THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở
VIỆT NAM – ĐIỀU KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã và đang phát
triển toàn diện, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh
vực. Tuy nhiên, với các thế lực thù địch, phần tử phản động thì chẳng bao giờ
chúng mong muốn những điều tốt đẹp đó và ngày càng đẩy mạnh các hoạt động xuyên
tạc, chống phá thành tựu phát triển kinh tế ở Việt Nam. Mới đây, trên trang Vietnamthoibao.org trong bài “Bên thắng cuộc đã đánh mất cái
gì?”, Phạm Đình Bá đã
đưa ra những lập luận thiếu cơ sở lý luận, thực tiễn, Y cho rằng: “Nền kinh tế Việt Nam thường
đóng vai trò là sự mở rộng của chuỗi kinh tế Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc
hơn là phát triển năng lực độc lập”. Thực chất nhằm xuyên tạc, phủ nhận, hướng lái người đọc hiểu
sai lệch về đường lối phát triển kinh tế ở Việt Nam.
1. Đại hội
lần thứ III (năm 1960), Đảng ta xác định công nghiệp hóa là vấn đề có tính quy
luật của quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn; khi đất nước tiến
hành công cuộc đổi mới, năm 1986 đến nay, Việt Nam xác định phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là mô hình phát triển tổng quát
của nền kinh tế Việt Nam, trong đó, gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phù hợp với thực tiễn nước ta đang
trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất thấp, chịu hậu quả nặng nề
của chiến tranh, thiên tai. Theo đó, các nhân tố xã hội chủ nghĩa đang được xác
lập, do đó Việt Nam nhất thiết phải có nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen nhau, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Điều đó hoàn toàn đúng đắn, phù
hợp với điều kiện thực tế Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Trong xây dựng và phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn
coi trọng phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; đẩy mạnh
hội nhập quốc tế, tiến hành công cuộc đổi mới; phát huy những lợi thế của toàn
cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như: Không gian kinh tế mới,
công nghệ mới, sản phẩm mới; thế giới được mở rộng hơn gắn liền với sự liên kết
chặt chẽ giữa các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Vì vậy, Việt Nam xác
định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời huy động có hiệu quả các
nguồn lực trong nước, phát huy được các nguồn lực bên ngoài, nhất là các dòng
vốn đang duy chuyển từ các nước đến Việt Nam, bảo đảm cho phát triển kinh tế
nhanh và bền vững, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2. Thực tế
cho thấy, qua gần 40 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Trên
lĩnh vực kinh tế, liên tiếp từ 2016 đến 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước
có kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có
thu nhập thấp từ năm 2008. Từ 1986 đến 2020: Thu nhập bình quân đầu người tăng
khoảng 17 lần. Quy mô GDP nước ta năm 2020 tăng 1,4 lần so với năm 2015, đạt
khoảng 343,2 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD, gấp 1,3 lần
năm 2015; năm 2022 đạt 9.513 tỷ đồng (tương đương 409 tỷ USD), thuộc nhóm các
nước tăng trưởng cao trong khu vực cũng như trên thế giới. Quy mô sản xuất của
ngành công nghiệp ở nước ta liên tục mở rộng, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
của toàn ngành công nghiệp tăng từ 7,4% năm 2016 lên 9,1% năm 2019. Theo báo
cáo của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 26/8/2024, tốc độ tăng trưởng kinh tế
Việt Nam năm 2024 dự kiến đạt 6,1%, nhờ sự phục hồi xuất khẩu các mặt hàng chế
tạo chế biến, du lịch, tiêu dùng và đầu tư. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ kinh
tế với hơn 221 thị trường nước ngoài. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí là đối tác
thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và đối tác thương mại lớn thứ tư
của Trung Quốc, sau Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc; trong đó, Trung Quốc là thị trường
nhập khẩu lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam; tuy
nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa kỳ cũng
phát triển nhanh, tăng từ 0,733 tỷ USD năm 2000 lên vượt mốc 100 tỷ USD vào năm
2022, năm 2023 là 97 tỷ USD.
Những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cả về quy mô và
chất lượng tăng trưởng ngày càng cao; đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng lên. Việt Nam đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực
của nền kinh tế, như khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, viễn thông, công
nghệ thông tin, luyện kim, sắt thép, vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến,… Một
số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn đang phát triển lớn mạnh,
đóng góp lớn về sản xuất, đầu tư, xuất khẩu, giải quyết việc làm, nhất là các
ngành da giày, dệt may, thép, thực phẩm chế biến, hóa chất. Một số ngành công
nghiệp nền tảng, như cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, vật liệu, công nghiệp
năng lượng đã từng bước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam đang làm chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ, quản lý kinh tế – xã hội, lao động thủ
công chuyển sang lao động với trình độ, công nghệ hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động
cao; tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế.
Vì vậy, những luận điệu của Phạm Đình Bá xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu phát
triển kinh tế ở Việt Nam, chống phá Đảng, Nhà nước ta cần được nhận diện. Mỗi
cán bộ, đảng viên, nhân dân cần nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ
những luận điệu sai trái này./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét