Thứ Ba, 2 tháng 8, 2022

NỮ ANH HÙNG NAM BỘ VỚI 100 TRẬN ĐÁNH QUÂN THÙ KHIẾP SỢ “TREO GIÁ” 200 TRIỆU

 


Trong số hơn 400 đại biểu về tham dự các hoạt động kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ tổ chức tại Hà Nội vào tuần qua, có 14 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến. Họ chính là những nhân chứng sống của những tháng năm hoạt động cách mạng, chiến đấu quả cảm.
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lưu Nguyệt Hồng, người con gái Nam Bộ trong bộ quân phục sờn màu, dáng người chậm chạp, ánh mắt đã không còn tinh anh, nhưng vẫn đầy vẻ cương nghị. Những câu chuyện một thời hào hùng của bà như sống lại…
Bà Lưu Nguyệt Hồng, sinh năm 1950 tại xã Vĩnh Quới, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng. Năm 1965, khi mới 15 tuổi, Nguyệt Hồng đã tham gia cách mạng với nhiệm vụ ban đầu là đội viên du kích thị trấn Ngã Năm, rồi sau đó là Trung đội phó Thị trấn Ngã Năm, Bí thư chi bộ, Hội trưởng Phụ nữ huyện Thạnh Trị.
Bà đã trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu hơn 100 trận, bắt sống nhiều tên giặc cầm đầu, thu giữ nhiều vũ khí. Cái tên Lưu Nguyệt Hồng thời kỳ đó khiến quân địch khiếp vía, đi đâu nghe có phụ nữ tên Hồng là chúng bắt, đánh đập dã man với phương châm “trăm lần bắt trật cũng có lần bắt trúng”. Thậm chí địch đã treo thưởng ai bắt được bà thì thưởng 200 triệu tiền chính quyền cũ.
Người con gái miền Tây “Chân đồng vai sắt”
Thị trấn Ngã Năm có chi khu của Ngã Năm, nằm trên vùng đất thuộc đầu doi ở ngã ba sông có năm nhánh tỏa ra năm ngả là Cà Mau, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Phú Lộc, Rạch Giá.
Chi khu Ngã Năm thuộc hệ thống phòng thủ của Tiểu khu Ba Xuyên về phía Tây, đồng thời là nơi án ngữ tuyến hành lang ra vào vùng U Minh (căn cứ Khu ủy khu 9). Vùng đất nổi tiếng có quân Mỹ và tay sai gian ác khét tiếng đứng hàng thứ 2 của Miền Tây Nam bộ. Từ chi khu, bọn lính dân vệ, bảo an kéo vào các vùng chung quanh thị trấn, thọc sâu vào các vùng nông thôn càn quét, vây ráp, bắt bớ, bắn giết… gây bao đau thương cho nhân dân.
Xung quanh chi khu, địch còn xây dựng 4 ấp chiến lược, tổ chức hàng trăm thanh niên chiến đấu để kiềm kẹp nhân dân.
“Chúng lê máy chém, lấy mật người đang sống, dòng cổ đập đầu những người nghi vấn quan hệ cách mạng”, bà Hồng kể về những tội ác mà quân thù gây ra với quê hương, xóm làng, bà con, đồng đội.
Bà Lưu Nguyệt Hồng là con gái thứ ba trong gia đình nông dân với 5 người con, lớn lên giữa thời khói lửa chiến tranh. Gia đình bà là một trong những địa chỉ nuôi giấu cán bộ. Từ nhỏ bà cùng các em đã phải đi ở nhà ngoại, trong tâm trí của bà, tuổi thơ là những ngày canh gác ở gốc cây đầu ngõ, báo động cho du kích.
“Khi tôi còn nhỏ thấy mấy cô chú hay ở nhà ngoại nhưng không biết bàn việc gì, chỉ thấy được ngoại dặn, ngồi dưới gốc cây ổi nếu thấy ai lạ thì kêu lên: “Ngoại ơi có người mua ổi”, vì nhà ngoại tôi khi đó nuôi giấu 5 du kích. Sau này lớn hơn một chút tôi mới biết cô chú về bàn bạc làm đồng khởi”, bà Hồng nhớ lại.
Tuổi 15, người con gái tên Nguyệt Hồng đã chứng kiến bao tội ác của quân thù dày xéo trên quê hương, cảnh người chết, bị thương “nhiều như cơm bữa”.
Bà nhớ lại, lần đầu chứng kiến cái chết thương tâm của một chiến sĩ cách mạng, đó là một bà má chèo xuồng cho chồng chạy khỏi quân địch đang truy sát, mới chèo ngang mình tức thì, thì máy bay đảo qua đảo lại phóng tràng pháo, người chồng hy sinh luôn trên sông.
Chứng kiến những cảnh tượng như vậy khiến bà Hồng day dứt “ở nhà cũng chết, đi cũng chết, thì cái chết nào mới vinh quang, cái chết nào là nhục nhã, cái chết nào là tầm thường”. Từ đó, bà nung nấu một ý chí phải đi chiến đấu trả thù cho quê hương, cho đồng bào. Ý nghĩ đó cộng với truyền thống cách mạng của dòng họ, của gia đình, của 5 người con thì cả 5 đều tham gia cách mạng ngay từ khi tuổi mới chớm thanh niên…Biến đau thương thành hành động, biến căm thù thành sức mạnh, bà Hồng càng kiên cường chiến đấu.
Bà chính thức tham gia cách mạng được phân công vào tổ quân y địa phương cấp cứu chiến trường, cùng đồng đội đưa nhiều thương binh và tử sĩ ra khỏi trận địa, để cứu chữa và an táng.
“Nhiệm vụ cấp cứu thì nguy hiểm không kém gì những người trực tiếp ra chiến đấu, khi chỗ nào có người bị thương là chỗ đó có quân y. Xông pha nơi bom rơi, đạn lạc nguy hiểm”, bà trầm ngâm nhớ lại thời thanh xuân cống hiến cho cách mạng.
Nhiều lần, bà Hồng cải trang thành người buôn bán, đưa thương binh vượt qua đồn giặc về căn cứ cứu chữa kịp thời. Có lần đi qua các trạm gác, đồn bốt bao quanh, thiếu nữ Nguyệt Hồng vừa chèo xuồng vừa khóc. Lính canh thấy một phụ nữ nhỏ bé, tóc tai rũ rượi, khóc lóc đau đớn chèo xuồng chở thi thể, nên chỉ hỏi qua loa rồi cho đi.
Kể về một lần cứu thương, nữ du kích miền Tây nhớ lại, ngày 23/12/1967, bộ đội chủ lực phối hợp cùng với địa phương đánh thiệt hại nặng chi khu Ngã Năm. Khi đó, bà được phân công phụ trách đội dân công tải thương về trạm phẫu thuật giả chiến.
Lúc đó, địch phản kích quyết liệt bằng phi cơ, bà cùng với anh em du kích chiến đấu bảo vệ an toàn cho thương binh, đã cùng dân công dìu được 28 thương binh, trực tiếp chôn 3 tử sĩ, những người hy sinh còn nằm lại ở trận địa cũng được đem về chôn cất chu đáo. Vừa vận chuyển thương binh, bản thân bà đã thu được 5 súng Cacbine m2, 1 khẩu trung liên và thùng lựu bạn M26.
Những người con tuyến lửa
Thành tích xuất sắc đáng ghi nhớ với bà Nguyệt Hồng trong thời kỳ này là đợt bao vây chi khu Ngã Năm, 52 ngày đêm năm 1968. Khi đó, bà là Trung đội phó du kích thị trấn Ngã Năm, được phân công chỉ huy 1 tiểu đội du kích nữ và 100 dân công với nhiệm vụ lắp pháo đài để từ điểm cao bắn vào chi khu.
Thời điểm này tiểu đội du kích nữ ngày đêm thay phiên nhau bao vây siết chặt chi khu, đến ngày thứ 52, với sự mưu trí, kiên cường của đội du kích nữ và nhân dân thị trấn Ngã Năm đã khiến địch phải rút chạy. Bà chính là người kéo lá cờ Mặt Trận đầu tiên tại Khu hành chính.
Bà tự hào nói: “Sau đó địch phản kích với lực lượng, trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, nhưng chúng tôi đã dũng cảm chiến đấu, giữ vững pháo đài. Có trận tôi đã bắn hết 180 viên đạn súng trường K44”. Súng K44 vốn thiết kế cho quân đội Liên Xô, không thích hợp với nữ quân nhân Việt Nam, nhưng có lần bà đã bắn liên tục không đếm được bao nhiêu viên đạn để giải vây cho đồng đội.
52 ngày đêm bao vây chi khu Ngã Năm, với sự dũng cảm, kiên cường, lúc chiến đấu bà đã được một phóng viên chiến trường ghi lại khoảnh khắc với tựa “Những người con tuyến lửa”, hình ảnh đó hiện còn trưng bày ở nhiều bảo tàng trên cả nước. Sau đợt chiến đấu này, bà được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng Lao động Việt Nam, được bầu làm chiến sĩ thi đua của tỉnh và được giữ chức vụ Thị đội phó.
“Quá trình chiến đấu, tôi rút ra những kinh nghiệm để giành thắng lợi đó là: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết; thứ hai phải dựa vào dân đánh giặc; thứ ba phải mưu trí, dũng cảm; thứ tư lấy vũ khí của địch để đánh lại địch”, bà tổng kết lại.
Vào thời kỳ 1969-1972, địch bình định, lấn chiếm, đóng thêm đồn bót, đây là thời điểm rất khó khăn và ác liệt. Đặc biệt, bà Nguyệt Hồng đã cùng chi khu Ngã Năm, chi bộ chỉ đạo, lãnh đạo đội du kích bám chặt địa bàn và tổ chức đánh địch, xây dựng lực lượng, ném lựu đạn vào đám tình báo đang nhậu, làm chết và bị thương 8 tên. Bà còn cùng lực lượng biệt động Ngã Năm đánh đồn Trà Kết, thu 12 súng loại min bay (cải tiến) hất vào ụ pháo 105 ly; làm hư 2 khẩu pháo, chết 3 tên.
Năm 1970, bà được bổ sung Huyện ủy và được điều về làm Bí thư Chi bộ thị trấn Phú Lộc. Ở đây, bà đã củng cố, kiện toàn lại chi bộ, phát triển lực lượng biệt động, xây dựng cơ sở du kích mật, đã lãnh đạo, chỉ huy đánh địch nhiều trận, diệt hàng chục tên địch.
Đến năm 1972, bà được huyện rút về làm Hội trưởng Phụ nữ, đồng thời cùng các lực lượng khác, nữ du kích trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy bao vây bứt rút một loạt đồn như: Cống Ba Bọng, Cô Tư, Cống Ba Tao, kênh Nước Ngọt… và chỉ huy đánh nhiều cuộc càn viện của các đơn vị bảo an của địch như Tiểu đoàn 408 tỉnh Sóc Trăng, tăng cường có cả xe M113.
Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà tiếp tục công tác tại huyện Thạnh Trị với các nhiệm vụ Trưởng Ban Dân vận huyện. Giữa năm 1996, bà được tỉnh phân công làm Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH và tham gia HĐND tỉnh 2 nhiệm kỳ. Quá trình công tác, trực tiếp phụ trách lĩnh vực chính sách người có công với cách mạng, điều khiến bà trăn trở là làm thế nào để thực hiện đãi ngộ tốt với những thân nhân liệt sĩ, thương bệnh binh.
Từ trăn trở đó, bà cùng đội ngũ cán bộ sở LĐ-TB&XH tỉnh nhiều lần tìm thông tin để lập hồ sơ đề nghị các cơ quan có liên quan xem xét, công nhận liệt sĩ, thương binh, người hoạt động kháng chiến nhằm xoa dịu nỗi đau, mất mát với người thân của họ.
Công tác trong ngành được 10 năm thì bà nghỉ hưu, tuy bị di chứng chiến tranh ở hai khủy tay, khi "trái gió trở trời” lại hành hạ, nhưng bà luôn cảm thấy an lòng và may mắn hơn nhiều đồng đội, những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.
ST

TỔ QUỐC MÃI KHẮC GHI SỰ HI SINH ANH DŨNG CỦA CÁC ANH


Biết tin các anh hy sinh để giành lại sự sống cho người khác, dù không đến được nơi anh đang tạm nghỉ nhưng bằng tất cả lòng biết ơn chân thành, nhiều bó hoa tươi của người dân đã được đặt dưới chân tượng đài “Công an nhân dân vì dân phục vụ”.
Những bó hoa tươi dưới chân tượng đài
Dưới chân tượng đài “Công an nhân dân vì dân phục vụ” trên phố Trần Nhân Tông, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) sáng nay (2/8) có thêm nhiều bó hoa tươi được người Hà Nội lặng lẽ mang đến, thay cho lời tri ân những chiến sĩ vừa ngã xuống khi tham gia "trận đánh" với “giặc lửa” để giành lại sự sống cho 8 người khác vào chiều qua (1/8), xảy ra tại quán Karaoke ISIS, số 231 Quan Hoa, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy (Hà Nội).
Bó hoa tươi mà anh Lê Duy Quang (ở phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội) mang đến đặt dưới chân tượng đài này từ sớm thay cho mọi lời tri ân của mình. Trên trang Facebook cá nhân, anh Lê Duy Quang tha thiết chờ thông tin chính thức lễ viếng 3 CBCS Cảnh sát PCCC Công an quận Cầu Giấy đã anh dũng hy sinh và mong được tiễn đưa các anh đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Khoảng 13h30’ ngày 1/8, tại quán Karaoke ISIS số 231 bờ sông Quan Hoa, phường Quan Hoa quận Cầu Giấy xảy ra vụ cháy. Nguyên nhân ban đầu được xác định do quán đang sửa chữa, có hàn xì; quán không hoạt động.
Ngay sau khi nhận được tin báo, Công an quận Cầu Giấy huy động lực lượng PCCC đến chữa cháy. Quá trình chữa cháy, 3 CBCS Đội PCCC đã hy sinh. Ngay sau khi sự việc xảy ra, Bộ trưởng Bộ Công an đã cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Long, Thứ trưởng Bộ Công an trực tiếp đến hiện trường, chỉ đạo công tác chữa cháy và CNCH.
Có mặt tại hiện trường vụ cháy còn có đồng chí Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP Hà Nội; Trung tướng Nguyễn Hải Trung, Giám đốc Công an TP Hà Nội; Thiếu tướng Nguyễn Tuấn Anh, Cục trưởng Cục Cảnh sát PCCC và CNCH…
Danh tính 3 cán bộ hy sinh: gồm: Thượng tá Đặng Anh Quân, Thượng uý Đỗ Đức Việt và Hạ sỹ Nguyễn Đình Phúc, chiến sĩ nghĩa vụ.
Sự hy sinh của các anh không chỉ để lại nỗi đau cho người thân, cho đồng đội, bạn bè mà còn khiến tất cả mọi người xót xa. Trên các fanpage và diễn đàn của mạng xã hội, hàng nghìn người đã bày tỏ nỗi tiếc thương dành cho những người lính anh hùng. Cùng ước nguyện như anh Quang, có rất nhiều người mong được tiễn 3 người con về với đất mẹ, trong một ngày buồn nhưng rất đỗi tự hào.
Trên diễn đàn cựu học sinh niên khoá 1992-1995, những bạn đồng niên của Thượng tá Đặng Anh Quân, Đội trưởng Đội Cảnh sát PCCC và CNCH Công an quận Cầu Giấy) bồi hồi nhắc về nụ cười tươi của người bạn vừa ra đi trong niềm tiếc thương vô hạn.
Ký ức nghẹn ngào
Kỷ niệm đọng lại về Thượng tá Đặng Anh Quân, người bạn học lớp 12D3 trường THPT Lương Thế Vinh năm nào là đức tính hiền lành, thân thiện và dễ mến. Trung tá Nguyễn Ngọc Kiên, Trưởng Công an xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì nghẹn ngào nói lời vĩnh biệt những người bạn, người đồng đội đã như cánh chim hoà vào trời xanh. Tấm gương hy sinh anh dũng của các anh sẽ mãi là lý tưởng sống, khát khao cống hiến cho những người ở lại.
Cùng trong tâm trạng đau xót và hụt hẫng, trên trang cá nhân của phóng viên Thuỳ An, công tác tại chuyên đề An ninh Thủ đô (Báo Công an nhân dân) cảm nhận nỗi đau trong những người ở lại, là đồng đội, trong đó có thủ trưởng của họ.
Phóng viên Thuỳ An chia sẻ, ngay tại hiện trường, người chỉ huy dạn dày kinh nghiệm nấc nghẹn. Đó chính là Đại tá Thành Kiên Trung, Trưởng Công an quận Cầu Giấy: “Tấm gương hi sinh anh dũng của Thượng tá Đặng Anh Quân, Thượng úy Đỗ Đức Việt và Hạ sỹ Nguyễn Đình Phúc sẽ còn mãi. Với tình cảm và trách nhiệm, đơn vị sẽ thăm hỏi, động viên, thực hiện đầy đủ các chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh và gia đình, để các anh yên tâm ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc”.
“Đồng chí Thành Kiên Trung mà tôi biết là người rất quyết liệt. Kế hoạch cao điểm xử lý nồng độ cồn anh chỉ đạo và đứng đầu toàn thành phố. Thực hiện Mệnh lệnh 01 hay Chiến dịch 30 ngày đêm cấp căn cước công dân gắn chíp, Cầu Giấy luôn là đơn vị “Top đầu”. Ấy vậy mà người chỉ huy ấy hôm nay thất thần, khuôn mặt co rúm lại, chân tay như thừa thãi và có lẽ không còn tâm trí. Tôi cảm nhận được nỗi đau của người đứng đầu đơn vị khi đứng đó, còn ở trong kia là cấp dưới của mình đã anh dũng hy sinh. Anh không khóc, đúng hơn là không thể khóc nổi” - phóng viên Thuỳ An viết.
Nhà tang lễ Bệnh viện 19-8 chiều tối qua có những tiếng khóc nức nở, những lời nói nghẹn ngào trong nước mắt. Bố của Thượng úy Đỗ Đức Việt luôn quay mặt đi khóc nghẹn cho hay. Cuối chiều qua, nghe tin con trai gặp nạn khi đang làm nhiệm vụ, ông rụng rời, vội vã bỏ hết công việc, lao vào thẳng bệnh viện. Lúc ấy, trong thâm tâm, ông chỉ nghĩ con bị thương nhẹ, nhưng khi đến nơi, ông mới vỡ òa đau đớn khi thấy con đã nằm yên cùng hai đồng đội...
Khóc nghẹn tại nhà riêng, bà Trần Thị Thủy kể về con trai của mình - Thượng tá Đặng Anh Quân là một người con hiếu thảo. Bố mất sớm, thấu hiểu được sự vất vả của mẹ. Anh luôn quan tâm chăm sóc cho mẹ và em gái. Hằng ngày, dù bận công việc nhưng anh luôn tranh thủ đẩy xe hàng nhỏ cho mẹ ra ngõ rồi mới tới đơn vị.
Không chỉ là người thân, hoà cùng tâm trạng với bao sự tiếc thương vô hạn, nhà báo Lê Đạt, Báo Kinh tế đô thị đã xúc động tiễn biệt 3 chiến sĩ băng bài thơ với hình ảnh:
“Xin đừng khóc! Vì anh là người lính.
Lính ngại chi dẫu gian khổ hy sinh.
Lao vào lửa cứu 8 mạng người ở lại.
Chẳng đắn đo, anh quên bản thân mình…
Cả Hà Nội đang nín lặng chờ ngày tiễn biệt 3 chiến sĩ hoà vào đất mẹ.
Như lửa cháy trong tim, tên các anh còn vọng mãi bên tượng đài Công an nhân dân vì dân phục vụ.
Tổ quốc mãi khắc ghi sự hy sinh anh dũng của các anh”.
CAND

ANH HÙNG LA VĂN CẦU: "TRÁI TIM CÒN ĐẬP LÀ CÒN CHIẾN ĐẤU"!


Không chỉ được biết đến trong sách giáo khoa, tên tuổi của ông đã được dùng để đặt cho nhiều trường học, tên đường trên cả nước. Đó là Anh hùng lực lượng vũ trang La Văn Cầu.
Mỗi ngày 2 buổi sáng sớm và chiều tối, người dân tại phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội đều bắt gặp hình ảnh một cụ ông ngoài 90 tuổi quét dọn, làm sạch đường phố. Ông chính là Anh hùng La Văn Cầu vang bóng một thời đã đi vào sử sách.�
Sớm mồ côi cha từ nhỏ do bị thực dân Pháp bóc lột, năm 1948, theo lời kêu gọi của Tổ quốc, chàng trai La Văn Cầu khi ấy mới 16 tuổi nhưng đã xung phong lên đường đánh giặc. Tuy còn trẻ nhưng ý chí căm thù của ông ngút trời, quyết chí lên đường trả thù nhà, đền nợ nước.
Tháng 9/1950, quân ta mở trận đánh cứ điểm Đông Khê. Chiến sĩ La Văn Cầu cùng đồng đội nhận nhiệm vụ phá hàng rào và lô cốt, mở đường cho quân ta tiến lên tiêu diệt quân địch. Trong lúc làm nhiệm vụ, cánh tay phải và một bên má của ông đã trúng đạn.
Đại tá, Anh hùng LLVTND La Văn Cầu kể lại: "Cánh tay của tôi lủng lẳng rồi, rất là vướng. Tôi chỉ còn cách là chặ.t đi, nhưng bản thân mình chặ.t không được nên tôi nhờ đồng chí Tiểu đội trưởng Nông Văn Pheo chặ.t giúp. Ban đầu đồng chí Nông Văn Pheo bảo không được, cậu về thôi để người khác làm vì đồng chí biết tôi là gia đình con một. Nhưng mà tôi đã quyết tâm chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Trái tim còn đập, còn chiến đấu".
Chiến công của chiến sĩ trẻ La Văn Cầu khi ấy trở thành một hiện tượng, một tấm gương sáng. La Văn Cầu được Bác Hồ khen. Năm 1952, tại Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ Nhất, ông được vinh dự là một trong 7 chiến sĩ đầu tiên được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguồn: VTV - Những anh hùng thế kỉ XX

KHÍ PHÁCH NGÚT TRỜI XANH CỦA ANH HÙNG VÕ THỊ SÁU KHIẾN KẺ THÙ PHẢI RUN SỢ

 

KHÔNG CẦN BỊT MẮT TÔI...!
Người con gái đang độ xuân thì, đã vĩnh viễn ra đi cho bao mùa hoa lê-ki-ma nở, cuộc đời của chị đã hóa thành bất tử. Chị là Võ Thị Sáu - Nữ anh hùng huyền thoại vùng Đất Đỏ.
Tháng 2/1950, sau khi ném lựu đạn ám sát tên Cai tổng và gây thương tích cho 20 tên lính Pháp, chị bị bắt, giam tại khám Chí Hòa. Đến tháng 4/1951, thực dân Pháp đưa chị ra xét xử, kết án tử hình và đày ra Nhà tù Côn Đảo. Rạng sáng ngày 23/1/1952, địch đưa chị đi xử bắn.
Đối mặt cái chết, điều khiến người con gái Đất Đỏ ân hận nhất là chưa diệt hết bọn thực dân và tay sai cướp nước. Chuyện kể rằng, khi ra đến pháp trường, chị kiên quyết không quỳ xuống, yêu cầu không bịt mắt, chị khảng khái nói:
- Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn thấy đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người. Đả đảo thực dân Pháp! Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!
Ngày 2/8/1993, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Võ Thị Sáu.
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản
Thích
Bình luận
Chia sẻ

CÂU TRẢ LỜI MỘC MẠC CỦA MẸ LÀM CHO NGƯỜI MỸ PHẢI CỨNG HỌNG!

 

Lần ấy, vào những năm cuối thập niên 80, có một Đoàn liên hợp tìm kiếm hài cốt quân nhân Mỹ mất tích đến Củ Chi, TP Hồ Chí Minh để tìm kiếm và khai quật, có cả Người Mỹ, cán bộ của ta và các phóng viên báo chí.
Sau nhiều ngày được chính quyền và nhân dân Củ Chi giúp đỡ, họ đã tìm thấy một số hài cốt lính Mỹ.
Tại nơi khai quật hôm đó, có rất nhiều người dân Việt Nam là dân trong ấp đến chứng kiến việc khai quật và đưa hài cốt lên xe để ra sân bay. Ở đó có cả các nhà báo của ta và một vài nhà báo nước ngoài.
Trong lúc đứng chờ đợi, có một bà mẹ già tóc bạc, dáng gầy, nhỏ, da nhăn nheo, đang đứng bỏm bẻm nhai trầu. Một nhà báo Mỹ nói tiếng Việt lơ lớ nói: Chào bà mẹ.
Một số người dân thấy vậy chỉ vào bà má và nói với mấy phóng viên:
- Bà má này là Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng đấy, mẹ có chồng và bốn con là Liệt sĩ đã hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ.
Như vớ được vàng, một nhà báo nước ngoài hỏi má:
- Xin chào bà mẹ, chúng tôi rất khâm phục những người như bà, thật hiếm có, hiếm có.
- Cám ơn ông, không hiếm có đâu ông ạ, ở đất Củ Chi này cũng như trên đất nước Việt Nam tôi, có rất nhiều người mẹ như chúng tôi.
Nhà báo lại hỏi:
- Thưa bà mẹ, tôi hỏi khí không phải, hôm nay bà mẹ thấy người Mỹ ở tận xa xôi đến đây để tìm lại hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh đưa về nước, bà thấy thế nào? Xin hỏi chồng và con bà hiện nay đã được nhà nước Việt Nam tìm kiếm và quy tập về cho bà chưa?
Nghe câu hỏi có vẻ so sánh chính sách của nước Mỹ với của Việt Nam.
Bà má ngừng nhai trầu, bà bỏ miếng bã trầu cầm ra tay và nói chậm rãi:
- Người mẹ Việt Nam hay người mẹ Mỹ, khi mất chồng, mất con của mình cũng đều đau xót như nhau, tôi rất hiểu điều ấy. Tôi vẫn còn hai đứa con đã hi sinh chưa biết nó nằm đâu để mà Nhà nước quy tập. Nhưng tôi nghĩ, thằng g*iặc Mỹ nó ở tận bên Tây nó sang xâm lược nước tôi, nó mới phải sang đem xương cốt về nước nó, chứ con tôi nó hi sinh để giải phóng Đất nước tôi, cho dù là tìm thấy hay chưa tìm thấy, nó vẫn đàng hoàng nằm trên mảnh đất quê hương, đất nước của mình. Tôi đâu phải bận lòng nhiều về điều đó, chắc rằng các con tôi cũng nghĩ vậy thôi.
Vị nhà báo nước ngoài không hỏi thêm câu gì nữa. Những người ở đó hôm ấy chứng kiến câu nói này của Bà má Anh hùng đã không kìm được lòng mình vì xúc động. Thật là một suy nghĩ mộc mạc nhưng triết lý vô cùng sâu sắc và rất Việt Nam được ẩn chứa bấy lâu trong lòng của một bà má Anh hùng - một bà má bình dị như bao bà mẹ trên đất nước Việt Nam này./.
ST
Có thể là hình ảnh về 1 người
1

CHUYỆN NHỮNG KẺ MANG NẶNG THÀNH KIẾN, CỰC ĐOAN


Anh em Công an khi thi hành công vụ có đụng chạm với "dân" và được báo chí vào cuộc giật tít "công an đánh dân" hay "cầm vật giống súng khi làm việc với dân" rồi sau đó cũng lại được giật tít "phải tạm đình chỉ công tác để giải trình"... nhưng bản chất việc "giải trình" hay "báo cáo" ấy chỉ là thủ tục hành chính hoặc là một cách để xoa dịu dư luận thôi chứ không phải là thứ khẳng định rằng họ đã làm sai.
Không ít anh em cõi mạng có cái dở ấy là thấy tin họ "phải giải trình" hay "phải báo cáo" liền cho rằng ấy chính là sự khẳng định chắc chắn họ đã sai - ấy là cái cách mà học thuật người ta gọi là lỗi "kết luận vội vàng". Có những người hiểu rất rõ cái "lỗi" này và đặc điểm tâm lý xã hội nên đã lợi dụng nó cho mục đích biện luận của mình - ấy là một trong các tiểu xảo của cái gọi là "thuật nguỵ biện".
Tuy nhiên, có một thực tế là đa phần trong xã hội lại rất hay "kết luận vội vàng" nhưng không phải bởi hiểu thuật nguỵ biện mà cố tình sử dụng nó, mà là bởi họ thiếu hiểu biết, không có hoặc không quán triệt đúng phương pháp tư duy khoa học, cụ thể là các nguyên tắc của thuyết duy vật biện chứng về nhìn nhận, đánh giá một hiện tượng trong thực tế khách quan. Hiện tượng và bản chất không phải bao giờ cũng đồng nhất và hiện tượng không nhất thiết lúc nào cũng phản ánh đúng bản chất bên trong nó. Đánh giá hay kết luận bản chất của hiện tượng chỉ căn cứ vào những biểu hiện ra bên ngoài của nó cùng với tư duy chủ quan cá nhân thường sẽ rất dễ mắc sai lầm, nhất là khi cá nhân ấy mang nặng thành kiến, cực đoan...
ST
Có thể là hình ảnh về 6 người và mọi người đang đứng
2