Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

Đấu tranh làm thất bại âm mưu đòi thay quốc hiệu của các nhà "dân chủ cuội"

Như chúng ta đã biết, quốc hiệu của một quốc gia ở bất cứ đâu trên thế giới cũng mang giá trị lịch sử, văn hóa và chính trị. Những cuộc cách mạng, thay đổi chế độ xã hội nói chung thường dẫn đến thay đổi quốc hiệu. Sự thay đổi quốc hiệu được xem như một phần của thành quả cách mạng. Quốc hiệu của một quốc gia trong các thời kỳ lịch sử khác nhau còn thể hiện tư duy chính trị của lực lượng cầm quyền (thường là đảng chính trị) giành thắng lợi.

Với nhà nước Việt Nam, quốc hiệu không phải chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn thông qua một quy trình luật định của Hiến pháp, do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho toàn thể nhân dân quyết định. Thế nhưng trong làn sóng “dân chủ trên thế giới ảo-mạng (có tài khoản còn gọi là “dân chủ cuội”) có người đã đòi thay đổi tên nước, từ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trở lại tên gọi trước đây-nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Loại trừ tính cách cá nhân (muốn thể hiện trí tuệ hơn người) cái gọi là “kiến nghị”, "yêu cầu" trên còn ẩn chứa âm mưu gì?

Trước hết xin được lược qua các quốc hiệu của Nhà nước Việt Nam từ khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành lại độc lập dân tộc, năm 1945 đến nay. Quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc hội khóa I, nhiệm kỳ (1946-1960), quyết định. Tên gọi này kéo dài 31 năm (1945-1976). Thắng lợi của cuộc kháng chiến thống thực dân Pháp vào năm 1954, Hiệp định Geneve (Thụy Sĩ) quy định Việt Nam tạm thời chia làm hai miền: Miền Bắc và miền Nam. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ thế chân thực dân Pháp cai trị dưới hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam kéo dài từ năm 1954 đến ngày 30-4-1975 cuối cùng đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

Vào năm 1976, do còn có sự khác biệt nhất định về thể chế xã hội giữa hai miền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định thực hiện cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất ra đời. Quốc hội nhiệm kỳ mới, mở đầu từ năm 1976 đã quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Sự khác biệt giữa hai tên nước: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa XHCN Việt Nam không chỉ về ngôn từ mà còn mang nội dung chính trị-pháp lý nhất định. Chính thể cộng hòa dân chủ nói chung là một chế độ xã hội trong đó nguyên thủ quốc gia và cơ quan lập pháp (Quốc hội) do nhân dân bầu ra theo thể thức bình đẳng và bỏ phiếu kín. Các quốc gia theo chính thể cộng hòa dân chủ đều xác lập nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (hoặc xuất phát từ nhân dân). Mọi công dân đến tuổi (do pháp luật quy định) đều được tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện từ cơ sở đến Trung ương. Chính thể cộng hòa dân chủ là hình thức chính thể phổ biến của các nhà nước hiện đại.

Nhìn lại lịch sử nhân loại, chế độ cộng hòa dân chủ có nhiều mô hình. Chẳng hạn, các mô hình: Cộng hòa dân chủ chủ nô (Aten); cộng hòa dân chủ phong kiến (ở một số nước phương Tây); cộng hòa dân chủ tư sản... Công xã Pari là một sự kiện mở đầu cho chính thể cộng hòa dân chủ. Tiếp đó là chế độ cộng hòa Xô viết (ra đời từ nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917). Mô hình cộng hòa dân chủ còn ra đời từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi chế độ thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc-đó là mô hình “cộng hòa dân chủ”. Mô hình này có thể chế cộng hòa dân chủ ở ta sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Ở Việt Nam, việc Quốc hội quyết định chuyển quốc hiệu từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là sự khẳng định thể chế chính trị nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời gắn với mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.

Nói như thế không có nghĩa quốc hiệu là bất biến. Khi nào có thể và cần thay đổi thì vẫn có thể thay đổi. Quốc hiệu mới như thế nào thì câu trả lời dành cho đảng cầm quyền và cho cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội. Ở Việt Nam, quốc hiệu nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là sự kế thừa quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng mô hình xã hội thì đã thay đổi. Về chính trị, đó là Nhà nước pháp quyền, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với những quy định chặt chẽ. Điều 4, Hiến pháp 2013 quy định: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Vậy, những người đòi thay quốc hiệu nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở về với quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để nhằm mục đích gì? Có "trong sáng" như họ vẫn nói hay không? Sẽ tác động đến tư tưởng-chính trị và văn hóa của đất nước ra sao? Và cuối cùng, thực chất của giọng điệu đề nghị thay đổi tên nước?

Trước hết, về hệ quả lý luận, sự thay đổi tên nước như có người nêu sẽ dẫn đến “vênh” giữa nền tảng tư tưởng của Đảng ta (đó là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) với mục tiêu đi lên xã hội XHCN. Cần lưu ý rằng mô hình kinh tế của xã hội Việt Nam hiện nay là mô hình “quá độ” lên xã hội XHCN. Nói cách khác về mặt logic, mô hình này chưa phải là mô hình XHCN.

Thứ hai, về tư tưởng, chính trị, sự thay đổi tên nước như có người nêu sẽ dẫn đến nhận thức chung của xã hội là Đảng Cộng sản Việt Nam đã thay đổi nền tảng tư tưởng, đã từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự thay đổi này bao gồm cả nhận thức về quyền làm chủ của nhân dân. Từ đó, theo logic sẽ dẫn đến những hình thức đấu tranh đòi xóa bỏ thể chế kinh tế hiện nay. 

Thứ ba, về khách quan, đó sẽ là sự phủ định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người ta có thể lập luận rằng, mô hình kinh tế xã hội hiện hữu do Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng và điều hành bấy lâu nay là sai lầm... nên phải thay đổi “tận gốc”, phải thay đổi đảng chính trị cầm quyền, đây là cái gốc của mô hình cũ.

Trong thời đại công nghệ thông tin dựa trên nền tảng internet, mạng xã hội... hệ lụy của những sai lầm về chính trị tư tưởng, từ nhỏ có thể trở thành những vấn đề tư tưởng chính trị phức tạp, khó lường. Âm mưu đòi đổi quốc hiệu núp dưới vỏ bọc "chân thành", mong muốn trở về với "tên nước do Bác Hồ đặt" thực ra là âm mưu tạo cớ để đòi thay đổi nền tảng tư tưởng của đảng cầm quyền, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi mục tiêu và con đường xây dựng, phát triển đất nước mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn và đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Thiết nghĩ, vấn đề này các cơ quan truyền thông và các đơn vị chức năng cần thông tin rộng rãi để cộng đồng, xã hội và nhân dân hiểu rõ bản chất của các nhà “dân chủ mạng”, “dân chủ ảo”, “dân chủ cuội”.

 

Danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ luôn được tin yêu

Bộ đội Cụ Hồ luôn nêu cao tính kỷ luật, truyền thống cao quý, bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là kỷ luật tự giác, nghiêm minh là truyền thống tốt đẹp, một trong những yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Kỷ luật đó được bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, từ sự nhất trí về đường lối, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ và yêu cầu xây dựng, phấn đấu của quân đội. Truyền thống đó được thể hiện ở tính tự giác cao trong thực hiện nhiệm vụ, chức trách của mỗi quân nhân; trong chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước; trong chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào.  

Kỷ luật là sức mạnh của quân đội trở thành nét văn hóa quân sự đặc sắc. Chính sự nghiêm minh đó càng làm cho quân đội giữ được niềm tin yêu trọn vẹn của nhân dân, coi quân đội là trường học lớn, là lực lượng mẫu mực với những con người được tôi luyện trong một môi trường nghiêm ngặt, tiêu biểu về bản lĩnh, đạo đức, chấp nhận thiệt thòi, khó khăn, luôn có mặt ở nơi gian khổ nhất, sẵn sàng xả thân, hy sinh cho Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và nhân dân.

Tuy nhiên, cần nhìn nhận vấn đề cho thật thấu đáo, kỷ luật quân đội không phải là “bới lông tìm vết”, cũng không phải vì kỷ luật mà làm suy yếu, làm mất uy tín của quân đội. Ngược lại, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương chính là tăng cường sức mạnh, nâng cao uy tín của quân đội. Chúng ta thấy rằng, trước những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, nhiều cán bộ, đảng viên cấp cao cùng một số cán bộ quân đội cao cấp vi phạm kỷ luật, đến mức phải xử lý. Việc xử lý kỷ luật cán bộ là điều đau xót với Đảng, với các đồng chí lãnh đạo quân đội, bởi họ từng là những đồng chí, đồng đội của mình. Nhưng đã vi phạm kỷ luật thì không thể không xử lý, dù là bất kỳ ai, khi còn đương chức hay đã nghỉ hưu. Điều này, khẳng định không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong thực thi các quy định kỷ luật quân đội. Việc xử lý, thi hành kỷ luật với quân nhân vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật trong quản lý, điều hành, thực thi nhiệm vụ là biện pháp cần thiết để răn đe, phòng ngừa; đồng thời cũng mang tính giáo dục, làm gương để từ đó, cán bộ, chiến sĩ thường xuyên tu dưỡng đạo đức, rèn luyện kỷ luật để tăng thêm sức mạnh, tăng thêm chất “thép” cho QĐND Việt Nam.

Thời đại kỷ nguyên số cùng những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang ảnh hưởng đến quá trình rèn luyện kỷ luật, tu dưỡng đạo đức của cán bộ, chiến sĩ quân đội. Thực tế, đã có những cán bộ không giữ được mình, vi phạm kỷ luật, bị xử lý. Tuy nhiên, đó chỉ là số ít. Tiến hành kỷ luật những cán bộ, quân nhân, trong đó có cả sĩ quan cấp tướng vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước thể hiện sự nghiêm minh, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của quân đội, làm cho quân đội càng trưởng thành, lớn mạnh hơn.

Chúng ta, những quân nhân trong QĐND Việt Nam tin tưởng, trong bất luận hoàn cảnh nào, Quân đội ta cũng luôn giữ vững kỷ luật, xứng đáng là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống, hoàn cảnh.

Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2020

KHAI MẠC TRỌNG THỂ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI LẦN THỨ XI


Sáng nay, ngày 28/9/2020, Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025 được tổ chức trọng thể tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 450 đại biểu ưu tú đại diện cho trí tuệ, bản lĩnh chính trị, ý chí, niềm tin và nguyện vọng của hơn 26 vạn đảng viên trong Đảng bộ Quân đội về dự đại hội.

Đại hội có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và xây dựng Đảng bộ Quân đội 5 năm tới; kiểm điểm công tác lãnh đạo của Quân ủy Trung ương khóa X; thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII trình Đại hội XIII của Đảng và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội XIII của Đảng.

Đại hội diễn ra trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức thi đua vượt qua những khó khăn, thách thức, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra, hướng tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI là sự kiện chính trị trọng đại của toàn quân, là dấu mốc quan trọng, tiếp tục khẳng định sự đoàn kết, thống nhất, bản lĩnh chính trị, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam qua hơn 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng; thể hiện quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quân đội trong giai đoạn mới của Đảng bộ Quân đội: Vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với truyền thống vẻ vang của Quân đội anh hùng, với phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ được tôi luyện qua thử thách đấu tranh cách mạng, chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chắc chắn Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI sẽ thành công tốt đẹp, đáp ứng sự kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; góp phần quan trọng vào thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

  

XUYÊN TẠC BÓP MÉO LỊCH SỬ DÂN TỘC, THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH (tiếp theo 3)

 

Cũng nhân sự kiện này các vị lại rùm beng về cuộc "hải chiến HS 1974" đây là nổi đau của dân tộc và là nổi nhục của chế độ ngụy SG. Vì sao mất HS? Ai giao Hoàng Sa cho TQ? Và cuộc hải chiến hay ngụy chiến? Sự thật đây chỉ là cuộc ngụy chiến để che dấu âm mưu Mỹ đã thoã hiệp giao Hoàng Sa cho TQ để TQ ép ta không giải phóng miền Nam mà thành lập ở miền Nam chính phủ liên hiệp ba thành phần, Mỹ cút nhưng ngụy không nhào. Còn trận hải chiến đó có thể kết luận tàu HQ4, HQ5 cùng 7 tàu TQ đánh chìm hai tàu HQ10 và HQ16, chỉ tiếc rằng HQ 16 không chìm và trở thành nhân chứng của sự phản bội đồng đội và bán rẽ một phần biển đảo thân yêu của Tổ quốc, Mỹ giao Hoàng Sa cho TQ và ngụy phải chấp hành . Đừng bao giờ đặt vấn đề ngụy SG bảo vệ Tổ quốc vì Tổ quốc họ đã bán cho Mỹ và Mỹ bảo giao họ phải bàn giao. Một lý lẽ đơn thuần vậy mà sao các vị cố tình thay đổi trắng đen. (còn nữa)

 

XUYÊN TẠC BÓP MÉO LỊCH SỬ DÂN TỘC, THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH (tiếp theo 2)

 


Để bảo vệ cái sai các vị còn núp dưới danh nghĩa yêu nước, để xuyên tạc lịch sử quy tội cho cố Thủ tướng Phạn Văn Đồng và ngụy biện rằng có thừa nhận chính quyền SG độc lập thì ta mới có cơ sở pháp lý đòi lại Hoàng sa, Trường sa . Mới nghe thì tưởng các vị yêu nước thật song các vị đang lợi dụng sự thiếu thông tin của mọi người để xuyên tạc bức Thư của Cụ Phạm Văn Đồng gởi Ông Chu Ân Lai, vậy xin hỏi trong bức thư  ấy có dòng nào? chữ nào? nói về Hoàng sa, Trường sa và nói về việc VN giao Hoàng sa, Trường sa cho TQ hay là một bức thư với ngôn từ khôn khéo tránh mọi lý lẽ dể dẫn đến mất chủ quyền biển đảo mà không mất đi quan hệ hữu nghị và sự giúp đỡ to lớn của TQ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Các vị đã theo đuôi TQ để gián tiếp lên án cố Thủ tướng Phạn Văn Đồng bán đảo cho họ, (VNDCCH không thể giao cái mà họ không quản lý) phải chăng vì động cơ đẩy chế độ tay sai bán nước lên thành quốc gia độc lập mà các vị nghĩ ra cái cách này. Các vị có dám khẳng định chỉ cần công nhận VNCH độc lập có chủ quyền thì TQ sẽ trả lại Hoàng sa, Trường sa cho chúng ta không? Chác các vị thừa biết đó là điều không tưởng và cùng với cách lý giải của các vị sẽ tạo cho TQ có cớ không bao giờ trao trả Hoàng sa, Trường sa cho VN, khi đất nước này còn là nước CHXHCNVN vì TQ sẽ nói CHXHCNVN sẽ không thể đòi cái mà họ không quản lý mà sẽ trao trả cho VNCH ... Tất cả đều là một số lý luận ngụy biện phi lý cả . Chỉ có một lý luận duy nhất đúng : Của người VN thì phải trả lại cho người VN dù chế độ chính trị nào đi nữa, Pháp quản lý, Nhật quản , Mỹ quản hay ai quản lý đi nữa , thì của dân tộc VN phải trả lại cho dân tộc VN, đó là chân lý. Cho nên các vị đừng lợi dụng lòng yêu nước để rửa tội cho chế độ Sài gòn tay sai, bán nước.

XUYÊN TẠC BÓP MÉO LỊCH SỬ DÂN TỘC, THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH (tiếp1)

 


Thứ hai, từ việc bỏ cụm từ này để thay vào một cụm từ không chính danh (chế độ Sài gòn, quân đội Sài gòn) đã dẫn đến một hệ quả: Danh không chính nên ngôn cũng không thuận , càng giải thích càng sai và càng bị cộng đồng gồm những người tôn trọng lịch sử, yêu nước, yêu chế độ lên án. Sai lầm đó thể hiện trên một số vấn đề sau:

 Các vị cho rằng VNCH là một thực thể tồn tại độc lập khách quan trong 21 năm ở miền Nam (riêng thời gian đã sai rồi, VNCH chỉ tồn tại 19 năm thôi) đứng góc độ nghiên cứu về chủ thể, khách thể thì các vị nói đúng họ là thực thể có tên gọi, có bộ máy hết sức chặt chẽ không chỉ tồn tại độc lập mà còn là đối lập sống còn vi chế độ VNDCCH (họ tuyên bố không đội trời chung với Cộng sản để khẳng định sự trung thành với chủ Mỹ), song mục đích các vị không dừng ở đó mà độc lập theo nghĩa hết sức ngụy biện và phản động đó là: Ở VN sau năm 1954 có hai quốc gia, hai chế độ song song tồn tại độc lập: VNDCCH với thủ đô Hà nội ở miền Bắc và VNCH với thủ đô Sài gòn ở miền Nam, chính quyền này được LHQ và nhiều nước công nhận ...(ai đó do không hiểu lịch sử nước nhà nghe bọn phản động xuyên tạc thì còn có thể tha thứ, còn các vị lại làm cái việc đổi trắng thay đen, đảo lộn sự thật thì nên gọi các vị sao đây cho đúng?) Ai cho phép các vị thừa nhận VNCH là một quốc gia độc lập lại còn song song cùng VNDCCH? VNCH được LHQ công nhận lúc nào? Trong khi nội dung Bộ sử các vị khẳng định VNCH là do Mỹ dựng nên, là chính quyền bù nhìn thì giải thích các vị nói ngược lại là quốc gia độc lập , các vị vô tình hay cố ý đứng về kẻ bán nước hại dân? Thiết nghĩ chắc các vị không quên một chân lý đã được Bác Hồ khẳng định: Nước VN là một , dân tộc VN là một. Sông có thể cạn , núi có thể mòn song chân lý đó không bao giờ thay đổi! Thế nhưng các vị rất dũng cảm trong khi sông chưa cạn, núi vẫn chưa mòn mà các vị dám thay đổi thì làm sao chúng tôi không phản đối cho được! (còn tiếp)

XUYÊN TẠC BÓP MÉO LỊCH SỬ DÂN TỘC, THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH(phần đầu)

 


Xuyên tạc, bóp méo lịch sử là một trong những thủ đoạn thâm độc nhất của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, mục đích của chúng nhằm làm cho một bộ phận cán bộ đảng viên và nhân dân nhẹ dạ, cả tin, nghi ngờ tính chân chính của lịch sử, từ đó cổ súy cho tư tưởng phản động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ Đảng với Nhân dân. Để góp phần làm rõ sự thật  về mưu đồ của chúng. Chúng ta xem lại câu chuyện của Đồng chí Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn  viết lại, nội dung của nó thể hiện ý chí chiến đấu kiên cường , một tinh thần quả cảm dứt khoát đấu tranh không khoan nhượng trước kẻ thù. Xin được viết lại nội dung câu chuyện:

Vừa qua tôi có buổi làm việc với hai đồng chí: GS, TS , Viện trưởng Viện VN học và PGS,TS Nguyễn Quang Ngọc , nguyên Viện trưởng VN học , PCT Hội KHLSVN trên tinh thần thẳng thắng , chân tình và sau khi làm việc tôi có hứa sẽ nói lại cho rõ quan điểm của tôi về một số phát biểu gần đây của một số sử gia, nhà nghiên cứu xoay quanh việc công bố phát hành Bộ lịch sử VN vừa được ông Trần Đức Cường họp báo giới thiệu.

Việc đầu tiên các đồng chí đó nhờ tôi nói lại cho Cộng đồng mạng biết là GS, NGND Phan Huy Lê không tham gia chỉ đạo, biên tập Bộ lịch sử này mà người trực tiếp là ông PGS, TS Trần Đức Cường làm Chủ nhiệm, kiêm Tổng chủ biên Bộ sử và Cộng đồng mạng đã nhầm lẫn nên phê phán Cụ Lê là oan cho Cụ.

Việc thứ hai chúng tôi đã trao đổi quan điểm xoay quanh việc bỏ cụm từ ngụy quân, ngụy quyền trong Bộ sử, chúng tôi đã thống nhất việc bỏ là không phù hợp và do không phù hợp nên danh không chính dẫn đến ngôn không thuận, từ đó càng giải thích càng sai càng làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ và nhân dân phản đối ngày càng mạnh, các đồng chí đó hứa sẽ có bài nói rõ vấn đề này.

Tôi cũng nói rõ vừa qua trên bài viết của tôi, tôi không phê phán GS Phan Huy Lê mà chỉ phê phán quan điểm giải thích của các vị sử gia, nhà nghiên cứu xoay quanh việc bỏ cụm từ ngụy quân , ngụy quyền trong Bộ sử ... Cách giải thích của các vị rất sai trái buộc tôi vì bảo vệ sự thật, bảo vệ thanh danh của người chiến sĩ Bộ đội Cụ Hồ và giá trị hy sinh của hàng triệu liệt sĩ phải lên tiếng. Vậy tôi phê phán những vấn đề nào.

Thứ nhất, Tôi không đồng tình bỏ cụm từ ngụy quân, ngụy quyền "để tránh mang ý miệt thị và để mọi người chấp nhận ". Tôi cho rằng cách nhìn nhận này không tôn trọng lịch sử bởi vì viết sử là viết sự thật, đã là sự thật thì sẽ khách quan, xét về ngữ nghĩa, từ " ngụy " chính là "giả" là không " thật " trái nghĩa với từ " chính " do đó cái gì không "chính danh" thì gọi là "nguỵ" và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược cụm từ ngụy quân, ngụy quyền ra đời sau khi Thực dân Pháp dựng nên chính quyền bù nhìn tay sai Bảo Đại cùng với quân đội tay sai bán nước dưới mỹ từ "Quân đội quốc gia " và sau năm 1954 Mỹ hất cẳng Pháp thay tên đổi họ cho bọn ngụy này bằng cái tên Việt Nam cộng hoà và quân đội VNCH hay còn gọi tên của Quân đội quốc gia VN. Và nếu không gọi ngụy quân, ngụy quyền thì chỉ có thể gọi đó là chế độ tay sai bán nước VNCH và quân đội tay sai bán nước VNCH , cách gọi này quá dài nên gọn nhất chính là: ngụy quân, ngụy quyền ...

Còn lập luận tránh mang ý miệt thị thì thật buồn cười, đây là chế độ phản dân, hại nước nếu xét về tội ác có thể nói: Trời không dung, đất không tha (chặt đầu , mổ bụng , mọi gan , cắt vú, đóng đinh ...) cớ sao các vị nói đừng miệt thị, trong kháng chiến đồng bào ta không những miệt thị mà còn đổ bao máu xương để xoá bỏ nó, đáng lẽ những kẻ cầm đầu bộ máy tay sai này phải được đưa ra xét xử như những tên tội phạm chiến tranh đồng loã với Mỹ gây nên tội ác hủy diệt trên đất nước ta, thế nhưng Đảng và nhân dân ta đã khoan dung không xét xử vậy mà bây giờ các vị nhân danh ai đòi tránh miệt thị họ?

Còn viết sử là viết lại sự thật, dù sự thật đó có cay đắng đến đâu chúng ta cũng viết lịch sử hai cuộc kháng chiến có cả vinh quang và vĩ đại, lại có cả đau thương và mất mát, có thắng lợi của nhân dân ta và thất bại của kẻ thù, đến nay Mỹ vẫn chưa chịu thừa nhận thất bại thì làm sao có chuyện để mọi người chấp nhân như các vị đã nói. Và hiện nay ai là người không chấp nhận cụm từ này, đó chỉ còn lại một bộ phận nhỏ những kẻ chống Cộng cực đoan đang lôi kéo một số ít lớp trẻ tiếp tục con đường chống nhân dân, chống đất nước (trong đó hung hăng nhất là tổ chức khủng bố Việt Tân kẻ nối nghiệp của cái gọi là VNCH ) hòng dựng lại thây ma VNCH còn tuyệt đại đa số những người lầm đường theo giặc đều đã nhận rõ sai lầm đang cùng dân tộc đồng hành trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, con em họ có nhiều người hy sinh trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, nhiều người đang gánh vác nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, nhà nước, đoàn thể xã hội và nhiều người là những doanh nhân có vị trí trong nền kinh tế ... Các vị nói để mọi người chấp nhận song các vị đã thấy các vị đã làm đa số người yêu nước không thể chấp nhận và lên án.(còn  tiếp)

 

XUYÊN TẠC BÓP MÉO LỊCH SỬ DÂN TỘC, THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH (tiếp theo và hết)

         Với lập luận bỏ cụm từ “ ngụy quân”, “ ngụy quyền” để hoà giải, hoà hợp dân tộc ... Vậy xin hỏi các vị vì sao có cụm từ này? Trong khi Đảng ta và Bác Hồ kính yêu lúc nào cũng giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân lại không kêu gọi đoàn kết mà phải kêu gọi tiến hành hoà giải hoà hợp dân tộc ? Đó là thời điểm trước và sau khi ký Hiệp định Pari Mỹ sẽ rút quân, trong bối cảnh tương quan lực lượng lúc bấy giờ, ngụy quân, ngụy quyền nắm trong tay gần hai triệu binh lính và viên chức với một khối lượng vũ khí khổng lồ, do đó chúng ta cần hoà bình, tránh đổ máu xương nên chung ta giương cao ngọn cờ hoà giải, hoà hợp dân tộc, thực thi nghiêm chỉnh Hip đinh Pari. Đây là chủ trương đúng đắn thể hiện khát vọng hoà bình của nhân dân ta, song chính ngụy quyền SG đã không chấp nhận hoà giải ... mà Nguyễn Văn Thiệu hung hăng tuyên bố: Không bao giờ có hoà hợp hoà giải với Cộng sản, chỉ có đánh và đánh... Chúng ta không thể ngồi chung một bàn, ăn chung một mâm với CS" Và ngụy quyền đã thực hiện Chiến dịch tràn ngập lãnh thổ, đánh phá quyết liệt vùng giải phóng gây cho ta tổn thất hết sức nặng nề ... Còn bây giờ họ còn cái gì để mặc cả đòi hoà giải, hoà hợp dân tộc (họ chỉ còn một nhóm vong nô  với một tổ chức khủng bố Việt Tân và một lũ xôi thịt tập họp nhau lại dưới nhiều danh xưng hô hào chống Cộng , quậy phá ổn định của đất nước) họ có tư cách gì đòi ta hoà hợp. Chấp nhận hoà hợp với chúng là chấp nhận bọn khủng bố thành một thực thể chính trị,  bắt tay với chúng là chấp nhận đa nguyên, đa đảng, hậu quả đẩy đất nước đi về đâu chắc các vị thừa hiểu . Ngày nay chúng ta chỉ có Đại đoàn kết toàn dân tộc  ai ủng hộ mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng , văn minh thì đất nước mở rộng vòng tay đón về lòng dân tộc. Chính nhờ chính sách đúng đắn đó hơn 40 năm qua mọi người dân VN đã đoàn kết chung sức chung lòng dựng xây và bảo vệ đất nước đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Ngay cả các cựu thù cũng trở thành đối tác toàn diện, đối tác chiến lược của VN và cũng không vì là đối tác mà ta lại gạch bỏ hai chử xâm lược trước đây của Pháp, của Nhật và của Mỹ.

Đôi dòng tâm huyết, nói lại cho rõ về lịch sử hy vọng góp một tiếng nói tập họp sự đoàn kết chung quanh Đảng ta, kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng mà bao người đã hy sinh làm nên trong lịch sử, đồng thời cảnh tỉnh cho ai đó có âm mưu trở cờ lật sử để gây bất ổn chế độ, tạo sự phân tâm tiếp tay cho "DBHB" làm thay đổi chế độ hãy biết rằng: Hương hồn của các liệt sĩ vẫn vang vọng đến hôm nay, Họ không cho phép điều đó xãy ra .

 

Lòng dân và thước đo giá trị của đảng cầm quyền

 

 

“Mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định dân là gốc”, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định trong bài viết về những công việc cần làm với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng.

Thực tế đã chứng minh rằng, người dân luôn là trung tâm, là chủ thể trong mọi biến động của lịch sử. 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam là quãng thời gian đủ để Đảng ta ý thức rõ nhất đâu là giá trị thực sự của một đảng cầm quyền và những việc cần phải làm để Đảng luôn xứng đáng là đảng cầm quyền.

Lòng dân chính là động lực

Nhắc lại khái niệm “Dân là gốc” trong thời điểm không còn bao lâu nữa, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 sẽ được khai mạc, chắc chắn Tổng bí thư, Chủ tịch nước đã ý thức được rằng, đây là một khái niệm không mới.

Có chăng, cái mới ở đây là mới ở cách nhìn nhận về vị trí của dân trong vai trò chủ thể tạo nên mọi thành quả của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tinh thần hành động tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân, lấy sự hài lòng, niềm tin tưởng của dân làm thước đo hiệu quả công tác lãnh đạo toàn diện sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng do lãnh tụ Hồ Chí  Minh sáng lập và rèn luyện, được nhiều thế hệ lãnh đạo kế tục, phát triển trong những điều kiện cụ thể, giành được nhiều thành quả to lớn.

Nhìn lại những kết quả đạt được 5 năm qua, có thể thấy, ngoài sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ Đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội 12, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt của Chính phủ, chính quyền các cấp, sự nỗ lực đổi mới của Quốc hội… thì lòng dân chính là động lực, là hậu thuẫn vững chắc nhất cho những chủ trương, quyết sách lớn của Đảng.

Điều này thể hiện rõ nhất trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh do Tổng bí thư, Chủ tịch nước trực tiếp chỉ đạo.

Nhìn thẳng vào khuyết điểm để sửa mình

Nếu như Tổng bí thư, Chủ tịch nước từng phát biểu: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, thì người dân cũng có thể tự tin mà nói rằng: “Đã lâu lắm rồi, chưa bao giờ người dân quý Đảng, tin Đảng như bây giờ”.

Chưa bao giờ phải chứng kiến số lượng cán bộ đảng viên, đặc biệt là cán bộ cao cấp, cán bộ diện Trung ương quản lý bị kỷ luật, bị pháp luật trừng trị nhiều như nhiệm kỳ 12, người dân hiểu rằng, chả phải những nhiệm kỳ trước chúng ta không có những cán bộ hỏng, những con sâu trong hàng ngũ lãnh đạo, mà bởi chúng ta không làm. Hay nói chính xác hơn là chúng ta làm chưa thực sự.

Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, làm trong sạch Đảng khi ấy còn nặng hô hào, hình thức mà thiếu sự quyết liệt cần thiết. Không biết từ bao giờ mà “còn nể nang, ngại va chạm” đã mặc nhiên được xem như một phần không thể thiếu trong các tiêu chí đánh giá, xếp loại đảng viên, bất luận là đảng viên bình thường hay đảng viên nắm giữ vị trí lãnh đạo. Điều ấy khác xa với lời tuyên bố “chống tham nhũng là không có vùng cấm” của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong nhiệm kỳ này.

Dám nhìn thẳng vào khuyết điểm để sửa mình. Đó là bản lĩnh của Đảng cầm quyền trong một xã hội mà người dân đã biết đâu là đúng, đâu là sai; đâu là chính, đâu là tà. Đó mới chính là cái người dân cần ở một đảng cầm quyền.

Nói điều này để thấy rằng, đã có lúc chúng ta chủ quan, tự mãn, xa dân. Đã có không ít cán bộ lãnh đạo tự cho mình cái quyền đứng trên dân mà thiếu quan tâm đến việc dân nghĩ gì. Vì thế, một số cán bộ có chức có quyền chỉ lo vun vén cho bản thân, gia đình và phe nhóm; mới có những ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị, tướng lĩnh bị ngã ngựa giữa chừng, bị khai trừ Đảng, bị cách chức, thậm chí phải tra tay vào còng, phải đứng trước vành móng ngựa. 

Nỗi đau cần thiết để loại bỏ những ung nhọt

Đã có những mất mát không hề nhỏ. Đã có những nỗi đau như cứa vào da thịt, thậm chí là giận hờn, ân oán, khi phải chấp nhận loại ra khỏi hàng ngũ Đảng những người từng là đồng chí, đồng đội của mình. Nhưng đó là những nỗi đau cần thiết để loại bỏ những ung nhọt vì một cơ thể khỏe mạnh, vì một Đảng cầm quyền thực sự trong sạch xứng đáng với niềm tin của nhân dân. Đảng hiểu rằng, một khi Đảng hành động vì dân, dân sẽ luôn là lực lượng hậu thuẫn vững chắc cho Đảng.

Bài học của nhiệm kỳ này cũng chính là yêu cầu cấp thiết cho nhiệm kỳ tới. Đại hội Đảng là dịp để “Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa" (lời Chủ tịch Hồ Chí Minh), trong hành trình chèo lái con thuyền đất nước tiến lên thành một nước Việt Nam hùng cường. Nhắc lại những hạn chế đã qua để tìm ra hướng đi đúng cho chặng đường sắp tới luôn là ý chí, là bản lĩnh của người lãnh đạo.

Những nhiệm vụ, giải pháp  mà Tổng bí thư, Chủ tịch nước nêu ra trong bài viết của mình trước thềm Đại hội đại biểu Đảng bộ các tỉnh, thành phố, tiến tới Đại hội toàn quốc vào đầu năm sau là những lời gan ruột của người chịu trách nhiệm cao nhất đối với định hướng phát triển của đất nước trong nhiệm kỳ tới và những nhiệm kỳ tiếp theo. Trong đó, “công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ; Phải hết sức chú trọng xây dựng và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cao cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

Củng cố vị trí trong lòng dân

Sinh ra từ nhân dân, Đảng lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu sống còn cho mình. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc hay trong hòa bình, xây dựng đất nước, Đảng ý thức được rằng người dân cũng luôn là trung tâm, là chủ thể của tất cả công việc. Vì vậy, mọi chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đời sống, lợi ích của nhân dân; gắn bó máu thịt với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Gần dân, hiểu dân, biết mình cần phải làm gì cho dân là cách để một đảng cầm quyền củng cố được vị trí của mình trong lòng dân; lấy sự hài lòng, niềm tin tưởng của dân làm thước đo hiệu qủa công tác lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Đó chính là thông điệp mà Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng muốn nhắn đến toàn Đảng, toàn dân nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 75, ngày mà đã là dân Việt Nam, ai cũng hiểu được giá trị thực sự của Độc lập, Tự do và Phẩm giá con người./.

 ĐOÀN BÁC SỸ QUỐC TẾ CUBA ĐƯỢC ĐỀ CỬ GIẢI NOBEL HÒA BÌNH

❤❤!!
Hội đồng Hòa bình Thế giới (WPC) đã chính thức đề cử Phái đoàn Bác sỹ Quốc tế chuyên ứng phó các Tình trạng Thảm họa và Dịch bệnh nguy cấp “Henry Reeve” của Cuba cho giải thưởng Nobel Hòa bình 2020.
Trong thư đề cử gửi Ủy ban Nobel Na Uy, WPC nhấn mạnh những thách thức lớn mà nhân loại đang đối mặt do đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 và vai trò cốt lõi của tình đoàn kết quốc tế để hỗ trợ những người phải chịu đựng hậu quả trực tiếp và nặng nề nhất từ tình trạng khẩn cấp này. WPC nhận định: “chúng tôi nhận thấy một ví dụ chân thật nhất về tình hữu nghị quốc tế chính là công tác mà phái đoàn y tế “Henry Reeve” của Cuba đã triển khai từ rất lâu trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát.”
Tổ chức phi chính phủ có chi nhánh hoạt động tại hơn 100 quốc gia này khẳng định công việc của đoàn y tế “Henry Reeve,” Cuba không mang tính tình thế mà là một phần của “truyền thống lâu năm của Cuba trong việc chăm sóc đầy tính nhân văn tới các dân tộc khác, bất chấp việc phải chịu đựng những trừng phạt vô cùng nặng nề từ hơn 6 thập kỷ qua và từng tước đi nhiều quyền lợi chính đáng của người dân Cuba”.
Đích thân Chủ tịch Cuba Miguel Diáz-Canel đã công bố thông tin này trên tài khoản Twitter cá nhân: “Cuba trước thế giới: Bác sỹ thay vì bom đạn. Hội đồng Hòa bình Thế giới đã chính thức đề cử đoàn y tế Cuba Henry Reeve cho Giải thưởng Nobel Hòa bình”.
Phát huy chủ nghĩa quốc tế trong hoạt động y tế bắt đầu từ những năm 1960, đoàn y tế tình nguyện quốc tế “Henry Reeve” được chính lãnh tụ cách mạng lịch sử Cuba Fidel Castro thành lập ngày 19/9/2005 để sẵn sàng giúp đỡ khắc phục hậu quả cơn bão Katrina tại bang New Orleans của Mỹ, với số lượng ban đầu là 12.000 nhân viên y tế, với tên gọi lấy theo chiến sĩ quốc tế người Mỹ Henry Reeve, người từng tham gia và hy sinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập đầu tiên của Cuba (1868-1878).
Cho dù Chính phủ Mỹ đã từ chối sự giúp đỡ của Cuba khi đó, đoàn y tế này đã tiếp tục hoạt động tại nhiều nơi trên thế giới. Theo thống kê chính thức, hiện tại đoàn y tế Henry Reeve gồm 3.700 chuyên gia y tế, được chia thành 46 nhóm, hoạt động tại 39 quốc gia và vùng lãnh thổ chỉ riêng trong nhiệm vụ đối phó đại dịch COVID-19. Còn theo thống kê của WPC, các sứ giả nhân đạo này đã tham gia giúp đỡ hỗ trợ các nạn nhân của 16 trận lụt, 8 cơn bão lớn, 8 trận động đất và 4 đại dịch y tế trên khắp thế giới.
ST
Hình ảnh có thể có: 5 người, mọi người đang đứng

 LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

“Xem xét nơi nào quân địch có thực lực mạnh để tránh và nơi nào quân địch yếu để tiến công, như thế là xem xét tình hình hư thực của bên địch. Biết rõ được thế hư thực của địch, mới có thể bày được mưu kế tiến thoái”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài viết giới thiệu “Binh pháp Tôn Tử” với nhan đề “Bàn về kế hư thực”, ký tên Q.Th, đăng trên Báo Cứu quốc, số 358, ra ngày 27 tháng 9 năm 1946.
Binh pháp Ngô Tôn Tử, là sách chiến lược, chiến thuật chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN đời Xuân Thu, không chỉ đặt nền móng cho binh học truyền thống, mà còn sáng tạo nên một hệ thống lý luận quân sự hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Bởi vậy Binh pháp Tôn Tử được tôn xưng là “Tuyệt tác binh thư” hàng đầu của thế giới cổ đại. Không những rất được tôn vinh tại Trung Hoa mà kiệt tác này còn được hết mực ca ngợi ở nhiều nước. Đây được xem là một trong những binh thư kinh điển trong lịch sử quân sự thế giới.
Vận dụng và phát triển sáng tạo binh pháp Tôn Tử về dụng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến sự cần thiết phải quyết đoán, dũng cảm, nhanh chóng khi tiến công, phải vừa nhanh vừa có mưu kế giỏi mới thắng địch. Để có sẵn cơ mưu, người chỉ huy quân sự khi tác chiến phải tính đến cả hai trường hợp thuận lợi và khó khăn, để trong bất kỳ tình thế nào cũng có sẵn mưu kế để phát huy thắng lợi hoặc hóa giải thất bại.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự là bài học vô giá đã được vận dụng sáng tạo, hiệu quả, góp phần bổ sung, phát triển và làm phong phú nghệ thuật quân sự Việt Nam cả về chỉ đạo chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, cả trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ, trong chiến đấu tiến công và chiến đấu phòng ngự… để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự Việt Nam đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là nền tảng tư tưởng cơ bản để Đảng, Nhà nước, Quân đội ta tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam… Đặc biệt, việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tăng cường tiềm lực quốc phòng trên địa bàn cả nước theo ý định chiến lược được thực hiện tốt, nâng cao đáng kể khả năng phòng thủ của đất nước, đảm bảo đối phó thắng lợi với mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc.
Lực lượng trên các hướng chiến lược được bố trí, điều chỉnh hợp lý. Hệ thống công trình phòng thủ được triển khai theo quy hoạch, kế hoạch thống nhất, tập trung cho địa bàn chiến lược trọng điểm. Đề án Quy hoạch xây dựng thế trận quân sự khu vực phòng thủ đến năm 2020 và những năm tiếp theo được triển khai tích cực, góp phần hoàn chỉnh thế trận của từng địa phương, từng quân khu và cả nước. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) tiếp tục được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, đảm bảo đủ sức tự giải quyết các tình huống quốc phòng, an ninh trên từng địa bàn.
Học tập và làm theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đặt ra yêu cầu cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân cần phải bám sát và thực hiện tốt 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là trong huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại và luyện tập, diễn tập ở các cấp, như: diễn tập vòng tổng hợp, diễn tập hiệp đồng quân, binh chủng có bắn đạn thật, diễn tập bảo vệ chủ quyền biển, đảo kết hợp với bắn kiểm tra các loại vũ khí mới, diễn tập khu vực phòng thủ.. sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch, kể cả khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao; tuyệt đối không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống./.
ST: LM

Chiến lược “diễn biến hòa bình” đã ra đời như thế nào?


Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, trước sự lớn mạnh của Liên Xô và sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành và không ngừng lớn mạnh, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng. Đế quốc Mỹ coi Liên Xô là đối thủ chính trên con đường thực hiện giấc mộng bá chủ thế giới.

Tổng thống Mỹ H.S.Truman đề ra “chiến lược ngăn chặn”, sử dụng thủ đoạn cứng rắn, coi trọng thủ đoạn quân sự để “ngăn chặn” sự “bành trướng” của Liên Xô, sự phát triển và mở rộng của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, “chiến lược ngăn chặn” không có hiệu quả cao; nhiều người trong chính giới Mỹ tỏ ra thức thời hơn,  muốn tìm một phương thức khác có thể chống chủ nghĩa xã hội  hiệu quả hơn. G.Kennan, Đại diện lâm thời sứ quán Mỹ ở Liên Xô, ngày 22-12-1946 đã đề nghị với Chính phủ Mỹ dùng các biện pháp chống Liên Xô toàn diện hơn, bao gồm bao vây quân sự, phong tỏa kinh tế, lật đổ chính trị.

Tình hình thế giới từ cuối những năm 40 của thế kỷ 20 trở đi càng chứng tỏ chính sách đối ngoại của Mỹ dựa trên sức mạnh quân sự với nền tảng độc quyền hạt nhân đã bị phá sản. Tháng 1-1961, Kennedy nhậm chức Tổng thống Mỹ và đưa ra chiến lược “phản ứng linh hoạt” thay thế chiến lược “trả đũa ồ ạt” của Tổng thống Eisenhower trước đó. Chủ trương của Kennedy đối với địch thủ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là vừa phải giữ thái độ cứng rắn bằng sức mạnh quân sự, vừa có thái độ mềm dẻo bằng các biện pháp hòa bình, để “giải phóng” các nước này, đưa trở lại “thế giới tự do”. Với chính sách “mũi tên và cành ô liu”, nước Mỹ đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác cũng tăng cường thực hiện “diễn biến hòa bình”.

Sang thập kỷ 80 của thế kỷ 20, thế giới có những biến chuyển lớn. Trọng điểm cạnh tranh quốc tế đã dần dần chuyển từ chạy đua vũ trang sang phát triển và cạnh tranh về sức mạnh tổng hợp quốc gia, trong đó lấy khoa học công nghệ làm tiên phong, kinh tế làm cơ sở và quân sự làm hậu thuẫn. Nắm bắt được xu thế phát triển mới, chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa tư bản đã nhanh chóng ứng dụng khoa học-kỹ thuật hiện đại vào phát triển kinh tế và trang bị quân sự. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đạt được sự ổn định và có mặt phát triển. Trong khi đó, nhiều nước xã hội chủ ngĩa lâm vào khủng hoảng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc càng coi trọng chiến lược “diễn biến hòa bình”, lấy đó làm đòn tấn công chính chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Tổng thống Mỹ R.Reagan, từ đầu nhiệm kỳ thứ hai (1985-1988) đã chuyển hướng chiến lược đối ngoại của Mỹ, lấy “diễn biến hòa bình” làm biện pháp chính đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Reagan đề xuất cuộc “cách mạng dân chủ” với nội dung chính là dựa vào sức mạnh tổng hợp quốc gia của Mỹ, tăng cường quan hệ kinh tế, văn hóa, đẩy mạnh tuyên truyền tư tưởng... vào các nước XHCN để chuyển hóa các nước này; coi đây như là một cuộc “thập tự chinh Đông tiến giành tự do” của CNĐQ, tấn công toàn diện vào các nước xã hội chủ nghĩa thông qua “diễn biến hòa bình”.

Tháng 5-1989, Tổng thống Mỹ George H.W.Bush đưa ra chiến lược “vượt trên ngăn chặn”, trong đó, linh hồn là “diễn biến hòa bình”. Bush cho rằng, cuộc đọ sức mang tính lịch sử giữa hai chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đã đi vào giai đoạn cuối cùng. Mục tiêu, biện pháp của chiến lược “vượt trên ngăn chặn” là lợi dụng chính sách cải tổ của các nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện “diễn biến hòa bình”, lợi dụng hòa hoãn để tác động mọi mặt, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, dẫn đến sụp đổ, tan rã. Reagan coi Đông Âu là trọng điểm và Liên Xô là then chốt của “diễn biến hòa bình”.

 

Nhận diện rõ ràng, đấu tranh kiên quyết với âm mưu lợi dụng vấn đề tham nhũng để chống phá Việt Nam

 Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Không phải đến bây giờ mà cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được tiến hành ở Việt Nam kể từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam năm 1930 cho đến nay...

Có thể nói, chưa bao giờ công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng lại được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt như thời gian gần đây. Giữa lúc quyết tâm chính trị, tinh thần đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang lên cao thì các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội lại ra sức lợi dụng vấn đề này để tiến hành các hoạt động chống phá. Hơn lúc nào hết, trách nhiệm của mỗi chúng ta là phải nhận thức rõ ràng, đấu tranh kiên quyết với những âm mưu, thủ đoạn đó.

Trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị thường xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, trong đó tham nhũng là vấn đề được chúng triệt để lợi dụng. Cả thế giới đã thừa nhận, tham nhũng là tệ nạn mang tính toàn cầu, tham nhũng xuất hiện và tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới, các nước dù đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa đều phải đối mặt với tệ nạn này, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng không phải do chế độ chính trị hay do đảng phái nào nắm quyền lãnh đạo đất nước... Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động lại ra sức rêu rao rằng: “Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng”; “do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra...”; “tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng”... Không chỉ vậy, họ còn cho rằng: Tham nhũng chỉ xuất hiện ở những nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, “tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”... Thực chất của giọng điệu ấy không gì khác là lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu hòng làm suy giảm uy tín tiến tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thực tế đã khẳng định cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là trong sáng, công khai, minh bạch, khách quan, tôn trọng nhân dân và coi trọng dư luận; không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Những kết quả bước đầu đã để lại cho chúng ta những bài học quan trọng. Nhưng cần đặc biệt nhấn mạnh, đó là sự thống nhất một ý chí, một quyết tâm chống tham nhũng trong toàn Đảng. Chính quyết tâm chính trị của Đảng là lời hiệu triệu lòng dân và những cán bộ, đảng viên đồng lòng trong cuộc chiến này. Kết quả của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng thời gian qua cho thấy quần chúng nhân dân và toàn xã hội đã đặt trọn niềm tin, tích cực ủng hộ ý chí quyết tâm, nỗ lực đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng... Nhưng cũng cần phải thấy ngay rằng những kết quả quan trọng đạt được mới chỉ là bước đầu. Tình hình tham nhũng, tiêu cực và tệ quan liêu, lãng phí vẫn còn và xuất hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh sự vào cuộc quyết liệt của nhiều cơ quan, tổ chức, lực lượng, đơn vị, địa phương thì ở đâu đó vẫn còn những biểu hiện thiếu kiên quyết, né tránh, tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", "trên vội vã, dưới thư thả". Thực tế ấy đòi hỏi muốn làm sạch đội ngũ đảng viên trong toàn Đảng, trong sạch đội ngũ cán bộ trong toàn bộ máy, Đảng ta phải có bản lĩnh và quyết tâm chính trị cao.

Thời gian tới, khi mà cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực càng được đẩy mạnh thì các thế lực thù địch, phản động cũng sẽ gia tăng sự chống phá. Dù cam go, phức tạp, dù khó khăn đến mấy cũng không ai có thể phủ nhận, xóa nhòa những thành công của chúng ta, không ai có thể làm nhụt ý chí, quyết tâm của chúng ta. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải đề cao cảnh giác, nhận diện rõ ràng về những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội để từ đó kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động hòng phá hoại, ngăn cản cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.

 

 

Đoàn đại biểu Đại hội Đảng bộ Quân đội nhiệm kỳ 2020-2025 vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

 

Đoàn đại biểu Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025 đã đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh; đặt vòng hoa, tưởng niệm các Anh hùng Liệt sĩ tại Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ, đường Bắc Sơn, Hà Nội.