Nhận thức mới của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và giải quyết
vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
ĐTM/2019
Trong những năm
gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới quan trọng về nhận thức, quan
điểm, nhiệm vụ, chủ trương, chính sách đối với tín ngưỡng tôn giáo và công tác
tôn giáo ở nước ta. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị
khoá VI về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” là dấu mốc mở đầu
cho bước ngoặt phát triển về nhận thức. Nghị quyết này có 2 luận điểm mang tính
đột phá là: tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
và tôn giáo có những giá trị văn hoá, đạo đức phù hợp với chế độ mới. Phải đặt
2 luận điểm này trong khung cảnh lúc đó ta mới hiểu rõ ý nghĩa. Đó là một thời
điểm lịch sử đặc biệt các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, nhưng những
quan điểm tả khuynh về tôn giáo vẫn còn chế ngự.
Đặc điểm chủ yếu của giai đoạn ấy
là, phê bình tôn giáo tập trung chủ yếu vào những vấn đề căn bản của thuyết vô
thần mác-xít và các hình thái vô thần duy vật khác, ở Trung Quốc đã có những dấu hiệu đổi mới đầu tiên với
việc bàn luận về những đặc điểm tôn giáo ở Trung Quốc và khả năng thích ứng với
chủ nghĩa xã hội của tôn giáo (1982).
Với nước ta, 2
luận điểm trên đã nhanh chóng tạo nên sự đột phá nhận thức: không thể nhìn tôn
giáo qua mệnh đề của Mác đã bị cắt xén và phiến diện “Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân”. Phải nhìn nhận tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của
một bộ phận quần chúng, và nó hoàn toàn có thể đồng hành với chủ nghĩa xã hội. Riêng luận đề mới mẻ về văn hoá tôn
giáo đã khơi dây trực tiếp những suy nghĩ, hành động tích cực của quần chúng,
người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo.
Khi các giá trị
văn hoá đạo đức cuả tôn giáo được đặt trong khuôn khổ của văn hoá dân tộc, một
mặt đã thừa nhận sự đa dạng của văn hoá dân tộc, mặc khác tạo ra thêm một con
đường đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Khai thác tốt các giá trị văn hoá, đạo đức cuả
tôn giáo là cách tốt nhất để cho nhiều tôn giáo thuận lợi hơn trong quá trình
tìm về dân tộc.
Kể từ sau nghị
quyết 24 nói trên, Đảng ta còn có nhiều văn kiện khác khẳng định và phát triển
tư duy đổi mới về vấn đề tôn giáo, đặc biệt là chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của
Bộ Chính trị khoá VIII về công tác tôn giáo trong tình hình mới, một văn kiện
quan trọng lần đầu tiên được đăng tải công khai trên báo nhân dân và hàng loạt
báo khác và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, vấn đề tôn giáo được
đưa ra bàn bạc, quyết định ở cấp Ban Chấp hành trung ương đó là văn kiện của Hội
nghị Trung ương 7 (khoaIX) còn gọi là nghị quyết 25 (12/3/2004) với tên gọi về
công tác tôn giáo, đến nay vẫn giữ vai trò định hướng cho công tác tôn giáo và
cho cả bản thân đời sống tôn giáo.
Cần ghi nhận con
số sau đây: từ 1990 đến 2003, đã có 13 văn kiện về các vấn đề tôn giáo gồm 2
nghị quyết, 2 chỉ thị, 9 thông báo. Trong đó Ban bí thư, ban hành một chỉ thị,
7 thông báo; Bộ Chính trị ban hành 1 nghị quyết, 1 chỉ thị và 2 thông báo; Ban
Chấp hành Trung ương ban hành 1 nghị quyết.
Điều quan trọng
hơn cả là, đến nay nhận thức về vấn đề tôn giáo của cán bộ, đảng viên và nhân
dân đã có bước tiến khá dài. Một bầu không khí xã hội mới mẻ đã lan toả, ranh
giới vô hình mà khắc nghiệt về sự phân biệt “lương, giáo” mà các thế lực đế quốc
thực dân, phong kiến trước đây cố tình khoét sâu mâu thuẫn này đã đựơc gỡ bỏ
căn bản, tạo nên những điểm sáng trong quan hệ đạo đời.
Sự
đổi mới trong chính sách tôn giáo
Đây là bề nổi của
sự vật và thật đáng chú ý, điều này ngaỳ càng bộc lộ rõ, tạo nên những chuyển
biết hết sức sống động trong thực tiễn đời sống tôn giáo ở nước ta. Ngoài những
quy phạm pháp luật chứa đựng trong các điều luật cuả các bộ luật (luật hình sự,
luật tố tụng hình sự…) cho đến nay những văn bản có tính pháp lý cao nhất như
các bản Hiến pháp, từ 1991 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản
riêng về tôn giáo, tín ngưỡng.
Có thể xem Nghị định số69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
“Quy định về các hoạt động tôn giáo” là văn bản mở đầu.Năm 1993, Chính phủ ra
Nghị định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan có tầm
quan trọng bậc nhất về quản lý nhà nước về tôn giáo: Ban tôn giáo của Chính phủ.
Sau đó là
nhiều văn bản đều có dấu ấn khác: Nghị định
26 ngày 19/4/1999 của Chính phủ “Về các hoạt động tôn giáo’’, Quyết định số
125/2003 ngày 18/6/2003 của Thủ tướng
Chính phủ “Về việc phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 7(khoá IX) về công tác tôn giáo”.
Đặc biệt, tháng
7/2004, dư luận trong nước và quốc tế rất quan tâm đến sự kiện Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và được ban hành cũng
như Nghị định của Chính phủ vừa ban hành mới đây(3/2005) “Hướng dẫn thi hành một
số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo’’.
Về mặt vĩ mô, phải nói sự đổi mới mạnh mẽ của chính sách tôn giáo cũng được
bắt nguồn từ tinh thần của Nghị quyết 24 nói trên. Trong đó, cũng là lần đầu
tiên, công tác tôn giáo vốn được coi chủ yếu là công tác đánh địch lợi dụng,
nay được coi chủ yếu là công tác vận động quần chúng (phạm trù công tác dân vận)
với luận đề quan trọng: “Thực chất công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng”.
Chúng ta đã có
những bước tiến dài trong việc thể chế hoá các quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng
của quần chúng và các hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Từ 1991 đến nay,
chúng ta luôn thể hiện quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyễn XHCN trên lĩnh vực
quản lí tôn giáo, bằng việc ban hành hàng loạt quy định, nghị định, chỉ thị,
thông tư,…và đỉnh cao nhất là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể nói hàng
loạt các văn bản pháp lí ấy đã thể hiện sinh động sự đổi mới về chính sách tôn
giáo. Chúng tôi có khái quát vào một số điểm sau đây:
Thứ
nhất,
mối quan hệ giữa nhà nước với các tôn giáo, là nói đúng hơn là các tổ chức tôn
giáo (giáo hội, hội thánh, ban trị sự, hội
đồng giáo sứ..” đã được cải thiện căn bản theo hướng pháp quyền. Một mô hình
Nhà nước thế tục mác-xít, về bản chất là nhà nước thế tục phi tôn giáo do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 234 (1955), nay đã hiện ra rõ rệt.
Mô hình này tỏ ra thích hợp với đời sống tôn giáo ở Việt Nam, được đông đảo đồng
bào có đạo và quần chúng nói chung hoan nghên và bước đầu được thế giới nhìn nhận. Trên cả 3 khâu: theo đạo, hành đạo và quản đạo
đã được thể chế hoá và cơ bản đã phù hợp với thực tiễn.
Thứ
hai,
về mối quan hệ giữa “hoạt động tôn giáo” và “công tác tôn giáo” cũng được giải
quyết tốt hơn. Mối quan hệ này vốn không hề đơn giản vì các “hoạt động tôn giáo” vốn là lợi ít sống
còn của các chủ thể tôn giáo, trong khi đó “công tác tôn giáo” lại là vấn đề
thuộc phạm trù quản lý nhà nước. Nhà nước ta hiểu rõ những kinh nghiệm quá khứ,
khi mà sự tương tác giữa 2 chủ thể “Hoạt động tôn giáo” và “Công tác tôn giáo”
diễn ra không thuận lợi dẫn đến xung đột triệt tiêu lẫn nhau. Trên
khía cạnh này, tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như quan điểm của Đảng ta về sự khai thác các điểm tương đồng, đồng
thuận xã hội có ý nghĩa lớn “giữ vững độc lập, thống nhất của tổ quốc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thứ
ba,
vận dụng kinh nghiệm của lịch sử dân tộc và quốc tế về luật pháp tôn giáo, để sự
thể chế hoá về quyền hạn và nghĩa vụ của toàn dân, trước hết là cộng đồng các
tôn giáo ngày càng thích hợp hơn. Đây
cũng là nét mới trong chính sách tôn giáo của nhà nước ta hiện nay, trực tiếp tạo
nên bầu không khí phấn khởi trong các chức sắc và tín đồ các tôn giáo.
Về mặt vi mô, nước ta có 6 tôn giáo chính “Phật giáo, công giáo, đạo tin
lành, hồi giáo, cao đài và phật giáo hào hảo” mà việc quản lý mỗi tôn giáo đòi
hỏi có những giải pháp riêng. 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những thành
tựu rất đáng kể về mặt này. Không chỉ đối
với công giáo, phật giáo, những tôn giáo lớn có vị trí đặc biệt trong hệ thống
tôn giáo ở nước ta, những chính sách đúng đắn cuả Nhà nước ta những năm gần đây
với đạo Cao đài đã công nhận tư cách pháp nhân cho 10 tổ chức hệ phái; với phật
giáo Hoà hảo cũng có những quyết sách mạnh dạn về cơ cấu tổ chức ban trị sự, với
Hồi giáo cũng tương tự. Đặc biệt với những chính sách mền dẻo và cởi mở để giải
quyết cơ bản “vấn đề Tin lành”, vấn đề tôn giáo nóng bỏng bậc nhất trong những
năm gần đây ở nước ta.
Có thể nói sự đổi
mới chính sách tôn giáo những năm gần đây đã đem lại hiệu quả to lớn trong việc
góp phần quyết định tạo ra sự ổn định, bức tranh sinh hoạt tôn giáo ngày càng
có nhiều điểm sáng. Tất nhiên, trong những năm qua và còn lâu dài, các thế lực
thù địch vẫn luôn luôn tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống pháp cách mạng
Việt Nam. Nhưng có thể nói xu hướng tôn giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc và
Chủ nghĩa xã hội là không thể đảo ngược.
Những vấn đề đặt ra trong việc đổi mới nhận thức và chính
sách tôn giáo.
Thứ
nhất,
chúng ta đã thừa nhận tôn giáo còn là một thực tại xã hội, thậm chí nó có thể đồng
hành với dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư duy lý luận của chúng ta phải tiến
thêm một bước quan trọng khác, một luận đề có tính đột phá khác là, để tôn giáo
“thực thể xã hội” ấy có thể thích ứng với chủ nghĩa xã hội phaỉ tạo cho nó khả năng và quyền hạn
“pháp lý nhân sự” tham gia tích cực hơn
một số lĩnh vực xã hội tích cực tham gia phát triển đất nước và thoả mãn
như cầu đời sống tôn giáo. Tiền đề lý luận
khách quan là: trong bối cảnh toàn cầu hoá, hiện đại hoá, mọi tôn giáo đều có
khuynh hướng trở thành : “tôn giáo xã hội”, thích ứng xã hội ngày càng cao. Văn
kiện Đại hội X đã lưu ý chỉ ra rằng: “đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng
cuả khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm
bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật” (13).
Nhu cầu xã hội của các tôn giáo hiện nay ngaỳ càng tăng trong xu thế hội
nhập, toàn cầu hoá và nó cũng không tách rời “quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường”.
Thứ
hai,
giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nhà nước và các giáo hội.
Trong những năm
qua chúng ta có rất nhiều thành tựu về vấn đề này do Đảng ta từ lâu đã biết dựa
và tư tưởng Hồ Chí Minh nắm chắc đặc điểm dân tộc, yếu tố dân tộc của cách mạng
Việt Nam tránh được phần lớn những sai lầm thiếu sót của khuynh hướng tả khuynh
về vấn đề tôn giáo trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đặc biệt từ năm 1990 đến nay, lần đầu tiên Đảng ta đã chuyển vấn đề tôn
giáo từ phạm trù nội chính, qua phạm trù công tác dân vận, tạo nên cục diện mới,
được đồng bào các tôn giáo đó nhận, tạo nên bầu không khí phấn khởi thuận lợi
hơn cho quan hệ nhà nước và các tổ chức tôn giáo. Hiện nay, vấn đề then chốt để
tiếp tục đổi mới vấn đề tôn giáo là phải đặt mối quan hệ này trong vấn đề nhà
nước pháp quyền, bình thường hoá và pháp
trị. Càng làm tốt điều này, đời sống
tôn giáo càng ổn định vững chắc và xây đắp hơn khối đại đoàn kết dân tộc.
Văn kiện Đại hội X có nói đến “các tôn giáo hợp pháp” và được pháp luật
bảo hộ khi các tổ chức tôn giáo ấy “hoạt động theo pháp luật”. Đây là vấn đề rất
quan trọng không chỉ ở góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền, mà còn đáp ứng đòi
hỏi bức xúc: chỉ có làm tốt công tác hoàn thiện luật pháp tôn giáo mới có thể
có điều kiện, phương tiện hữu hiệu làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn
giáo.
Đối với Việt Nam hiện nay, trước khi nói đến một
bộ luật về tôn giáo “các văn bản của Bộ Chính trị đã từng nói điều này” thì cấp
thiết phải xây dựng, hoàn thiện hơn luật pháp nhân tôn giáo, các chế tài khác
liên quan đến đời sống tôn giáo dù chúng ta đã có pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo… có như vậy chúng ta mới có thể hoàn thiện mô hình nhà nước thế tục đã lựa
chọn từ những năm đầu hoà bình lập lại sau hiệp định Giơ-ne-vơ (1954).
Thứ ba, việc ổn
định đời sống tôn giáo và tạo thêm điều kiện cho các tôn giáo cống hiến khả
năng xây dựng phát triển đất nước là không ngòai quy luật mà tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra: luôn luôn duy trì và phát
triển xu hướng tôn giáo đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo
trước hết bằng mục tiêu chung, điểm tương đồng giữa lý tưởng tốt đẹp vốn có cuả
các tôn giáo với chủ nghĩa xã hội.
Khai thác những giá trị tích cực
của các tôn giáo trước hết là các giá trị văn hoá và đạo đức, đồng thời luôn cảnh
giác những âm mưu lợi dụng các tôn giáo và mục đích chính trị phản dân tộc và
chống phá chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta đã từng trải qua những giai đoạn quá dài phương pháp nhận thức
về công tác tôn giáo chưa đầy đủ, tả khuynh và nóng vội. Trong các nhận thức
chưa đúng đắn ấy, có lẽ 3 nhận thức cơ bản sau đây vẫn còn ám ảnh ở một bộ phận
quần chúng:
Thứ nhất,
vì tôn giáo là sự “phản ánh ngược” của hiện thực và duy tâm nên nó hoàn toàn đối
nghịch với khoa học và chủ nghĩa duy vật.
Thứ
hai,
vì tôn giáo luôn được hiểu, đồng nhất với mê tín nên nó là hệ ý thức lạc hậu,
phải xoá bỏ.
Thứ
ba,
vì tôn giáo luôn luôn bị các thế lực phản động lợi dụng, nên tôn giáo thường đồng
nhất với chính trị, ở đó không có chỗ cho “văn hoá” và giải quyết vấn đề tôn
giáo là đấu tranh tư tưởng chính trị, nhận
thức và giải quyết vấn đề địch-ta.
Dưới
ánh sáng đổi mới của Đảng ta trong nhận thức và hành động, chúng ta đã có những
bước đột phá quan trọng. Tuy vậy, cũng chưa thể coi như “không còn vấn đề gì”
trong lĩnh vực vốn rất phức tạp và nhảy cảm này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét