo trợ xã hội.

Trong bối cảnh dịch Covid-19, Đảng, Chính phủ đã quyết định nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo hàng chục nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, hơn 38.000 tỷ đồng từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã được chi để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động.

Hằng năm, vào các dịp lễ, tết hoặc khi có thiên tai, dịch bệnh, Chính phủ, chính quyền các cấp và các đoàn thể, tổ chức xã hội thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động diễn đàn và cứu trợ cộng đồng, chăm sóc đời sống nhân dân đa dạng khác. Giai đoạn 2016-2021, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 4 cấp đã vận động Quỹ Vì người nghèo và chương trình an sinh xã hội được 32.051 tỷ đồng; giúp đỡ xây mới và sửa chữa 228.221 căn nhà đại đoàn kết cho người nghèo. Hoạt động của Quỹ Vì người nghèo và chương trình an sinh xã hội đã tạo thêm nguồn lực giúp nhiều hộ nghèo thoát nghèo, có nhà ở, ổn định cuộc sống.

Chất lượng sống của người dân ngày càng được cải thiện

Nhờ sự quan tâm, chăm sóc tới đời sống người dân, Việt Nam là điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao vì đã về đích trước thời hạn theo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Tỷ lệ nghèo trên đầu người (tính theo chi tiêu thu nhập) giảm mạnh từ hơn 70% (năm 1990) xuống còn 13,5% (năm 2014). Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều từ năm 2016. 

Từ năm 2016, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu 100% xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo được phủ sóng phát thanh mặt đất và truyền hình mặt đất; đến năm 2020, 100% xã có đài truyền thanh xã. Đến cuối năm 2021, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90%, trong đó 54% sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn.

Đặc biệt, năm 2023, kết quả chăm lo đời sống người dân còn thể hiện đậm nét ở Chỉ số hạnh phúc toàn cầu của Việt Nam đứng thứ 65/137 quốc gia trong xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2023, tăng 12 bậc so với năm 2022. Việt Nam hiện xếp hạng 72 trong Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2023 do Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố, với tiến độ bình đẳng giới đạt 71,1%, tăng 11 bậc so với vị trí năm 2022. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt khoảng 39-40%.

Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng 31,5-32%. Bảo hiểm y tế toàn dân đã bao phủ hơn 92% dân số. Cả nước có khoảng 78% xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM); trong đó có 1.612 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 256 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; 270 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM; có 11.056 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên.

Trên thực tế, 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng; 100% người dân bị thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, thiếu đói được trợ giúp đột xuất kịp thời, không người dân nào bị đói; hơn 90% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng kịp thời; hơn 90% người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, phụng dưỡng, chăm sóc kịp thời. 

Năm 2023, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã triển khai các hoạt động chăm lo Tết của các cấp công đoàn với tổng kinh phí hơn 6.110 tỷ đồng, tăng 260 tỷ đồng so với Tết Nhâm Dần 2022; đồng thời hỗ trợ hơn 100 tỷ đồng cho người lao động bị giảm giờ làm việc hoặc bị ngừng việc.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030. Tính đến ngày 18-6-2023 đã hoàn thành 41 dự án nhà ở xã hội khu vực đô thị, quy mô xây dựng khoảng 19.516 căn; đang tiếp tục triển khai 294 dự án, với quy mô xây dựng khoảng 288.499 căn.

Đời sống người hưởng lương và trợ cấp được cải thiện tích cực từ ngày 1-7-2024 nhờ chính sách tăng lương cơ sở 30%, tăng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hiện hưởng 15% theo Nghị quyết số 142/2014/QH15 ngày 29-6-2024; Nghị định số 73/2024/NĐ-CP ngày 30-6-2024 quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

Những kết quả nêu trên đã hội tụ và phản ánh những nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong chăm lo đời sống người dân theo di nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta luôn vì con người, lấy con người làm trung tâm; coi đầu tư cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển.

Hơn nữa, những kết quả đó còn là minh chứng về sự đổi mới, sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trên hành trình không ngừng hoàn thiện thể chế chăm lo đời sống người dân, với quan điểm xuất phát “chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống con người” trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đã nâng cấp thành chủ trương “thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” như văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh.

Đồng thời, chính sách an sinh xã hội cũng được phát triển theo xu thế mở rộng phạm vi, từ an sinh xã hội tập trung cho nhóm yếu thế, mức tối thiểu sang chính sách xã hội toàn dân và toàn diện các mặt đời sống. Về đối tượng, chuyển sang giai đoạn mới không chỉ lo cho nhóm yếu thế, nhóm khó khăn mà mở rộng, tiến tới phát triển tầng lớp trung lưu mang tính dẫn dắt phát triển xã hội. Chính sách xã hội phải đồng thời gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững; hệ thống an sinh xã hội phải linh hoạt, thích ứng với các cú sốc diện rộng, bảo vệ toàn dân, không để ai bị bỏ lại phía sau.../.

ST.

Biểu tượng của độc lập, tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và ý chí kiên cường

"Đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tượng của độc lập, của tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất kiên cường". Đây là những chia sẻ chân thành của Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Trùng Khánh - Tứ Xuyên.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời cao đẹp hiến dâng cho sự nghiệp vẻ vang giải phóng dân tộc, đưa đất nước hướng tới độc lập, tự do, sánh vai với các cường quốc năm châu. Vì vậy, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và quê hương đất nước một tình cảm vô cùng sâu đậm, tha thiết. Dẫu có đi đâu, ở đâu, làm gì, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn đau đáu trong tim hình ảnh Bác, hình ảnh quê hương Việt Nam thân yêu, một lòng hướng về Tổ quốc. Như câu nói Bác đã từng khẳng định: “Quê hương nghĩa nặng tình cao. Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”.

Biểu tượng của độc lập, tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và ý chí kiên cường

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung Quốc. Quần chúng dâng hoa lên Người, tháng 7-1955. 

Ảnh: Tài liệu lưu trữ Bộ Ngoại giao

Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời cũng là người đặt nền tảng vững chắc cho mối liên kết giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Từ góc nhìn của người đã hơn 13 năm sống ở nước ngoài, Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan đánh giá Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay đã có những chính sách mang tính tiếp nối truyền thống, phù hợp, đúng đắn và nhất quán về người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc kết nối kiều bào với đồng bào trong nước.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước Việt Nam và đường lối chính sách phù hợp giúp bà con kiều bào ở nước ngoài an tâm sinh sống, làm việc và học tập tại nước sở tại, ngày càng có những cái nhìn tích cực hơn, thêm tin tưởng và tự hào về quê hương, hướng về đất nước. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc nói riêng, vô cùng trân trọng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã luôn dành tình cảm, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho bà con kiều bào, tăng cường sự gắn bó giữa kiều bào với quê hương, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ và nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc, nâng cao tình cảm và trách nhiệm của kiều bào đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc không chỉ đóng góp tích cực vào sự phát triển của sở tại mà còn góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc. Với sự gần gũi về địa lý và văn hóa, Trung Quốc là một trong những đất nước có đông đảo người Việt sinh sống, hiện tại số lượng người Việt Nam sinh sống, làm việc và du học ở Trung Quốc ngày càng tăng (khoảng trên 500.000 người).

Người Việt tại Trung Quốc phần lớn hiện có cuộc sống tương đối ổn định, ngày càng có điều kiện phát triển tốt hơn, trong đó nhiều người đã làm việc cho các tập đoàn, công ty lớn của Trung Quốc. Sau một thời gian tích lũy kinh nghiệm, nhiều người mong muốn trở về nước để tìm kiếm cơ hội phát triển tốt hơn và đóng góp thiết thực cho quê hương, trở thành "lực đẩy" quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh.

Cộng đồng người Việt Nam ở Trung Quốc luôn ý thức rõ về vai trò cầu nối của bản thân trong việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ Việt - Trung, không ngừng phát huy những lợi thế riêng của bản thân, làm đầu mối quan trọng trong việc kết nối chuyển giao khoa học công nghệ, kết nối kinh tế, thương mại, quảng bá hàng hóa, sản phẩm của Việt Nam tại nước sở tại, cũng như đầu tư phát triển các dự án kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong quá trình sinh sống và học tập tại Trung Quốc, việc kiều bào hòa nhập tốt vào xã hội sở tại, thường xuyên tiếp xúc với người Trung Quốc và tham gia các chương trình trao đổi giao lưu văn hóa, giáo dục, xúc tiến thương mại… cũng là trực tiếp đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy giao lưu văn hóa, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt - Trung. 

Là một trong số gần 600 đại biểu đại diện cho cộng đồng người Việt Nam trên toàn thế giới về nước dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4 và Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024, bà Nguyễn Thị Lan bày tỏ vinh dự và gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài - Bộ Ngoại giao, các cơ quan trong nước đã tổ chức hội nghị, cũng như sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Bà nhấn mạnh, dù ở bất cứ nơi đâu, đồng bào luôn hướng về Tổ quốc, gắn bó máu thịt với cội nguồn dân tộc. Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4 và Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024 là cơ hội quý báu cho bà con người Việt ở nước ngoài cập nhật thông tin về tình hình quê hương đất nước, hiểu biết hơn nữa về công tác người Việt ở nước ngoài của Đảng và Nhà nước, qua đó gợi mở cho kiều bào hướng đi mới, yêu cầu mới cũng như cách làm mới để đóng góp thiết thực hơn nữa vào công cuộc xây dựng đất nước chung của mỗi người con Việt Nam./.

ST.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự kết tinh của trí tuệ uyên bác, nhân cách cao đẹp

Bản Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong một thời gian dài, từ năm 1965 đến năm 1969, là một bản tổng kết sâu sắc, toàn diện kinh nghiệm, quá trình chỉ đạo cách mạng, những trải nghiệm, đường hướng phát triển tương lai của dân tộc.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, một người học trò xuất sắc, một cộng sự gần gũi và thân thiết của Bác đã viết về những trăn trở đầy tâm huyết, sự cẩn trọng, cân nhắc đầy trách nhiệm của người cộng sản, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh khi soạn thảo “Tài liệu tuyệt đối bí mật” này: “Lúc gần tuổi “cổ lai hy”, thì phải nghĩ tới những gì cần căn dặn lại những người sẽ kế tục sự nghiệp của mình. Chắc rằng Bác Hồ của chúng ta đã suy nghĩ rất nhiều về việc này. Bác đã đi thăm Côn Sơn, đây là một cuộc hành hương đến nơi ở cuối cùng của Nguyễn Trãi. Lúc bắt tay vào công việc cực kỳ trọng yếu này, Bác đã trải qua bao nhiêu trăn trở, ôn lại cuộc đời gắn với vận mệnh của dân, của nước, đầy sóng gió nhưng cũng đầy thắng lợi, đồng thời nhìn về tương lai với lòng tin sâu sắc vào những thế hệ sắp tới”.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự kết tinh của trí tuệ uyên bác, nhân cách cao đẹp
Bác Hồ làm việc ở Nhà sàn năm 1960. Ảnh tư liệu 

Như bài viết “Di chúc của đồng chí Hồ Chí Minh” ký tên Người quan sát đăng trên tạp chí Thời mới, số 38, ra ngày 24-9-1969 đã nhận định: “Sức mạnh của những người cộng sản là ở chỗ họ nhìn thấy được những sự kiện trong một tương lai lịch sử rộng lớn. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định điều đó. Người viết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn, đó là một điều chắc chắn”. Trong nội dung cốt lõi của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo, đã nhìn thấy trước và đề cập đến những công việc cần thiết phải thực hiện để xây dựng lại một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trong tương lai: Chỉnh đốn Đảng; bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; kế hoạch xây dựng lại thành phố, làng mạc, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân…

Không chỉ trong lời nói, câu viết, Bác luôn quan tâm, gần gũi nhân dân bằng những hành động cụ thể thiết thực. Trong Di chúc, Bác đặc biệt quan tâm đến con người và những “công việc với con người”.

Trước hết, thể hiện khát vọng và niềm tin tất thắng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, Bác “có ý định đến ngày đó” sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc chúc mừng đồng bào và chiến sĩ cả nước, và thay mặt nhân dân Việt Nam “đi thăm và cảm ơn” bè bạn quốc tế đã “tận tình ủng hộ và giúp đỡ” cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Bác chỉ rõ Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân lao động ở miền núi cũng như miền xuôi; và đề cập đến từng đối tượng cụ thể, đó là những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; những liệt sĩ, cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ; những chiến sĩ trẻ, phụ nữ, thanh niên xung phong…

Di chúc ngời sáng tư tưởng yêu thương con người, được Bác nêu lên và vận động mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Đồng thời, cũng nêu một tấm gương về phép xử thế rất nhân văn của nhà văn hóa lớn, của vị lãnh tụ tận tụy, hy sinh vì nước, vì dân, không một chút riêng tư./.

ST.