Thứ Tư, 8 tháng 5, 2019

HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÁC PHONG CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ CHÍNH TRỊ.


HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÁC PHONG CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ CHÍNH TRỊ.
 ĐTM 007/2019
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập và tổ chức, giáo dục rèn luyện Quân đội nhân dân Việt nam, Người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, đã để lại một kho tàng vô giá về xây dựng Đảng, xây dựng đường lối chính trị, đường lối quân sự, về tổ chức và chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân, trong đó những quan điểm của người về đội ngũ cán bộ chính trị, về hoạt động CTĐ,CTCT và  tác phong công tác của người cán bộ chính trị. Vì thế, việc nguyên cứu nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tác phong công tác của người cán bộ chính trị càng có ý nghĩa và giá trị thực tiễn sâu sắc đối với đội ngũ cán bộ chính trị trong giai đoạn hiện nay, mà còn mãi về sau.
Tác phong công tác của người cán bộ chính trị có vai trò quyết định đến chất lượng hoạt động CTĐ,CTCT, chất lượng xây dựng quân đội. Về vấn đề này V.I.Lênin đã khảng định: “ở đâu mà công tác chính trị trong quân đội, công tác của các chính uỷ làm được chu đáo nhất, thì ở đấy nói chung, trong số các chuyên gia quân sự ít thấy có khuynh hướng phản bội hơn cả; ở đấy có rất ít cơ hội cho họ thực hiện ý định của họ; ở đấy không hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân đội giữ được trật tự tốt hơn, và tinh thần của họ cũng cao hơn, ở đấy thu được nhiều thắng lợi hơn[1]. Hồ Chí Minh chỉ rõ tác phong công tác của người cán bộ cách mạng có vai trò vô cùng to lớn trong việc “động viên toàn thể nhân dân hăng hái thực hiện chính sách đã định[2]. Có tác phong công tác tốt “mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to lớn cuả nhân dân trong việc thực hiện mục đích chính trị, nâng cao khả năng hoàn thành nhiệm vụ[3].
Hồ Chí Minh cho rằng tác phong công tác của người cán bộ là thể hiện nhân cách của chính họ, tư cách của chính họ. Tác phong công tác không chỉ bao hàm nội dung phẩm chất bên trong tự mình của bản thân mỗi con người, mà nó còn bao hàm cả thái độ, cách ứng sử của người đó với những người xung quanh ,với công việc và khả năng hành động thực hiện các nhiệm vụ , cộng việc được giao. Nó là sự đan xen, hoà quyện vào nhau một chặt chẽ những yêu tố thuộc về phẩm chất và năng lực của người cán bộ. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát rất cụ thể về “tư cách người cách mệnh” trong các nội dung với mình với người, với công việc tác phong CTĐ,CTCT của người cán bộ chính trị trong quân đội, chính là tác phong của Đảng, mang những đặc tính của tác phong lãnh đạo của Đảng được vận dụng vào trong quân đội để xây dựng quân đội, xây dựng đảng bộ quân đội vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức. Chính vì vậy, tác phong công tác của người cán bộ chính trị còn mang những đặc chưng riêng của hoạt động quân sự, của điều lệnh, điều lệ quân đội.
Trong lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của dân tộc ta, trong những thời kỳ mà giai cấp phong kiến còn đóng vai trò lịch sử tiến bộ các thế lực phong kiến ngoại bang xâm lược, nhiều tướng lĩnh chỉ huy quân đội đã làm tốt công tác chính trị tư tưởng, có tác phong gần gũi, chan hoà, chăm lo đến binh sỹ động viên tinh thần tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng quân địch hung bạo và mạnh hơn rất nhiều lần. Vận dụng những nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững tư tưởng của V.I.Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Hồ Chí Minh khảng định rõ trong thư “hội nghị chính trị viên” tháng ba năm 1948: “tư cách của người chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, là bộ đội ấy tốt[4].
Người cán bộ chính trị là một bộ phận, một thành phần tất yếu của quân đội cách mạng được bắt nguồn từ sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với lực lượng vũ trang cách mạng. Ngay từ những ngày đầu mầm mống, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “về mặt chính trị cấp nào cũng có một người chính phái viên do đoàn thể cách mạng lựa chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm[5]. Đó là “người của Đảng cộng sản” trong quân đội nhằm mục đích cao nhất là giữ bản chất cách mạng của quân đội, người đảng viên cộng sản được Đảng giao nhiệm vụ chuyên trách công tác tư tưởng, công tác tổ chức của Đảng trong quân đội; người cán bộ chính trị phải là người tuyệt đối trung thành với mục tiêu lí tưởng của Đảng, kiên định vững vàng về chính trị, tiêu biểu về đạo đức cách mạng.
Trong “cuốn sách của chính trị viên” do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo biên soạn nêu rõ: chính trị viên phải nắm chắc con đường chính trị của Đảng, giác ngộ cách mạng sâu sắc, nhận thức cách mạng vững vàng, kinh nghiệm chính trị rõ ràng, người cán bộ chính trị là người giương cao ngọn cờ chính trị, tư tưởng của Đảng, quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng, không ngừng giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo và ảnh hưởng của Đảng trong mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống của đơn vị. Đó chính là tiêu chuẩn, là phẩm chất và năng lực của người cán bộ chính trị nhằm lãnh đạo đơn vị đi đúng con đường chính trị mà Đảng đã vạch ra. Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục cán bộ chiến sỹ quân đội nhân dân trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân. Lòng trung thành với Đảng, với tổ quốc, với nhân dân là thái độ trách nhiệm chính trị của người quân nhân cách mạng, mà ở người cán bộ chính trị phải vững vàng kiên định và được biểu hiện rõ nhất. Bác Hồ nói: “Riêng về các chú, chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc[6]. Thái độ trách nhiệm chính trị đã được thể hiện cụ thể trong việc hoàn thành xuất sắc mọi nhiện vụ chính trị của Đảng, của tổ quốc và nhân dân giao phó “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng[7]. Lòng trung thành với mục tiêu lí tưởng của Đảng còn được thể hiện trong mọi hoạt động cụ thể hàng ngày của người cán bộ chính trị, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chức trách của mình, tận tuỵ trong công việc và lợi ích tập thể, tất cả vì tiến bộ, thắng lợi thành công của đơn vị, của từng cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị. Trong cuộc vận động luyện quân lập công của quân đội ta đầu năm 1948, trong thư gửi hội nghị chính trị viên, Bác Hồ viết: “chính là một động lực to lớn trong cuộc vận động đó[8], và người cho rằng, người cán bộ chính trị phải thực sự là người tiêu biểu của động lực chính trị to lớn đó.
Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ chính trị phải tiêu biểu về lòng dũng cảm, ý chí ngoan cường gan dạ trong chiến đấu để động viên, cổ vũ bộ đội xông lên giết giặc lập công. Người rất quan tâm giáo dục đội ngũ cán bộ chính trị rằng: “Các đồng chí cán bộ của Đảng ở các cấp phải cố gắng tiến bộ hơn, để lãnh đạo bộ đội. Từ việc lớn đến việc nhỏ, cán bộ đều phải làm kiểu mẫu. Giữ gìn kỷ luật, học tập kỹ kỹ thuật, luyện quân lập công, xung phong chiến trận,... Cán bộ đều phải làm gương. Như thế là quân đội ta sẽ là một quân đội vô địch, và kháng chiến nhất định thành công[9].
Người cán bộ chính trị là người tiêu biểu về đạo đức cách mạng, mà theo Bác đạo đức cách mạng là: “nhận rõ phải trái. Giữ vững lập trường. Tân trung với nước, tận hiếu với dân[10], quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Trong buổi nói chuyện tại trường chính trị trung cấp quân đội, Bác Hồ đã phân tích về cần kiệm liêm chính chí công vô tư và chỉ rõ: “cần kiệm liêm chính của ta là đạo đức của người quân nhân cách mạng[11] và người yêu cầu mọi cán bộ chính trị “phải thực hiện đạo đức đó”
Người cán bộ chính trị là người cán bộ lãnh đạo, làm công tác lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh, năng lực lãnh đạo của người chính trị phải toàn diện cả về chính trị, quân sự, năng lực về tuyên truyền, tổ chức và xếp đặt kế hoạch hoạt động, giải quyết kịp thời những việc cấp bách, sinh hoạt tinh thần, vật chất của đội du kích, năng lực toàn diện đó giúp cho người “chính trị viên nhúng tay vào mọi việc để do đó mà dẫn dắt người khác. Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ phải đủ đức đủ tài có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai[12]. Năng lực của người cán bộ chính trị không chỉ bao hàm năng lực nhận thức và năng lực hành động thể hiện trình độ trí tuệ cao và trình độ tổ chức thực tiễn giỏi. Hồ Chí Minh yêu cầu: “người chính trị viên phải có rất nhiều tư cách lãnh đạo, rất nhiều năng lực. Công việc chính trị viên phức tạp chừng nào nào thì cân họ có đủ năng lực[13]”. Vì vậy, người cán bộ chính trị phải là người hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin; nắm chắc đường lối chính sách, quan điểm của Đảng; các nội dung nguyên tắc tiến hành công tác Đảng công tác chính trị; “phải học tư tưởng chiến lược, chiến thuật, học cách dậy bộ đội đánh giặc, học phương pháp chỉ huy chiến đấu[14], nắm vững  kỹ thuật.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, người cán bộ chính trị phải thực sự mẫu mực về phong cách, tác phong công tác, lời nói phải đi đôi với việc làm. Bởi vì, “người chính trị viên không phải là một ông quan suốt ngày ngồi bàn giấy viết thông báo, chỉ thị”[15] mà phải là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện nội dung, trong nhiều lĩnh vực với nhiều đối tượng khác nhau.
Người cán bộ chính trị với nội dung hoạt động chủ yếu là hoạt động lãnh đạo                                                                                                                  pháp công tác chủ yếu là giáo dục, thuyết phục, thông qua hoạt động hàng ngày mà tác động xây dựng nhân cách của từng con người, từng tập thể quân nhân, đảm bảo cho mõi quân nhân và tập thể quân nhân giữ vững bản chất cách mạng, trung thành với mục tiêu lí tưởng của Đảng, hăng hái thực hiện mọi  nhiện vụ. Do đó, phương tác phong hoạt động công tác Đảng công tác chính trị có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội và tác đông rất lớn đến hiệu quả thực hiện  nhiệm vụ của đơn vị.



[1] V.I.Lênin, Toàn tp, Nxb Tiến b, M.1979, t.39, tr.66
[2] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t.5, tr520
[3] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t5, tr.520
[4] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t.5, tr392
[5] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t3, tr472
[6] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t6, tr318
[7] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t11, tr350
[8] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t5, tr398
[9] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t5, tr349
[10] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t.7, tr.480
[11] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t6, tr321
[12] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t8, tr184
[14] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 1995,  t6, tr319
[15] H Chí Minh v Xây dng lc lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, H.1995, tr55

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẠO TIN LÀNH Ở ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN HIỆN NAY.


MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẠO TIN LÀNH
Ở ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN HIỆN NAY.
                                                                                 DTM 005/2019
Tây Nguyên không chỉ là một địa bàn có vị trí chiến lược về kinh tế quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả nước mà còn là địa bàn phức tạp về vấn đề tôn giáo và dân tộc. Trong các tôn giáo ở Tây Nguyên  thì đạo Tin Lành là một tôn giáo du nhập vào địa bàn này muộn hơn các tôn giáo khác, nhưng sự du nhập của đạo Tin Lành gắn liền với mưu đồ chiến lược của Mỹ đối với Tây nguyên và Việt Nam.
1. Sơ lược về sự du nhập và phát triển của đạo tin lành ở Tây Nguyên.
Ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, tổ chức Hội liên hiệp Cơ đốc Truyền giáo (CMA) của Tin lành Mỹ đã bắt đầu phái giáo sỹ đến khảo sát, thăm dò, xây dựng kế hoạch truyền giáo ở Đông dư­ơng và Việt Nam. Năm 1893 Mục sư D.Seclacheur đến Sài Gòn, năm 1897 Mục sư C.H.Recver đến Lạng Sơn, năm 1899 Mục sư R.A.Faffray đến Hà Nội,  năm 1901 Mục sư S.Dayan đến Hải Phòng, năm 1911 Mục sư Faffray Hostes  đến Đà Nẵng lập Hội Thánh đầu tiên và đạo Tin Lành  bắt đầu phát triển ở Việt Nam, trong đó có Tây Nguyên. Từ những năm 1929-1932, các giáo sỹ thuộc CMA đã đặt chân lên vùng đất Tây Nguyên để truyền đạo và gây dựng cơ sở. Năm 1929 Jackson giáo sỹ người Mỹ thành viên của CMA, được phái lên Tây Nguyên để nghiên cứu tình hình chuẩn bị cho công cuộc truyền đạo lên vùng này. Từ năm 1930-1932 các giáo sỹ người Mỹ đến truyền đạo vùng dân tộc K’Ho - ĐàLạt, vùng dân tộc Êđê – Buôn Mê Thuột. Năm 1936 vợ chồng giáo sỹ T.Mangham truyền đạo vào vùng dân tộc Jarai (Pleiku), cũng trong năm đó thành lập Hội Thánh Tin Lành Phú Bổn, Pleiku, Quảng Đức. Năm 1940 mục sư phạm xuânTín được cử lên Pleiku để tiếp tục công cuộc truyền đạo cho người Việt ở vùng này; mục sư  Trương Văn Sáng đi truyền đạo vào vùng dân tộc Ja Rai; mục sư  Đặng Văn Sang đi truyền đạo vào vùng dân tộc Stiêng; mục sư Lê Khắc Cung đi truyền đạo vào vùng dân tộc Êđê; mục sư Duy Cách Lâm đi truyền đạo vào vùng dân tộc K’Ho… đến năm 1940- 1942 Đạo Tin Lành đã phát triển rộng ở vùng Phú Bổn, An Khê, Quảng Đức, Pleiku, vùng Đơn Dương, Đức Trọng, Bảo Lộc (Lâm Đồng) Buôn Hồ, Krông Pắk (Đắc lắk).
Sau năm 1954, CIA đã tìm mọi cách nắm lấy những người có uy tín trong trong phong trào BaJaRaKa ( FULRO), gạt dần ảnh hưởng của Pháp đối với phong trào này. Tin Lành được Mỹ và CMA đầu tư cơ sở vật chất để mở rộng địa bàn hoạt động, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện đào tạo mục sư tại chỗ. Dịch và in ấn nhiều tài liệu bằng tiếng Êđê, Mơ Nông để rao giảng và phát triển tín đồ, Mỹ và CMA tìm cách thao túng địa hạt Thượng du để nắm lấy Tin Lành người thượng phục vụ cho mục đích lâu dài của chúng. Chúng tổ chức các “Đội sinh viên tình nguyện quốc tế” để đi tuyên truyền phát triển đạo Tin Lành, gây ảnh hưởng, lôi kéo những dân tộc thiểu số làm hậu thuẫn cho Mỹ và làm lực lượng xung kích chống phá cách mạng. Dưới sự đạo diễn của Mỹ trực tiếp là của cố vấn, nhân viên CIA, chính quyền Thiệu đã nâng “Phủ đặc uỷ thượng vụ” lên thành “Bộ phát triển các sắc tộc”, dần dần thu phục và điều khiển được các thủ lĩnh của FULRO, sử dụng FULRO chống lại cách mạng. Từ năm 1962 nhiều Tín Đồ Tin Lành người thượng ảnh hưởng của FULRO, giữa FULRO và Tin Lành có mối quan hệ khăng khít, gắn bó với nhau và đều nằm trong âm mưu xâm chiếm Tây Nguyên của Mỹ.
Sau năm 1975, Mỹ tiếp tục giúp đỡ hỗ trợ FULRO chống phá chính quyền cách mạng ở Tây Nguyên. Quá trình ta đấu tranh với FULRO ở Tây Nguyên cũng gắn liền với việc bắt các mục sư tham gia vào tổ chức FULRO, vạch tội cốt cán Tin Lành theo FULRO trước quần chúng… Thời kỳ này các mục sư ngừng hoạt động, đóng của nhà thờ tạm thời lùi bước chờ thời cơ phục hồi, phát triển tín đồ, tái thiết lập cơ sở giáo hội để đấu tranh với ta. Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên trở nên phức tạp từ giữa những năm 80. Lợi dụng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, lợi dụng đường lối mở cửa và chính sách quan hệ đối ngoại đa phương của Đảng và nhà nước ta, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn tác động vào Tin Lành ở Tây Nguyên gây rối nội bộ giáo hội Tin Lành, đẩy một bộ phận quần chúng đồng bào tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên đi đến thành kiến bất hợp tác với chính quyền.
2.  Nhận xét về Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay.
- Xét về phương diện tín ngưỡng tôn giáo:
Đạo Tin Lành xâm nhập và phát triển ở Tây Nguyên là kết quả của quá trình truyền giáo, phản ánh mục tiêu mà CMA đã đặt ra: “Đem đức tin đến những nơi chưa từng được nghe danh tiếng của chúa Giê-su”. Hơn 70 năm là một quá trình hoạt động tôn giáo có tổ chức và trên thực tế CMA đã đạt được những kết quả nhất định. Các tín đồ dân tộc thiểu số vào đạo không phải tự nguyện mà phần lớn bị bắt buộc qua các thời kỳ, qua quá trình nhiều năm đấu tranh chống đối quyết liệt cho đến khi tầng lớp trên  (chủ làng, già làng) bị mua chuộc, bị lôi kéo, phải ngả theo thì cả làng phải theo đạo. Hiểu biết của đồng bào về đạo rất hạn chế, họ chỉ biết mục sư, giảng sư như thầy cúng cao tay về phù phép, bị dụ dỗ mua chuộc nên bằng lòng với việc đồng hoá tín ngưỡng cũ với tôn giáo mới du nhập.
- Về bản chất:
Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên do CMA và Mỹ dựng lên đầu tư để nó phát triển, hình thành những tập quán và nội dung cho sinh hoạt tôn giáo phù hợp với điều kiện và đặc điểm Tây Nguyên, từ đó hoà nhập được với vùng dân tộc ít người ở mức độ đáng kể. Dựng lên một tổ chức Tin Lành khu vực, mang màu sắc dân tộc và do phần lớn người dân tộc quản lý, với hệ thống cơ sở vật chất tương đối đầy đủ  phục vụ cho hoạt động tôn giáo; huấn luyện đội ngũ giáo sỹ là người dân tộc thiểu số có chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn về truyền giáo vùng dân tộc, nhằm thực hiện mục đích chiến lược của CMA và Mỹ.
-  Về chính trị:
Đạo Tin Lành xâm nhập và phát triển ở Tây Nguyên không tách rời việc truyền giáo với âm mưu lâu dài của đế quốc Mỹ thông qua việc “Tôn giáo hoá các dân tộc” để thực hiện mưu đồ về chính trị. Đặc biệt là âm mưu thúc đẩy và nắm Tin Lành người dân tộc thiểu số, thể hiện rõ nét qua việc viện trợ vật chất để xây dựng nhà thờ, lôi kéo đồng bào dân tộc, cài cắm gián điệp vào tổ chức Tin Lành, thao túng đội ngũ giáo sỹ và các Hội Thánh từ địa hạt xuống các chi hội cơ sở. Thông qua “Qui chế đặc biệt” cho Tin Lành người thượng để phục vụ cho mưu đồ chính trị lâu dài và làm cho Tin Lành ở Tây Nguyên ngày càng dính líu chặt chẽ hơn, sâu sắc hơn về chính trị đặc biệt là gắn chặt với FULRO. Sự phục hồi và phát triển của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay nằm trong ý đồ của các thế lực thù địch âm mưu tái thiết lập một lực lượng chính trị phản động thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” thủ tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà chủ nghĩa đế quốc đã chuẩn bị từ lâu
 -  Về mặt xã hội :
Đạo Tin Lành là một tôn giáo cải cách, lấy hoạt động xã hội làm phương tiện và điều kiện để thu hút tín đồ, rất chú ý đến từ thiện, đến công tác truyền giáo vào các dân tộc thiểu số nơi điều kiện kinh tế văn hoá còn phát triển thấp. Khi truyền đạo ở những vùng này, những nhà truyền giáo Tin Lành không những tôn trọng phong tục, tập quán địa phương mà còn sẵn sàng đổi mới để dễ dàng hoà nhập, thích nghi với môi trường xã hội cũng như tâm lý, lối sống của quần chúng nhân dân nơi truyền đạo. với cách thức hành đạo rất năng động, đề cao vai trò cá nhân của tín đồ và thích nghi cao độ với hoàn cảnh mà đạo Tin Lành có khả năng duy trì tín ngưỡng ngay cả những nơi không có giáo sỹ, không có nhà thờ, thậm chí trong cả điều kiện sinh hoạt tôn giáo bình thường chưa có tiền lệ. Cơ cấu dân tộc biến đổi nhanh chóng; mối quan hệ liên kết cộng đồng dòng tộc, buôn làng có phần suy giảm; vai trò của già làng trong cộng đồng theo tập quán ở một số nơi dần dần mất vị trí.  Sự phát triển xã hội trong cơ chế thị trường đã tạo ra khoảng trống lớn, làm giảm sức đề kháng của nền văn hoá lâu đời mang những nét đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên, trước sự xâm nhập tác động của đạo Tin Lành.
  Quá trình du nhập và phát triển của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên vừa là kết quả của quá trình truyền giáo nhưng cũng gắn liền với quá trình mở rộng và thực hiện các mưu đồ chiến lược của Mỹ ở đây. Ngày nay tuy đã bị thất bại nhưng bọn đế quốc đứng đầu là Mỹ và các thế lực phản động vẫn lợi dụng đạo Tin Lành để xây dựng lực lượng chống phá ta lâu dài.  Điều đó khẳng định đạo Tin Lành là một trong những công cụ để Mỹ thực hiện kế hoạch “ Hậu chiến”, triển khai chiến lược “Diễn biến hoà bình” và là công cụ của Mỹ câu kết với FULRO chống phá cách mạng trước đây cũng như hiện nay và sau này ở Tây Nguyên – địa bàn chiến lược nối liền Việt Nam với ba nước Đông Dương.
Công tác đấu tranh với hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng đạo Tin Lành chống phá cách mạng trên địa bàn Tây Nguyên là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tính chất phức tạp và phạm vi rộng lớn của cuộc đấu tranh này đòi hỏi phải huy động sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Quân đội là một lực lượng trong hệ thống chính trị, tham gia đấu tranh chống hoạt động lợi dụng đạo Tin Lành của các thế lực thù địch không chỉ là nhiệm vụ thuộc chức năng đội quân công tác mà Quân đội còn là chỗ dựa vững chắc cho chính quyền các địa phương phát huy sức mạnh tổng hợp, sử dụng lực lượng tổng hợp đấu tranh đánh bại mọi  âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù.
Trong thời gian qua, Quân đội cùng các cấp chính quyền, các ngành có liên quan, đã tích cực đấu tranh với các âm mưu và thủ đoạn lợi dụng đạo Tin Lành của các thế lực thù địch để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn Tây Nguyên. Tuy nhiên, hoạt động lợi dụng Đạo Tin Lành của các thế lực thù địch vẫn diễn ra quyết liệt, tiềm ẩn, tích tụ nhiều nguy cơ gây mất ổn định chính trị, ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đe doạ độc lập chủ quyền của tổ quốc. Tình hình trên đây đòi hỏi Quân đội phải trực tiếp  tham gia đấu tranh chống hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng Đạo Tin Lành chống phá cách mạng trên địa bàn hiện nay ” góp phần  xây dựng Tây Nguyên giàu đẹp, chính trị ổn định, kinh tế – xã hội phát triển, quốc phòng an ninh bảo vững chắc.





Một số vấn đề cần chú ý khi tiến hành công tác vận động quần chúng vùng tôn giáo.


Một số vấn đề cần chú ý khi tiến hành công tác vận động quần chúng vùng tôn giáo.
ĐTM/2019
Thường xuyên tổ chức quán triệt, phổ biến, học tập các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng Nhà nước về công tác tôn giáo trong tình mới. Nâng cao nhận thức, cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo về đặc điểm, giáo lý giáo lyaat, lễ nghi của từng tôn giáo để tiến hành công tác vận động quần chúng vùng tôn giáo đạt hiệu quả tốt.
Công tác tôn giáo phải thực hiện dưới sự lãnh đạo, quản lý điều hành của Cấp ủy, chính quyền địa phương; phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị  - xã hội trong triển khai thực hiện.
Tích cực đổi mới, nội dung, hình thức công tác dân vận vùng tôn giáo vùng sâu, vùng xa , biên giới phù hợp với đặc điểm của từng tông giáo, từng địa phương; quan tâm lợi  ích chính đáng của tín đồ các tôn giáo, bảo đảm quyền sinh hoatjtoon giáo bình thường đúng pháp luật. Phát huy vai trò của các chức sắc, chức việc, người có uy tín trong các tôn giáo tham gia vận động tín đồ thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; nhiệm vụ của địa phương, kiên quyết đấu tranh với mị hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chia rẽ, khối đoàn kết toàn dân tộc.Hướng dẫn tổ chức ton giáo, chức sắc, tín đò, nhà tu hành tham gia thực hiện xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục, từ thiện nhân đạo….đúng pháp luật của Nhà nước, phù hợp với chức năng và nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo.
Xử lý về đất đai, nhà ở sử dụng vào mục đích tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo đúng pháp luật, pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo chỉ thij1940/ CT của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với hội đoàn tôn giáo, thực hiện theo điều 19, 20 – Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.
Xử lý các vụ việc phức tạp vùng tôn giáo phải thực hiện dưới sự lãnh đạo của cấp Uỷ Đảng, sự điều hành của chính quyền địa phương.  Nắm vững  phương châm : dựa vào quần chúng tín đồ để giải quyết vấn đề tôn giáo; tích cực tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các chức sắc, chức việc tiến bộ. Phát huy vai trò tham mưu của các cơ quan chức năng để có các chue trương, biện pháp giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở, không để sự việc lây lan kéo dài, tạo sơ hở để các thế lực thù dịchđể các thế lực thù địch, những phần tử xấu lợi dụng tôn giáo gắn với “ dân chủ” “ dân quyền” thực hiện “ diễn biến hòa binh’, bạo loạn lật đổ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội, suy yếu sức mạnh quốc phòng – an ninh của đất nước.

Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo


Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo
ĐTM/2019
- Chăm lo phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội cho nhân dân vùng đặc biệt khó khăn, quan tâm nâng cao đời sống đồng bào theo tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Hướng dẫn tín đồ, chức sắc các tôn giáo chấp hành và thực hiện nghiêm Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã  được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2004 và Luật tín ngưỡng tôn giáo đã được kỳ họp  thứ hai Quốc hội khóa XIV thông qua ngày18 tháng 11 năm 2016.
- Tăng cường cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo để kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối xâm phạm an ninh quốc gia.

Giải pháp và chính sách đối với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.


Giải pháp và chính sách đối với tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
ĐTM/2019
a. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn thể xã hội về vấn đề tôn giáo.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân;nhất là ddooid với chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo.
- Giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc; giúp các tôn giaos giữ đúng đường hướng hành đạo, gắn với dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, đan tộc và nhân dân; tạo sự thống nhất, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo để đấu tranh chống lại những hoạt đông mê tín, lợi dụng tôn giáo gây mất ổn định ở cơ sở.

Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.


Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
ĐTM/2019
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công đối với Tổ quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngương, tôn giáo; đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước; kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, xâm phạm an ninh quốc gia

Nhận thức mới của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. ĐTM/2019


Nhận thức mới của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
ĐTM/2019
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới quan trọng về nhận thức, quan điểm, nhiệm vụ, chủ trương, chính sách đối với tín ngưỡng tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển về nhận thức. Nghị quyết này có 2 luận điểm mang tính đột phá là: tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và tôn giáo có những giá trị văn hoá, đạo đức phù hợp với chế độ mới. Phải đặt 2 luận điểm này trong khung cảnh lúc đó ta mới hiểu rõ ý nghĩa. Đó là một thời điểm lịch sử đặc biệt các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, nhưng những quan điểm tả khuynh về tôn giáo vẫn còn chế ngự.
 Đặc điểm chủ yếu của giai đoạn ấy là, phê bình tôn giáo tập trung chủ yếu vào những vấn đề căn bản của thuyết vô thần mác-xít và các hình thái vô thần duy vật khác, ở Trung  Quốc đã có những dấu hiệu đổi mới đầu tiên với việc bàn luận về những đặc điểm tôn giáo ở Trung Quốc và khả năng thích ứng với chủ nghĩa  xã hội của tôn giáo (1982).
Với nước ta, 2 luận điểm trên đã nhanh chóng tạo nên sự đột phá nhận thức: không thể nhìn tôn giáo qua mệnh đề của Mác đã bị cắt xén và phiến diện “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Phải nhìn nhận tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của một bộ phận quần chúng, và nó hoàn toàn có thể đồng hành với chủ nghĩa  xã hội. Riêng luận đề mới mẻ về văn hoá tôn giáo đã khơi dây trực tiếp những suy nghĩ, hành động tích cực của quần chúng, người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo.
Khi các giá trị văn hoá đạo đức cuả tôn giáo được đặt trong khuôn khổ của văn hoá dân tộc, một mặt đã thừa nhận sự đa dạng của văn hoá dân tộc, mặc khác tạo ra thêm một con đường đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Khai thác tốt các giá trị văn hoá, đạo đức cuả tôn giáo là cách tốt nhất để cho nhiều tôn giáo thuận lợi hơn trong quá trình tìm về dân tộc.
Kể từ sau nghị quyết 24 nói trên, Đảng ta còn có nhiều văn kiện khác khẳng định và phát triển tư duy đổi mới về vấn đề tôn giáo, đặc biệt là chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII về công tác tôn giáo trong tình hình mới, một văn kiện quan trọng lần đầu tiên được đăng tải công khai trên báo nhân dân và hàng loạt báo khác và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, vấn đề tôn giáo được đưa ra bàn bạc, quyết định ở cấp Ban Chấp hành trung ương đó là văn kiện của Hội nghị Trung ương 7 (khoaIX) còn gọi là nghị quyết 25 (12/3/2004) với tên gọi về công tác tôn giáo, đến nay vẫn giữ vai trò định hướng cho công tác tôn giáo và cho cả bản thân đời sống tôn giáo.
Cần ghi nhận con số sau đây: từ 1990 đến 2003, đã có 13 văn kiện về các vấn đề tôn giáo gồm 2 nghị quyết, 2 chỉ thị, 9 thông báo. Trong đó Ban bí thư, ban hành một chỉ thị, 7 thông báo; Bộ Chính trị ban hành 1 nghị quyết, 1 chỉ thị và 2 thông báo; Ban Chấp hành Trung ương ban hành 1 nghị quyết.
Điều quan trọng hơn cả là, đến nay nhận thức về vấn đề tôn giáo của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có bước tiến khá dài. Một bầu không khí xã hội mới mẻ đã lan toả, ranh giới vô hình mà khắc nghiệt về sự phân biệt “lương, giáo” mà các thế lực đế quốc thực dân, phong kiến trước đây cố tình khoét sâu mâu thuẫn này đã đựơc gỡ bỏ căn bản, tạo nên những điểm sáng trong quan hệ đạo đời.
Sự đổi mới trong chính sách tôn giáo
Đây là bề nổi của sự vật và thật đáng chú ý, điều này ngaỳ càng bộc lộ rõ, tạo nên những chuyển biết hết sức sống động trong thực tiễn đời sống tôn giáo ở nước ta. Ngoài những quy phạm pháp luật chứa đựng trong các điều luật cuả các bộ luật (luật hình sự, luật tố tụng hình sự…) cho đến nay những văn bản có tính pháp lý cao nhất như các bản Hiến pháp, từ 1991 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản riêng về tôn giáo, tín ngưỡng.
Có thể xem Nghị định số69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng “Quy định về các hoạt động tôn giáo” là văn bản mở đầu.Năm 1993, Chính phủ ra Nghị định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan có tầm quan trọng bậc nhất về quản lý nhà nước về tôn giáo: Ban tôn giáo của Chính phủ.
 Sau đó là nhiều văn bản  đều có dấu ấn khác: Nghị định 26 ngày 19/4/1999 của Chính phủ “Về các hoạt động tôn giáo’’, Quyết định số 125/2003 ngày  18/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7(khoá IX) về công tác tôn giáo”.
Đặc biệt, tháng 7/2004, dư luận trong nước và quốc tế rất quan tâm đến sự kiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và được ban hành cũng như Nghị định của Chính phủ vừa ban hành mới đây(3/2005) “Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo’’.
 Về mặt vĩ mô, phải nói sự đổi mới mạnh mẽ của chính sách tôn giáo cũng được bắt nguồn từ tinh thần của Nghị quyết 24 nói trên. Trong đó, cũng là lần đầu tiên, công tác tôn giáo vốn được coi chủ yếu là công tác đánh địch lợi dụng, nay được coi chủ yếu là công tác vận động quần chúng (phạm trù công tác dân vận) với luận đề quan trọng: “Thực chất công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”.
Chúng ta đã có những bước tiến dài trong việc thể chế hoá các quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng của quần chúng và các hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Từ 1991 đến nay, chúng ta luôn thể hiện quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyễn XHCN trên lĩnh vực quản lí tôn giáo, bằng việc ban hành hàng loạt quy định, nghị định, chỉ thị, thông tư,…và đỉnh cao nhất là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể nói hàng loạt các văn bản pháp lí ấy đã thể hiện sinh động sự đổi mới về chính sách tôn giáo. Chúng tôi có khái quát vào một số điểm sau đây:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa nhà nước với các tôn giáo, là nói đúng hơn là các tổ chức tôn giáo  (giáo hội, hội thánh, ban trị sự, hội đồng giáo sứ..” đã được cải thiện căn bản theo hướng pháp quyền. Một mô hình Nhà nước thế tục mác-xít, về bản chất là nhà nước thế tục phi tôn giáo do Chủ tịch Hồ Chí Minh    sắc lệnh số 234 (1955), nay đã hiện ra rõ rệt. Mô hình này tỏ ra thích hợp với đời sống tôn giáo ở Việt Nam, được đông đảo đồng bào có đạo và quần chúng nói chung hoan nghên và bước đầu được thế giới nhìn nhận.  Trên cả 3 khâu: theo đạo, hành đạo và quản đạo đã được thể chế hoá và cơ bản đã phù hợp với thực tiễn.
Thứ hai, về mối quan hệ giữa “hoạt động tôn giáo” và “công tác tôn giáo” cũng được giải quyết tốt hơn. Mối quan hệ này vốn không hề đơn giản vì  các “hoạt động tôn giáo” vốn là lợi ít sống còn của các chủ thể tôn giáo, trong khi đó “công tác tôn giáo” lại là vấn đề thuộc phạm trù quản lý nhà nước. Nhà nước ta hiểu rõ những kinh nghiệm quá khứ, khi mà sự tương tác giữa 2 chủ thể “Hoạt động tôn giáo” và “Công tác tôn giáo” diễn ra không thuận lợi dẫn đến xung đột triệt tiêu lẫn nhau.  Trên  khía cạnh này, tư tưởng  Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng ta về sự khai thác các điểm tương đồng, đồng thuận xã hội có ý nghĩa lớn “giữ vững độc lập, thống nhất của tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thứ ba, vận dụng kinh nghiệm của lịch sử dân tộc và quốc tế về luật pháp tôn giáo, để sự thể chế hoá về quyền hạn và nghĩa vụ của toàn dân, trước hết là cộng đồng các tôn giáo ngày càng thích hợp hơn.  Đây cũng là nét mới trong chính sách tôn giáo của nhà nước ta hiện nay, trực tiếp tạo nên bầu không khí phấn khởi trong các chức sắc và tín đồ các tôn giáo.
Về mặt vi mô, nước ta có 6 tôn giáo chính “Phật giáo, công giáo, đạo tin lành, hồi giáo, cao đài và phật giáo hào hảo” mà việc quản lý mỗi tôn giáo đòi hỏi có những giải pháp riêng. 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những thành tựu rất đáng kể về mặt này.  Không chỉ đối với công giáo, phật giáo, những tôn giáo lớn có vị trí đặc biệt trong hệ thống tôn giáo ở nước ta, những chính sách đúng đắn cuả Nhà nước ta những năm gần đây với đạo Cao đài đã công nhận tư cách pháp nhân cho 10 tổ chức hệ phái; với phật giáo Hoà hảo cũng có những quyết sách mạnh dạn về cơ cấu tổ chức ban trị sự, với Hồi giáo cũng tương tự. Đặc biệt với những chính sách mền dẻo và cởi mở để giải quyết cơ bản “vấn đề Tin lành”, vấn đề tôn giáo nóng bỏng bậc nhất trong những năm gần đây ở nước ta.
Có thể nói sự đổi mới chính sách tôn giáo những năm gần đây đã đem lại hiệu quả to lớn trong việc góp phần quyết định tạo ra sự ổn định, bức tranh sinh hoạt tôn giáo ngày càng có nhiều điểm sáng. Tất nhiên, trong những năm qua và còn lâu dài, các thế lực thù địch vẫn luôn luôn tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống pháp cách mạng Việt Nam. Nhưng có thể nói xu hướng tôn giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là không thể đảo ngược.
Những vấn đề đặt ra trong việc đổi mới nhận thức và chính sách tôn giáo.
Thứ nhất, chúng ta đã thừa nhận tôn giáo còn là một thực tại xã hội, thậm chí nó có thể đồng hành với dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư duy lý luận của chúng ta phải tiến thêm một bước quan trọng khác, một luận đề có tính đột phá khác là, để tôn giáo “thực thể xã hội” ấy có thể thích ứng với chủ nghĩa  xã hội phaỉ tạo cho nó khả năng và quyền hạn “pháp lý nhân sự” tham gia tích cực hơn  một số lĩnh vực xã hội tích cực tham gia phát triển đất nước và thoả mãn như cầu đời sống tôn giáo. Tiền  đề lý luận khách quan là: trong bối cảnh toàn cầu hoá, hiện đại hoá, mọi tôn giáo đều có khuynh hướng trở thành : “tôn giáo xã hội”, thích ứng xã hội ngày càng cao. Văn kiện Đại hội X đã lưu ý chỉ ra rằng: “đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng cuả khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật” (13).
Nhu cầu xã hội của các tôn giáo hiện nay ngaỳ càng tăng trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và nó cũng không tách rời “quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường”.
Thứ hai, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước và các giáo hội.
Trong những năm qua chúng ta có rất nhiều thành tựu về vấn đề này do Đảng ta từ lâu đã biết dựa và tư tưởng Hồ Chí Minh nắm chắc đặc điểm dân tộc, yếu tố dân tộc của cách mạng Việt Nam tránh được phần lớn những sai lầm thiếu sót của khuynh hướng tả khuynh về vấn đề tôn giáo trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đặc biệt từ năm 1990 đến nay, lần đầu tiên Đảng ta đã chuyển vấn đề tôn giáo từ phạm trù nội chính, qua phạm trù công tác dân vận, tạo nên cục diện mới, được đồng bào các tôn giáo đó nhận, tạo nên bầu không khí phấn khởi thuận lợi hơn cho quan hệ nhà nước và các tổ chức tôn giáo. Hiện nay, vấn đề then chốt để tiếp tục đổi mới vấn đề tôn giáo là phải đặt mối quan hệ này trong vấn đề nhà nước pháp quyền, bình thường hoá và pháp  trị. Càng làm  tốt điều này, đời sống tôn giáo càng ổn định vững chắc và xây đắp hơn khối đại đoàn kết dân tộc.
Văn kiện Đại hội X có nói đến “các tôn giáo hợp pháp” và được pháp luật bảo hộ khi các tổ chức tôn giáo ấy “hoạt động theo pháp luật”. Đây là vấn đề rất quan trọng không chỉ ở góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền, mà còn đáp ứng đòi hỏi bức xúc: chỉ có làm tốt công tác hoàn thiện luật pháp tôn giáo mới có thể có điều kiện, phương tiện hữu hiệu làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
 Đối với Việt Nam hiện nay, trước khi nói đến một bộ luật về tôn giáo “các văn bản của Bộ Chính trị đã từng nói điều này” thì cấp thiết phải xây dựng, hoàn thiện hơn luật pháp nhân tôn giáo, các chế tài khác liên quan đến đời sống tôn giáo dù chúng ta đã có pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… có như vậy chúng ta mới có thể hoàn thiện mô hình nhà nước thế tục đã lựa chọn từ những năm đầu hoà bình lập lại sau hiệp định Giơ-ne-vơ (1954).
Thứ ba, việc ổn định đời sống tôn giáo và tạo thêm điều kiện cho các tôn giáo cống hiến khả năng xây dựng phát triển đất nước là không ngòai quy luật mà tư tưởng  Hồ Chí Minh chỉ ra: luôn luôn duy trì và phát triển xu hướng tôn giáo đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa  xã hội, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo trước hết bằng mục tiêu chung, điểm tương đồng giữa lý tưởng tốt đẹp vốn có cuả các tôn giáo với chủ nghĩa  xã hội.
 Khai thác những giá trị tích cực của các tôn giáo trước hết là các giá trị văn hoá và đạo đức, đồng thời luôn cảnh giác những âm mưu lợi dụng các tôn giáo và mục đích chính trị phản dân tộc và chống phá chủ nghĩa  xã hội.
Chúng ta đã từng trải qua những giai đoạn quá dài phương pháp nhận thức về công tác tôn giáo chưa đầy đủ, tả khuynh và nóng vội. Trong các nhận thức chưa đúng đắn ấy, có lẽ 3 nhận thức cơ bản sau đây vẫn còn ám ảnh ở một bộ phận quần chúng:
Thứ nhất, vì tôn giáo là sự “phản ánh ngược” của hiện thực và duy tâm nên nó hoàn toàn đối nghịch với khoa học và chủ nghĩa duy vật.
Thứ hai, vì tôn giáo luôn được hiểu, đồng nhất với mê tín nên nó là hệ ý thức lạc hậu, phải xoá bỏ.
Thứ ba, vì tôn giáo luôn luôn bị các thế lực phản động lợi dụng, nên tôn giáo thường đồng nhất với chính trị, ở đó không có chỗ cho “văn hoá” và giải quyết vấn đề tôn giáo là đấu tranh tư tưởng  chính trị, nhận thức và giải quyết vấn đề địch-ta.
Dưới ánh sáng đổi mới của Đảng ta trong nhận thức và hành động, chúng ta đã có những bước đột phá quan trọng. Tuy vậy, cũng chưa thể coi như “không còn vấn đề gì” trong lĩnh vực vốn rất phức tạp và nhảy cảm này.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh.


Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh.
ĐTM/2019
Bản chất của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù là tước bỏ quyền lónh đạo của Đảng ta đối với quân đội. Do đó, giữ vững và tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với quân đội có ý nghĩa quyết định đánh bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù. Làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ tự “miễn dịch” được trước sự tấn công, xâm nhập của những tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, vấn đề cơ bản, cấp bách hiện nay là phải thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội thật sự TSVM, có sức chiến đấu cao.
Trước mắt, các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ quân đội cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng; thực hiện nghiờm nguyờn tắc tập trung dõn chủ, tập thể lónh đạo đi đôi với phân công cá nhân phụ trách; qua đó xây dựng các tổ chức đảng TSVM, có năng lực lónh đạo và sức chiến đấu cao, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng được thông suốt từ trên xuống dưới, tới từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ.
Phải kết hợp chặt chẽ xây dựng các tổ chức cơ sở đảng TSVM với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa lónh đạo với chỉ huy, giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong đơn vị. Giữa đảng viên với quần chúng, cán bộ với chiến sĩ.
Xây dựng các tổ chức trong đơn vị thực sự đoàn kết nhất trí cao. Sự vững mạnh và hoạt động có hiệu quả của các tổ chức cơ sở đảng là khâu then chốt góp phần tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với từng đơn vị và toàn quân.
Kiên quyết đấu tranh với mọi hiện tượng buông lỏng xây dựng tổ chức đảng, hoặc không gắn việc xây dựng tổ chức đảng TSVM với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Chống mọi hiện tượng tiêu cực tập thể, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp ủy, chỉ huy các cấp; hết sức tránh mọi biểu hiện hạ thấp vai trũ lónh đạo của cấp ủy, chi bộ, đảng bộ đối với đơn vị.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, nhất là cỏn bộ chủ trỡ trong quân đội.
Xây  dựng bản lĩnh chính trị  vững vàng cho đội ngũ cán bộ quân đội đũi hỏi mỗi cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải tăng cường công tác giáo dục chính trị , tư tưởng làm cho mỗi cán bộ, đảng viên kiên định con đường cách mạng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đó lựa chọn; thấm nhuần sõu sắc chủ nghĩa Mỏc-Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước; tuyệt đối tin tưởng vào sự lónh đạo của Đảng; giữ vững và tăng cường lập trường giai cấp công nhân; kiên trỡ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới  đất nước; có ý chí quyết tâm cao, nhạy bén, sắc sảo về chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn và phương pháp, tỏc phong cụng tỏc tốt; lối sống trung thực, giản dị, khụng bị cỏm dỗ bởi lối sống thực dụng vỡ đồng tiền, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường; không ngại khó, ngại khổ, ngại học, ngại rèn; nâng cao năng lực toàn diện, đáp ứng đòi  hỏi của thời kỳ mới. Đội ngũ cán bộ phải có đủ tri thức, bản lĩnh, đấu tranh kịp thời có hiệu quả với mọi thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo của kẻ thù bằng lợi ích vật chất tầm thường; bằng tiền tài, gái đẹp dẫn đến quay lại phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân.    
Bốn là, coi trọng xây dựng môi trường văn hoá ở các đơn vị quân đội trong sạch, lành mạnh; xây dựng đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng.
Môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội trực tiếp nuôi dưỡng, phát triển nhân cách của cán bộ, chiến sĩ một cách toàn diện; góp phần nâng cao trình độ trí tuệ, đạo đức…là điều kiện hết sức thuận lợi để nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; từng bước hạn chế và khắc phục những biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta hiện nay và để chiến lược “diễn biến hoà bình”, âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù không còn đất sống.
 Năm là, kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận, vạch trần bản chất phản động chính trị, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”.
Nhiệm vụ cơ bản trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” hiện nay là: cùng với việc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận nói chung của toàn Đảng, quân đội ta phải hết sức coi trọng, góp phần đấu tranh bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng vạch trần bản chất phản động chính trị, phản động khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”. Những luận điệu về “quân đội trung lập”, “quân đội phi giai cấp” là vô căn cứ, phản khoa học cả về lí luận và thực tiễn; là nhân danh “dân chủ hóa” để lừa bịp về chính trị; thực chất là từ bỏ vai trũ lónh đạo của Đảng đối với quân đội ta, hũng chuyển húa lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân của quân đội.
  Để tiến hành đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận chống âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” có hiệu quả, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; chú trọng và thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lí luận trong quân đội có đủ phẩm chất, năng lực, nhanh nhạy, sắc bén trong đấu tranh và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho lực lượng này tích cực tham gia đấu tranh với kẻ thù trên mặt trận tư tưởng, lí luận. Công tác tư tưởng phải góp phần đắc lực trong việc xây dựng, nâng cao bản lĩnh chính trị cho bộ đội ở mọi lúc, mọi nơi, làm cho họ tự “miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
  Đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận, sớm kết luận những vấn đề mới và bức xúc từ thực tiễn đấu tranh âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”; nâng cao sự thống nhất với quan điểm, đường lối của Đảng, sự đồng thuận trong toàn quân và toàn dân.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù là yêu cầu cấp bách trong xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, trong đó xây dựng về chính trị làm cơ sở. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cần nhận thức sâu sắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội” của kẻ thù để có biện pháp đấu tranh có hiệu quả; kiên quyết phê phán những nhận thức mơ hồ, sai trái góp phần giữ vững và tăng cường sự Lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.





GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM “NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN” ĐỐI VỚI CÔNG TÁC RÈN LUYỆN ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY


GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM  “NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN” ĐỐI VỚI CÔNG TÁC RÈN LUYỆN ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
ĐTM /2019                                                                                 
Nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng 3-2-1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm: “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân” [1]. Tác phẩm tuy không dài, nhưng nó không những có giá trị to lớn giáo dục cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đã qua mà còn mãi mãi soi sáng cho mọi cán bộ, đảng viên  trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Mở đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Do đó, trải qua 39 năm lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh oanh liệt và đã giành được thắng lợi vẻ vang, “Đảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác. Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”.
“Song bên cạnh những đồng chí tốt ấy, còn một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém”. Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Người chỉ rõ: “Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn… Họ tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh…Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm…”
Để khắc phục chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người: “Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tinh thần tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức kỷ luật”. Người coi  “đó cũng là một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ”.
Thực hiện tư tưởng của Người. Trong những năm qua, cùng với những thành tựu quan trọng mà nhân dân ta đã giành được, Đảng ta đã có bước trưởng thành mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đa số cán bộ, đảng viên giữ được phẩm chất cách mạng. Nhưng chúng ta cũng nghiêm túc thấy rằng có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính tri, đạo đức, lối sống… Công cuộc xây dựng đất nước đòi hỏi phải toàn tâm toàn ý chăm lo sự nghiệp chung thì lại làm việc cầm chừng, thiếu tinh thần đồng cam cộng khổ, chỉ lo vun vén cá nhân, tham nhũng, hối lộ, đặc quyền đặc lợi, cục bộ địa phương, cơ hội, luồn lách, chỉ coi trọng lợi ích vật chất mà xem nhẹ gía trị tinh thần; nặng về lợi ích thực dụng trước mắt, xem nhẹ lợi ích cơ bản lâu dài.
“Thực tế đã có bộ phận suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Có người công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người "sám hối", "trở cờ"; tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị vi phạm. Nghị quyết lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII)  đã chỉ ra: những biểu hiện cụ thể của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước….sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền, như Lê-nin và Bác Hồ đã từng cảnh báo. Nguyên nhân chính của những căn bệnh trên như Chủ Tich Hồ Chí Minh đã vạch ra  “Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”. [2].
Đảng ta tiêu biểu về trí tuệ vừa là biểu tượng của đạo đức, lương tâm, danh dự của dân tộc, chúng ta không thể xem thường tính chất nghiêm trọng của sự suy thoái đó. Soi những lời giáo huấn Hồ Chí Minh vào tình hình  nước ta hôm nay có thể đưa ra mấy biện pháp dưới đây về “Chỉnh đốn Đảng” , rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên” theo chuẩn mực đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân; chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”:
1. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự học tập, rèn luyện, tu dưỡng về đạo đức, lối sống, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, chấp hành nghiêm túc điều lê Đảng, pháp luật Nhà nước, gương mẫu giữ gìn phẩm chất người đảng viên cộng sản trong điều kiện và môi trường mới. Vì theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [3].
2. Lời nói phải đi đôi với việc làm, gương mẫu về đạo đức. Trong tác phẩm Hồ Chí Minh yêu cầu cần thực hiện “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo dục mọi người và chính bản thân là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng. Chúng ta những người cán bộ, đảng viên kế tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng và nhân dân, hơn bao giờ hết cần học tập, rèn luyện theo tấm gương vĩ đại của Người, để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
3. Phải thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trên cơ sở nhiệm vụ, chức trách được phân công. Vì mục đích tự phê bình và phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết thống nhất nội bộ. Người căn dặn: “Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà phê bình. Không chịu nghe quần chúng phê bình thì nhất định lạc hậu. Lạc hậu và  thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi” [4].
4. Xây dựng tinh thần đoàn kết nhất trí cao trên tình đồng chí cao cả,  nhằm tạo thành sức mạnh to lớn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Vì theo Hồ Chí Minh: “Sử ta dạy ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”[5].
5. Phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Vì chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Hồ Chí Minh đã dùng hình tượng trong mối quan hệ giữa lúa với cỏ dại để diễn đạt mối quan hệ giữa tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân hết sức tinh tế: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải được chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản rèn luyện gian nan mới có được, còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” [6]. Vì vậy, phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Trước những biến đổi  nhanh chóng của tình hình thế giới, đang đặt ra cho chúng ta những thời cơ, thách thức mới trên tất cả các lĩnh vực : chính tri, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh.  Tác phẩm: “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn, thiết thực đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.  Giá  trị lý luận, thực tiễn lớn lao của tác phẩm góp  phần giáo dục cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện, làm việc, chiến đấu theo đúng tư tưởng và tấm gương vĩ đại của Người, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà tổ chức giao phó. Tăng cường, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, nâng cao sức chiến đấu, uy tín của Đảng;  đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp nhân dân kề vai sát cánh bên nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trước những sóng gió to lớn của thời đại.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ CHỐNG ÂM MƯU LÔI KÉO THANH THIẾU NIÊN TRONG “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY


VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ CHỐNG ÂM MƯU LÔI KÉO THANH THIẾU NIÊN TRONG  “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY
ĐTM /2019
 Thế hệ trẻ Việt Nam có vị trí, vai trò tầm quan trọng đối với tương lai của đất nước và dân tộc, đây là lực lượng có ý nghĩa quyết định sự phát triển của cách mạng nước ta, sự phồn thịnh của dân tộc. Trong suốt cuộc đời hoạt động Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã giành nhiều tâm huyết chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục sự nghiệp cách mạng. Người luôn coi đó là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này là một  công việc quan trọng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với công tác giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và mai sau. Nhất là trong công cuộc xây dựng đất nước trên con đường đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động và phức tạp, trước sự tấn công của các thế lực phản động vào thành trì cách mạng Việt Nam, lái cách mạng nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, làm lung lạc lòng tin cách mạng của thế hệ trẻ nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều lĩnh vực, trong đó về vai trò to lớn của thanh niên và thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi ở nước ngoài, năm 1925 trong bài gữi thanh niên An Nam, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở “Hở Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”. Với luận điểm đó đã mang lại nguồn gió mới thu hút nhiều thanh niên yêu nước đi theo con đường cách mạng của Người, lập nên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, một tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam  sau này.
Khi đất nước giành được độc lập, non sông thu về một mối, Người luôn đặt niềm tin vào thế hệ thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng. Ngay ngày khai trường đầu tiên sau cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Hồ của chúng ta căn dặn thế hệ trẻ: “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đơị ở các em rất nhiều. Non song Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm Châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh luôn bận trăm công ngàn việc để chỉ đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi, nhưng Người đã giành thời gian quan tâm giáo dục thanh niên, thấy rõ vai trò to lớn của thanh niên, Người nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Người giành nhiều tình cảm đối với thanh niên vì đây là lớp người  tiếp sức mạnh, gánh vác công việc cho các thế hệ thanh niên già, thay thế đội ngũ cán bộ lão thành vì sự nghiệp cách mạng trong tương lai. Người không chỉ quan tâm thế hệ thanh niên, mà người còn luôn quan tâm giáo dưỡng lớp thiếu niên nhi đồng, đây là đội ngũ tiếp sức cho thanh niên, Người căn dặn: “Ngày nay, các cháu là nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới. Các cháu đoàn kết thì thế giới hoà bình và dân chủ, sẽ không có chiến tranh”. Bên cạnh tấm lòng yêu thương trìu mến của Hồ Chí Minh đối với thế hệ trẻ, Người còn quan tâm dìu dắc thế hệ trẻ bằng việc trực tiếp tổ chức đào tạo, rèn luyện, đồng thời tự mình nêu tấm gương sáng về mọi mặt để thế hệ thanh niên noi theo. Người cũng yêu cầu rất cao đối với thanh niên là phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, đạo đức, thẩm mỹ… “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra sức làm việc để chuẩn bị cho cái tương lai đó”. Các thế hệ thanh niên phải vừa kế thừa phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp. Thanh niên phải xung phong tới nơi khó khăn, gian khổ, nơi nào cần thanh niên phải có mặt, nơi nào khó có thanh niên.
Hồ Chí Minh khẳng định, để thế hệ trẻ xứng đáng với tương lai thì thế hệ đi trước tức là những bậc cha anh phải có trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ trẻ. Đó cũng là trọng trách lớn lao của cách mạng, của Đảng. Bởi vậy, trong di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh Đảng ta trong mọi giai đoạn cách mạng luôn đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nhằm đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi mới thành lập Đảng trong nghị  quyết về cộng sản thanh niên vận động, Đảng chỉ rõ “Thanh niên là một hạng người ít bị những cái ảnh hưởng của quốc gia, phong kiến, đế quốc trói buộc họ hơn người lớn, cho nên từ khi phong trào cách mạng nổ khắp trong xứ, chúng ta thấy quần chúng thanh niên tham gia rất hăng hái. Những cuộc công nhân bãi công và nông dân biểu tình trong năm nay tỏ ra rằng thanh niên lao động là một lực lượng cách mạng rất quan trọng không thể không kể tới được”.
Qua các kỳ Đại hội, qua các chặng đường cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm giáo dục, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ thanh niên vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đã có hàng vạn thanh niên tham gia vào trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ có người ngã xuống, hy sinh  để giành thắng lợi cho ngày hôm nay, đó là một minh chứng hùng hồn về vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp đó. Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, bảo vệ Tổ quốc vai trò thanh niên càng được Đảng ta đặt đúng vị trí, vai trò của nó. Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá VII Đảng ta khẳng định: sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nqước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không là tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên. Trên thực tế thanh niên hiện nay đang hăng hái xung kích đi đầu trong thực hiện các chương trình, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới với hai phong trào lớn: “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”. Bằng các chương trình hàng động “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”; “Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an ninh”; “ Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hoá-thể thao” ; “Công tác xã hội bảo vệ môi trường”; “thanh niên tình nguyệt”. Đối với trong quân đội  có các mô hình “Chi đoàn xung kích huấn luyện giỏi”; “Chi đoàn rèn luyện nghiêm, luyện giỏi, không vi phạm kỷ luật” v.v.
Các phong trào trên đã thu hút hàng triệu thanh niên hăng hái tham gia, chủ động, sáng tạo cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực của thanh niên chúng ta vẫn thấy ở một bộ phận thanh niên vẫn còn mơ hồ, ảo tưởng trước âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, có lối sống thực dụng làm nảy sinh ra nhiều hiên tượng tiêu cực. Đáng lo ngại là một bộ phận không nhỏ thanh niên còn chây lười trong học tập, rèn luyện và không tham gia vào các hoạt động của các đoàn thể và các tổ chức xã hội, nên đã từng bước bị thoái hoá, hư hỏng lao vào con đường cờ bạc, nghiện hút, ma tuý, mại dâm… gây ảnh hưởng không nhỏ cho bản thân và xã hội.
Trước tình hình như vậy đòi hỏi Đảng và Nhà nước cũng như các đoàn thể cần phải quan tâm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay đạt hiệu quả cao.  Coi trọng việc giáo dục và rèn luyện thanh niên một cách toàn diện, trong đó tập trung giáo dục mục tiêu lý tưởng cho thanh niên, về nhiệm vụ chính trị, bản lĩnh lập trường giai cấp giúp thanh niên hiểu sâu sắc về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin. tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, những yêu cầu nhiệm vụ mới về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo mọi điều kiên cho thanh niên phấn đấu trưởng thành, thật sự là con người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, con người có lý trưởng cao đẹp, có sức khoẻ và lao động giỏi, có tính nhân văn cao cả, ý thức tự lực tự cường vươn lên làm giàu cho bản thân và xã hội.
Đối với quân đội các cấp uỷ đảng luôn giáo dục sâu sắc về mục tiêu lý tưởng chiến đấu cho thanh niên, tăng cường ý chí  sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì nhân dân. Người chỉ huy và cấp uỷ ở đơn vị cần phải quan tâm xây dựng môi trường thuận lợi để thanh niên phát triển nhân cách và phát huy trí tuệ cũng như cống hiến công sức cho quân đội, cho đất nước. Đồng thời có chính sách đúng đắn cho thanh niên trong quân đội sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự để họ phát huy phẩm chất đạo đức, nhân cách anh bộ đội Cụ Hồ trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Chăm sóc giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền và của toàn thể xã hội nói chung, trong đó ở các học viện nhà trường quân đội nói riêng làm tốt công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam, góp một phần to lớn đào tạo nên đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang có đủ đức và tài cống hiến ngày càng nhiều cho quân đội và xã hội.