MỘT
SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẠO TIN LÀNH
Ở
ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN HIỆN NAY.
DTM 005/2019
Tây Nguyên không chỉ là một địa bàn có vị trí chiến lược
về kinh tế quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả nước mà còn là địa bàn phức tạp
về vấn đề tôn giáo và dân tộc. Trong các tôn giáo ở Tây Nguyên thì đạo Tin Lành là một tôn giáo du nhập vào
địa bàn này muộn hơn các tôn giáo khác, nhưng sự du nhập của đạo Tin Lành gắn
liền với mưu đồ chiến lược của Mỹ đối với Tây nguyên và Việt Nam.
1. Sơ lược về sự du nhập và phát triển của đạo tin lành ở Tây
Nguyên.
Ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, tổ chức Hội liên hiệp Cơ đốc
Truyền giáo (CMA) của Tin lành Mỹ đã bắt đầu phái giáo sỹ đến khảo sát, thăm
dò, xây dựng kế hoạch truyền giáo ở Đông dương và Việt Nam. Năm 1893 Mục sư D.Seclacheur đến Sài Gòn, năm 1897
Mục sư C.H.Recver đến Lạng Sơn, năm 1899 Mục sư R.A.Faffray đến Hà Nội, năm 1901 Mục sư S.Dayan đến Hải Phòng, năm
1911 Mục sư Faffray Hostes đến Đà Nẵng lập
Hội Thánh đầu tiên và đạo Tin Lành bắt đầu
phát triển ở Việt Nam, trong đó có Tây Nguyên. Từ những năm 1929-1932, các giáo sỹ thuộc CMA đã đặt chân lên vùng đất
Tây Nguyên để truyền đạo và gây dựng cơ sở. Năm 1929 Jackson giáo sỹ người Mỹ
thành viên của CMA, được phái lên Tây Nguyên để nghiên cứu tình hình chuẩn bị
cho công cuộc truyền đạo lên vùng này. Từ năm 1930-1932 các giáo sỹ người Mỹ đến
truyền đạo vùng dân tộc K’Ho - ĐàLạt, vùng dân tộc Êđê – Buôn Mê Thuột. Năm
1936 vợ chồng giáo sỹ T.Mangham truyền đạo vào vùng dân tộc Jarai (Pleiku),
cũng trong năm đó thành lập Hội Thánh
Tin Lành Phú Bổn, Pleiku, Quảng Đức. Năm 1940 mục sư phạm xuânTín được cử lên
Pleiku để tiếp tục công cuộc truyền đạo cho người Việt ở vùng này; mục sư Trương Văn Sáng đi truyền đạo vào vùng dân tộc
Ja Rai; mục sư Đặng Văn Sang đi truyền đạo
vào vùng dân tộc Stiêng; mục sư Lê Khắc Cung đi truyền đạo vào vùng dân tộc
Êđê; mục sư Duy Cách Lâm đi truyền đạo vào vùng dân tộc K’Ho… đến năm 1940-
1942 Đạo Tin Lành đã phát triển rộng ở vùng Phú Bổn, An Khê, Quảng Đức, Pleiku,
vùng Đơn Dương, Đức Trọng, Bảo Lộc (Lâm Đồng) Buôn Hồ, Krông Pắk (Đắc lắk).
Sau năm 1954, CIA
đã tìm mọi cách nắm lấy những người có uy tín trong trong phong trào BaJaRaKa (
FULRO), gạt dần ảnh hưởng của Pháp đối với phong trào này. Tin Lành được Mỹ và CMA đầu tư cơ sở vật chất để mở
rộng địa bàn hoạt động, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện đào tạo mục sư tại chỗ. Dịch
và in ấn nhiều tài liệu bằng tiếng Êđê, Mơ Nông để rao giảng và phát triển tín
đồ, Mỹ và CMA tìm cách thao túng địa hạt Thượng du để nắm lấy Tin Lành người
thượng phục vụ cho mục đích lâu dài của chúng. Chúng tổ chức các “Đội sinh viên tình nguyện quốc tế” để
đi tuyên truyền phát triển đạo Tin Lành, gây ảnh hưởng, lôi kéo những dân tộc
thiểu số làm hậu thuẫn cho Mỹ và làm lực lượng xung kích chống phá cách mạng.
Dưới sự đạo diễn của Mỹ trực tiếp là của cố vấn, nhân viên CIA, chính quyền Thiệu
đã nâng “Phủ đặc uỷ thượng vụ” lên
thành “Bộ phát triển các sắc tộc”, dần
dần thu phục và điều khiển được các thủ lĩnh của FULRO, sử dụng FULRO chống lại
cách mạng. Từ năm 1962 nhiều Tín Đồ Tin Lành người thượng ảnh hưởng của FULRO,
giữa FULRO và Tin Lành có mối quan hệ khăng khít, gắn bó với nhau và đều nằm
trong âm mưu xâm chiếm Tây Nguyên của Mỹ.
Sau năm 1975, Mỹ tiếp tục
giúp đỡ hỗ trợ FULRO chống phá chính quyền cách mạng ở Tây Nguyên. Quá trình ta
đấu tranh với FULRO ở Tây Nguyên cũng gắn liền với việc bắt các mục sư tham gia
vào tổ chức FULRO, vạch tội cốt cán Tin Lành theo FULRO trước quần chúng… Thời
kỳ này các mục sư ngừng hoạt động, đóng của nhà thờ tạm thời lùi bước chờ thời
cơ phục hồi, phát triển tín đồ, tái thiết lập cơ sở giáo hội để đấu tranh với
ta. Đạo Tin
Lành ở Tây Nguyên trở nên phức tạp từ giữa những năm 80. Lợi dụng chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nước, lợi dụng đường lối mở cửa và chính sách quan hệ
đối ngoại đa phương của Đảng và nhà nước ta, các thế lực thù địch đã dùng nhiều
thủ đoạn tác động vào Tin Lành ở Tây Nguyên gây rối nội bộ giáo hội Tin Lành,
đẩy một bộ phận quần chúng đồng bào tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên đi đến thành
kiến bất hợp tác với chính quyền.
2. Nhận xét về Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay.
- Xét về phương diện tín ngưỡng tôn giáo:
Đạo Tin Lành xâm nhập và phát triển ở Tây
Nguyên là kết quả của quá trình truyền giáo, phản ánh mục tiêu mà CMA đã đặt
ra: “Đem đức tin đến những nơi chưa từng
được nghe danh tiếng của chúa Giê-su”. Hơn 70 năm là một quá trình hoạt động
tôn giáo có tổ chức và trên thực tế CMA đã đạt được những kết quả nhất định.
Các tín đồ dân tộc thiểu số vào đạo không phải tự nguyện mà phần lớn bị bắt buộc
qua các thời kỳ, qua quá trình nhiều năm đấu tranh chống đối quyết liệt cho đến
khi tầng lớp trên (chủ làng, già làng) bị
mua chuộc, bị lôi kéo, phải ngả theo thì cả làng phải theo đạo. Hiểu biết của đồng
bào về đạo rất hạn chế, họ chỉ biết mục sư, giảng sư như thầy cúng cao tay về
phù phép, bị dụ dỗ mua chuộc nên bằng lòng với việc đồng hoá tín ngưỡng cũ với
tôn giáo mới du nhập.
- Về bản chất:
Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên do CMA và Mỹ dựng
lên đầu tư để nó phát triển, hình thành những tập quán và nội dung cho sinh hoạt
tôn giáo phù hợp với điều kiện và đặc điểm Tây Nguyên, từ đó hoà nhập được với
vùng dân tộc ít người ở mức độ đáng kể. Dựng lên một tổ chức Tin Lành khu vực,
mang màu sắc dân tộc và do phần lớn người dân tộc quản lý, với hệ thống cơ sở vật
chất tương đối đầy đủ phục vụ cho hoạt động
tôn giáo; huấn luyện đội ngũ giáo sỹ là người dân tộc thiểu số có chuyên môn,
có kinh nghiệm thực tiễn về truyền giáo vùng dân tộc, nhằm thực hiện mục đích
chiến lược của CMA và Mỹ.
- Về chính trị:
Đạo Tin Lành xâm nhập và phát triển ở Tây Nguyên không tách rời việc
truyền giáo với âm mưu lâu dài của đế quốc Mỹ thông qua việc “Tôn giáo hoá các dân tộc” để thực hiện
mưu đồ về chính trị. Đặc biệt là âm mưu thúc đẩy và nắm Tin Lành người dân tộc
thiểu số, thể hiện rõ nét qua việc viện trợ vật chất để xây dựng nhà thờ, lôi
kéo đồng bào dân tộc, cài cắm gián điệp vào tổ chức Tin Lành, thao túng đội ngũ
giáo sỹ và các Hội Thánh từ địa hạt xuống các chi hội cơ sở. Thông qua “Qui chế đặc biệt” cho Tin Lành người
thượng để phục vụ cho mưu đồ chính trị lâu dài và làm cho Tin Lành ở Tây Nguyên
ngày càng dính líu chặt chẽ hơn, sâu sắc hơn về chính trị đặc biệt là gắn chặt
với FULRO. Sự phục hồi và phát triển của đạo
Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay nằm trong ý đồ của các thế lực thù địch âm mưu
tái thiết lập một lực lượng chính trị phản động thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” thủ tiêu chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam mà chủ nghĩa đế quốc đã chuẩn bị từ lâu
- Về mặt xã hội :
Đạo Tin Lành là một tôn giáo cải cách, lấy hoạt
động xã hội làm phương tiện và điều kiện để thu hút tín đồ, rất chú ý đến từ
thiện, đến công tác truyền giáo vào các dân tộc thiểu số nơi điều kiện kinh tế
văn hoá còn phát triển thấp. Khi truyền đạo ở những vùng này, những nhà truyền
giáo Tin Lành không những tôn trọng phong tục, tập quán địa phương mà còn sẵn
sàng đổi mới để dễ dàng hoà nhập, thích nghi với môi trường xã hội cũng như tâm
lý, lối sống của quần chúng nhân dân nơi truyền đạo. với cách thức hành đạo rất
năng động, đề cao vai trò cá nhân của tín đồ và thích nghi cao độ với hoàn cảnh
mà đạo Tin Lành có khả năng duy trì tín ngưỡng ngay cả những nơi không có giáo
sỹ, không có nhà thờ, thậm chí trong cả điều kiện sinh hoạt tôn giáo bình thường
chưa có tiền lệ. Cơ cấu dân tộc biến đổi nhanh chóng; mối quan hệ liên kết cộng
đồng dòng tộc, buôn làng có phần suy giảm; vai trò của già làng trong cộng đồng
theo tập quán ở một số nơi dần dần mất vị trí.
Sự phát triển xã hội trong cơ chế thị trường đã tạo ra khoảng trống lớn,
làm giảm sức đề kháng của nền văn hoá lâu đời mang những nét đặc trưng của núi
rừng Tây Nguyên, trước sự xâm nhập tác động của đạo Tin Lành.
Quá
trình du nhập và phát triển của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên vừa là kết quả của
quá trình truyền giáo nhưng cũng gắn liền với quá trình mở rộng và thực hiện
các mưu đồ chiến lược của Mỹ ở đây. Ngày nay tuy đã bị thất bại nhưng bọn đế quốc
đứng đầu là Mỹ và các thế lực phản động vẫn lợi dụng đạo Tin Lành để xây dựng lực
lượng chống phá ta lâu dài. Điều đó khẳng
định đạo Tin Lành là một trong những công cụ để Mỹ thực hiện kế hoạch “ Hậu chiến”, triển khai chiến lược “Diễn biến hoà bình” và là công cụ của
Mỹ câu kết với FULRO chống phá cách mạng trước đây cũng như hiện nay và sau này
ở Tây Nguyên – địa bàn chiến lược nối liền Việt Nam với ba nước Đông Dương.
Công tác đấu tranh với hoạt động của các thế lực thù địch
lợi dụng đạo Tin Lành chống phá cách mạng trên địa bàn Tây Nguyên là trách nhiệm
của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tính chất phức tạp và phạm vi
rộng lớn của cuộc đấu tranh này đòi hỏi phải huy động sức mạnh của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta. Quân đội là một lực lượng trong hệ thống chính trị,
tham gia đấu tranh chống hoạt động lợi dụng đạo Tin Lành của các thế lực thù địch
không chỉ là nhiệm vụ thuộc chức năng đội quân công tác mà Quân đội còn là chỗ
dựa vững chắc cho chính quyền các địa phương phát huy sức mạnh tổng hợp, sử dụng
lực lượng tổng hợp đấu tranh đánh bại mọi
âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù.
Trong
thời gian qua, Quân đội cùng các cấp chính quyền, các ngành có liên quan, đã
tích cực đấu tranh với các âm mưu và thủ đoạn lợi dụng đạo Tin Lành của các thế
lực thù địch để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; bảo vệ
thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn Tây Nguyên. Tuy nhiên, hoạt động
lợi dụng Đạo Tin Lành của các thế lực thù địch vẫn diễn ra quyết liệt, tiềm ẩn,
tích tụ nhiều nguy cơ gây mất ổn định chính trị, ảnh hưởng không nhỏ đến công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đe doạ độc lập chủ quyền của tổ quốc. Tình hình trên đây đòi hỏi Quân đội phải trực tiếp tham gia đấu tranh chống hoạt động của các thế
lực thù địch lợi dụng Đạo Tin Lành chống phá cách mạng trên địa bàn hiện nay ”
góp phần xây dựng Tây Nguyên giàu đẹp,
chính trị ổn định, kinh tế – xã hội phát triển, quốc phòng an ninh bảo vững chắc.
Bài này cũ quá rồi add, sao chép linh tinh thế
Trả lờiXóa