Thứ Tư, 1 tháng 3, 2023

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 02/3

  “Cán bộ lãnh đạo phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”

Ngày 02 tháng 3 năm 1962, Bác Hồ và đồng chí Dương Quốc Chính thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ về thăm đồng bào, bộ đội và cán bộ tỉnh Vĩnh Phúc. Tại buổi gặp mặt Bác khen ngợi xã viên các hợp tác xã, đồng bào miền núi, công nhân, bộ đội, cán bộ, các cụ phụ lão, các cháu học sinh đã ra sức sản xuất và chống hạn. Nói chuyện với cán bộ lãnh đạo tỉnh Bác căn dặn, muốn làm tốt mọi công việc thì từ tỉnh ủy đến chi bộ phải lãnh đạo tốt: Thực hiện đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, biến quyết tâm và sức mạnh của Đảng thành quyết tâm và sức mạnh của nhân dân; phải đi đúng đường lối của Đảng về công tác quần chúng; đi sâu vào cơ sở, đi sát hợp tác xã, tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho mọi người thấm nhuần ý thức trách nhiệm, tinh thần làm chủ tập thể, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, xây dựng nước nhà; cán bộ lãnh đạo phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiền của tài sản công của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân", "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình”.
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm phê bình để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc, để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Tư tưởng của Người về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là sự kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đạo lý làm người của cha ông, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đạo đức của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng ở nước ta. Người coi đó không phải chỉ là phẩm chất của cá nhân mà còn của cả tập thể, của cả dân tộc. Người yêu cầu mọi cán bộ đều phải rèn luyện, tu dưỡng theo các phẩm chất trên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay việc tìm hiểu, học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung và xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ, đảng nhà nước nói riêng đức tính "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết, trong bối cảnh một bộ phận của xã hội, có cả cán bộ, đảng viên còn biểu hiện suy thoái đạo đức cách mạng, tham nhũng, thoái hóa biến chất...
ST

TOÀN QUÂN PHẤN ĐẤU HOÀN THÀNH TỐT NHIỆM VỤ HUẤN LUYỆN!

         Hôm nay (1-3), toàn quân sôi nổi bước vào năm huấn luyện 2023, năm đầu tiên triển khai thực hiện Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023-2030 và những năm tiếp theo.
Nhìn lại năm 2022 và những tháng đầu năm 2023, với sự đồng lòng và quyết tâm rất cao, toàn quân đã khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ, nhiều nhiệm vụ hoàn thành đặc biệt xuất sắc. Chất lượng huấn luyện của từng đơn vị trong toàn quân ngày càng được nâng cao, sát với điều kiện tác chiến; khả năng sẵn sàng chiến đấu tốt; tổ chức tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, đón chiến sĩ mới về đơn vị và làm công tác chuẩn bị huấn luyện chu đáo... Nhiều nhiệm vụ được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh giá rất cao, như: Tổ chức và tham gia các hoạt động, hội thi, hội thao quốc tế đạt thành tích xuất sắc; giúp nhân dân phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố, dịch bệnh; chủ động triển khai các giải pháp góp phần phát triển kinh tế-xã hội; thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng... Đặc biệt, trên tinh thần quốc tế trong sáng và cao cả, thể hiện rõ vai trò Việt Nam là bạn, là đối tác, là thành viên tin cậy và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, những cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình, cũng như hỗ trợ đất nước Thổ Nhĩ Kỳ khắc phục hậu quả động đất đã chứng tỏ được năng lực, trình độ, thể hiện rõ khả năng chuyên môn, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và QĐND Việt Nam, được bạn bè quốc tế mến phục. 
Những kết quả nêu trên chính là minh chứng sinh động nhất, thiết thực nhất về chất lượng huấn luyện, rèn luyện và tinh thần sẵn sàng xả thân vì nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam.
Năm 2023, năm bản lề trong chặng đường 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Theo đó, cùng với phát huy những kết quả đã đạt được trong tổ chức huấn luyện, rèn luyện, xây dựng chính quy, tham gia các nhiệm vụ, đòi hỏi toàn quân phải có sự nỗ lực phấn đấu cao hơn với tính chủ động và thể hiện sự sáng tạo nhiều hơn. Vì vậy, toàn quân phải tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; đặc biệt là Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương và Chỉ lệnh huấn luyện năm 2023 của Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam. Từng cơ quan, đơn vị; mỗi cán bộ, chiến sĩ phải chủ động làm tốt công tác chuẩn bị cả về tư tưởng, tinh thần và vật chất để bước vào huấn luyện đạt hiệu quả cao nhất ngay từ ngày đầu, tuần đầu.
Đặc biệt, trong tổ chức huấn luyện, mỗi đơn vị và từng cán bộ, chiến sĩ không những phải nắm chắc nguyên tắc, vận dụng linh hoạt kinh nghiệm chiến đấu của cha ông ta, mà còn phải biết phân tích tình hình thực tế, xây dựng kế hoạch, xác định nội dung huấn luyện phù hợp với điều kiện và tình hình thực tiễn hiện nay, nhất là trong sự phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các hình thức tác chiến hiện đại đang diễn ra trên thế giới. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải thấy rõ được mục tiêu của việc nâng cao chất lượng huấn luyện chính là sự chuẩn bị đầy đủ nhất, chủ động nhất để bảo đảm toàn quân luôn có trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu cao và chiến đấu thắng lợi trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và cuộc sống bình yên của nhân dân, góp phần quan trọng xây dựng môi trường hòa bình để đất nước phát triển thịnh vượng, bền vững.
Từng cơ quan, đơn vị; mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nghiêm túc, nhìn thẳng vào thực tế để khắc phục bằng được những hạn chế, khuyết điểm trong tổ chức huấn luyện và rèn luyện. Quyết liệt nâng cao chất lượng huấn luyện phải luôn gắn với rèn luyện thể lực, thực hiện nền nếp chính quy, chấp hành nghiêm kỷ luật, bảo đảm an toàn; tự giác phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, giữ vững bản chất, truyền thống của Quân đội, lan tỏa hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ trong thời đại mới.
Vinh dự càng cao, trách nhiệm càng nặng nề. Năm huấn luyện 2023 đã tới, với ý nghĩa to lớn và giá trị thiết thực; với truyền thống và phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ, bằng trách nhiệm và tình cảm, sự nỗ lực phấn đấu của mỗi cán bộ, chiến sĩ, chắc chắn toàn quân sẽ đoàn kết, đồng lòng hoàn thành tốt và xuất sắc các nhiệm vụ.
QĐND Việt Nam, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ. Huấn luyện là nhiệm vụ chính trị trung tâm, nâng cao chất lượng huấn luyện chính là điều kiện hàng đầu để Quân đội "tinh, gọn, mạnh", hoàn thành tốt sứ mệnh được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin cậy giao phó./.
Theo QĐND.




Yêu nước ST.

TOÀN VĂN PHÁT BIỂU CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH TẠI CHƯƠNG TRÌNH NGHỆ THUẬT ĐẶC BIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 80 NĂM RA ĐỜI "ĐỀ CƯƠNG VỀ NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM!

     Tối 28/2, tại Nhà hát ở lớn Thủ đô Hà Nội đã diễn ra chương trình nghệ thuật đặc biệt chào mừng kỷ niệm 80 năm ra đời “Đề cương về Văn hóa Việt Nam” với chủ đề "Đề cương văn hóa Việt Nam - Những dấu ấn lịch sử". Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và có bài phát biểu tại Chương trình. Xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu quan trọng này của Thủ tướng:
"Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam!
Thưa các quý vị đại biểu, khách quý và toàn thể đồng chí, đồng bào!
Hôm nay, chúng ta trang trọng tổ chức Chương trình nghệ thuật đặc biệt chào mừng kỷ niệm 80 năm ra đời "Đề cương về Văn hóa Việt Nam" - được coi như Cương lĩnh của Đảng về văn hóa, đặt nền tảng tư tưởng - lý luận cho xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, khoa học, đại chúng, cách mạng và hội nhập quốc tế.

Chương trình này càng có ý nghĩa hơn khi được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, Thành phố vì hòa bình, thành phố anh hùng, đúng vào thời điểm đẹp nhất của mùa xuân mà đại thi hào Nguyễn Du, Danh nhân văn hóa thế giới đã khắc họa: "Ngày xuân con én đưa thoi - Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi - Cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi xin gửi tới các quý vị đại biểu, khách quý cùng toàn thể đồng chí, đồng bào lời chào trân trọng, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Thưa quý vị đại biểu, đồng chí, đồng bào!

Văn hóa luôn là một dòng chảy liên tục, không ngừng nghỉ qua những thăng trầm lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và của cả nhân loại. Văn hóa là hồn cốt của mỗi dân tộc, là những giá trị vật chất, tinh thần mà dân tộc đó sáng tạo ra trong lịch sử.

80 năm trước, trong bối cảnh chế độ thực dân nửa phong kiến đang suy thoái trầm trọng, Đề cương về Văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo, được Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông qua vào tháng 2/1943, là Văn kiện chính thức đầu tiên của Đảng về văn hóa. Đề cương thể hiện tầm vóc tư tưởng chính trị của Đảng trong việc xác định vị trí đặc biệt quan trọng của văn hóa trong cuộc đấu tranh "phản đế", "phản phong", đẩy mạnh cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ phát-xít, thực dân, phong kiến tay sai, xóa bỏ mọi áp bức bất công, giành chính quyền về tay nhân dân.

Những tư tưởng lớn, dân tộc, khoa học, đại chúng, với tinh thần cách mạng mạnh mẽ, đột phá, tính nhân văn sâu sắc trong Đề cương đã thổi một luồng gió mới có tác dụng thức tỉnh, thu hút, tập hợp đội ngũ các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ và đông đảo quần chúng nhân dân. Từ chỗ khủng hoảng, mất phương hướng, hoài nghi, bế tắc, nhiều văn nghệ sĩ đã được định hướng về trách nhiệm xã hội, đi theo ngọn cờ chính nghĩa của Đảng, tham gia cách mạng, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của chúng ta.

80 năm qua,như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, với ba nguyên tắc "dân tộc", "khoa học", "đại chúng", Đề cương về Văn hóa Việt Nam tiếp tục được Đảng ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn Việt Nam để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng lý luận của Đề cương được thể hiện xuyên suốt trong các Văn kiện của Đảng; đặc biệt là trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã cụ thể hóa, ban hành và triển khai hiệu quả nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách để phát triển văn hóa, phục vụ thiết thực công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

80 năm qua, đặc biệt là gần 40 năm đổi mới, chúng ta đã có quyền tự hào về phát triển văn hóa dân tộc và những đóng góp to lớn của lĩnh vực văn hóa, văn nghệ vào công cuộc cứu quốc và kiến quốc. Nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Văn hóa Việt Nam có sự thống nhất trong đa dạng, là sự hòa quyện, kết tinh giữa bản sắc văn hóa các dân tộc anh em; ngày càng phát triển mạnh mẽ, gắn với mọi mặt của đời sống, hướng tới phục vụ nhu cầu chính đáng của nhân dân; được bảo tồn, phát huy; từng bước trở thành động lực, nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Truyền thống văn hóa như suối nguồn nuôi dưỡng tạo nên nét đẹp, cốt cách của con người Việt Nam, là tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; sự hội tụ của lòng yêu nước, nhân ái, sẻ chia; tính cầu thị, khiêm tốn, lắng nghe, chịu thương, chịu khó và khả năng sáng tạo, ứng phó, vượt qua mọi khó khăn, thách thức trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Văn hóa, văn học, nghệ thuật nước nhà đã trở thành vũ khí đấu tranh sắc bén trên mặt trận tư tưởng, như Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Đình Chiểu đã viết: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm - Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". Văn hóa góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh với cái xấu, cái ác, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, lấy cái tích cực đẩy lùi tiêu cực; truyền cảm hứng, cổ vũ, lan tỏa các giá trị cao đẹp của dân tộc, của con người Việt Nam. Văn hóa Việt Nam đang dần vươn ra thế giới với nhiều giá trị, sản phẩm độc đáo được bạn bè quốc tế trân trọng và đón nhận.

Những thành tựu to lớn đó là nhờ có sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý sát sao của Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng hành, ủng hộ, chia sẻ của cộng đồng doanh nghiệp và quảng đại quần chúng nhân dân, mà trực tiếp, nòng cốt là đội ngũ các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở kế thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo, hiệu quả Đề cương về Văn hóa Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng khác nhau.

Thưa quý vị đại biểu, đồng chí, đồng bào!

Giai đoạn phát triển mới với tình hình thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, mang lại những cơ hội, vận hội mới nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức đối với công tác bảo tồn, phát triển văn hóa, văn nghệ. Những biểu hiện phi văn hóa, phản văn hóa đang diễn biến hết sức phức tạp. Cạnh tranh trong lĩnh vực văn hóa trở nên khốc liệt hơn; việc bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống đang đứng trước nhiều thách thức mới có nhiều khó khăn hơn.

Trong dòng chảy của xã hội, chúng ta đã chứng kiến biết bao tấm gương cao đẹp, cống hiến cho cộng đồng, xã hội với khát vọng đóng góp xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng chúng ta cũng trăn trở, băn khoăn khi những "luồng khí độc" văn hóa tác động tiêu cực đến xã hội, nhất là đối với thế hệ trẻ. Giải pháp nào để "gạn đục, khơi trong" trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, công nghệ, các nền tảng mạng xã hội phát triển như hiện nay là thách thức và trách nhiệm của mỗi chúng ta.

Để vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh, chúng ta cần chung sức, đồng lòng với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, triển khai quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, trong đó lưu ý một số nội dung sau:

- Tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ những định hướng lớn, quan điểm xuyên suốt, đồng thời phát triển, bổ sung, làm phong phú, sâu sắc hơn nữa những nội dung trong Đề cương về Văn hóa Việt Nam. Quán triệt, triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc: "Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội"; "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước"; "Văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất".

- Nâng cao hơn nữa nhận thức và hành động để văn hóa thực sự thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường huy động, phát huy tối đa hiệu quả của các nguồn lực Nhà nước và xã hội để phát triển toàn diện văn hóa, để văn hóa, con người thực sự là sức mạnh nội sinh của dân tộc ta.

- Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; đầu tư thích đáng cả về nguồn lực con người, vật chất cho phát triển văn hóa theo chiều sâu, nhanh, bền vững. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.

- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phục vụ nhân dân, môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số, công dân số trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cải thiện nhiều hơn nữa điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả các loại hình văn hóa, văn nghệ, văn học nghệ thuật; bảo tồn và phát huy các giá trị độc đáo, khác biệt của văn hóa dân tộc. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc và phù hợp với văn hóa, điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, tạo sự đột phá trong phát triển các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, phát huy tối đa sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam.

- Gắn kết chặt chẽ văn hóa với các hoạt động sản xuất, kinh doanh để nâng cao giá trị gia tăng, khai thác tối đa các giá trị của chiều sâu văn hóa Việt Nam. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa, đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại; chủ động nâng cao sức đề kháng của nhân dân đối với các văn hóa xấu độc.

- Đẩy mạnh truyền thông, quảng bá nền văn hóa, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đặc thù, đặc trưng của Việt Nam có sức cạnh tranh quốc tế như Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An, Cao nguyên đá Đồng Văn, Phong Nha, Kẻ Bàng, Nhã nhạc Cung đình Huế, Dân ca quan họ Bắc Ninh, hát Xoan Phú Thọ, hát Then, Xòe Thái, Tín ngưỡng thờ Mẫu, Đờn ca tài tử Nam Bộ…

Thưa quý vị đại biểu, đồng chí và đồng bào!

Nền văn hóa của dân tộc Việt Nam - với lịch sử hàng nghìn năm - đã luôn và sẽ là sức mạnh trường tồn của dân tộc; như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, người Anh hùng Dân tộc vĩ đại, Danh nhân Văn hóa thế giới đã từng khẳng định: "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi".

Mỗi người chúng ta dù ở bất cứ nơi đâu cũng luôn tự hào về truyền thống và các giá trị văn hóa Việt Nam, về các danh nhân văn hóa như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương… Chúng ta có nghĩa vụ, trách nhiệm, vinh dự được gìn giữ, bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc bền vững, phù hợp với xu thế của thời đại. Đó là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, tất cả vì con người và vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng; nhân dân ngày càng được ấm no và hạnh phúc.
Xin trân trọng cảm ơn./."
Yêu nước ST.

“NỢ NƯỚC NON", MỘT TÁC PHẨM XÚC ĐỘNG VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!

         “Nợ nước non” (NXB Văn học, 2022), quyển mở đầu bộ ba tác phẩm về thân thế, cuộc đời cách mạng, sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhà văn, nhà viết kịch Nguyễn Thế Kỷ ấp ủ thai nghén từ lâu, cuối cùng cũng đã ra mắt với đông đảo độc giả vào trung tuần tháng 5 năm 2022.
     Tác phẩm kể về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn ở làng Chùa, làng Sen, rồi mấy lần ra vô Huế, vào Quy Nhơn, Phan Thiết, rồi vào Sài Gòn, trước khi lên tàu Admiral Latouche Tréville một ngày tháng 6 năm 1911, bắt đầu bôn ba hải ngoại, “đi tìm hình của nước”. Quãng thơ ấu chiếm phần lớn dung lượng thời gian của chuyện kể, và đó là quãng thơ ấu của một cậu bé bình thường chứ không phải một thần đồng với những lời nói hay hành động đột xuất. 
     Qua mô tả của nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, người đọc hoàn toàn có thể xây dựng một hình dung về cậu bé Nguyễn Sinh Cung: sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo xứ Nghệ, lớn lên trong sự rèn cặp nghiêm cẩn của người cha, trong tình thương yêu và đức hy sinh vô bờ của bà ngoại và mẹ, trong sự chan hòa thân ái với bà con xóm giềng và bè bạn cùng trang lứa. Nhưng tuổi thơ của cậu không êm đềm: nó được đánh dấu bằng những cuộc dịch chuyển liên tục theo cha nay đây mai đó, thực chất là đi học để đỗ đạt cao, hoặc đơn giản là đi dạy học cho thiên hạ, lấy đó làm kế sinh nhai. 
     Ngay ở cuộc dịch chuyển đầu tiên, cả nhà vào Huế để ông Nguyễn Sinh Sắc theo học Quốc tử giám, cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã nếm trải đến tận cùng nỗi đau mất mát: mẹ và đứa em mới chào đời của cậu đã chết, vì ốm và đói, khi cha còn đang bận chấm thi ngoài Thanh Hóa. Ở đoạn văn mô tả thời khắc bà Hoàng Thị Loan qua đời, để lại một hài nhi bấy bớt cho đứa bé mới mười tuổi hơn, Nguyễn Thế Kỷ dùng liên tiếp các câu văn ngắn, nhịp nhanh, tựa như những giọt nước mắt lã chã nối nhau trong nỗi đau xé người. Nỗi đau ấy, trong khung khổ một tuổi thơ như thế, có lẽ chính là điều mà Nguyễn Thế Kỷ muốn nhấn mạnh như một dẫn nhập vào cái cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh sau này: đó là tình thương yêu con người, đau cùng nỗi đau của con người và nỗi đau của nhân loại lao khổ.
     Có ba nhân vật có thật của lịch sử đã được Nguyễn Thế Kỷ đưa vào thành ba nhân vật của tiểu thuyết, tạo ra những tình huống đối thoại đa dạng với Nguyễn Tất Thành, từ đó mở rộng tư tưởng và mài sắc thêm cho quyết định xuất dương của nhà cách mạng trẻ tuổi. 
     Nhân vật thứ nhất chính là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Nguyễn Tất Thành, một nhà Nho ưu thời mẫn thế, nhưng cũng là một nhà Nho bị mắc kẹt trong chính những nguyên tắc truyền thống của Nho gia, yêu nước nhưng đành bất lực ôm mối đau mất nước đến hết đời. 
     Nhân vật thứ hai là ông giải San, tức Phan Bội Châu, người chủ trương cứu nước bằng con đường thiết huyết, tức đấu tranh bạo động trên cơ sở cầu viện (sau đó là cầu học) đế quốc Nhật Bản, một nước châu Á “đồng văn đồng chủng”./.
Yêu nước ST.

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA TỔNG BÍ THƯ LÊ HỒNG PHONG!

     Ông tên thật là Lê Huy Doãn sinh năm 1902 trong một gia đình nghèo ở xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Mồ côi cha từ nhỏ, tuy nhiên nhờ sự tảo tần của mẹ, ông vẫn được cho theo học chữ Hán và tiếng Pháp. Năm 16 tuổi, ông xin đi làm công cho một hãng buôn ở Vinh rồi chuyển sang làm công nhân nhà máy diêm Bến Thủy và bị đuổi việc vì đã vận động công nhân đấu tranh đòi quyền lợi với giới chủ bóc lột. Từ đó, ông bước vào con đường làm một nhà cách mạng chuyên nghiệp.
     Năm 1925 ông học ở trường quân sự Hoàng Phổ, rồi trường không quân Quảng Châu tại đây ông gặp được Nguyễn Ái Quốc.
     Năm 1927 ông được theo học trường không quân ở Liên Xô tốt nghiệp cấp Trung Tá.
     Năm 1931 với tên Vương Nhật Dân ông về Trung Quốc hoạt động.
     Ngày 31/3/1935 ông được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đến ngày 27/6/1936.
     Sau nhiều năm học tập, huấn luyện và hoạt động ở nước ngoài, tháng 11/1937, đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động với thẻ căn cước lấy tên là La Anh, đồng chí Lê Hồng Phong cùng các đồng chí trong Ban chấp hành Trung ương khẩn trương củng cố tổ chức Đảng và tăng cường lực lượng cách mạng.
     Ngày 22/6/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị mật thám bắt. Biết Lê Hồng Phong, Tòa Tiểu hình Sài Gòn đã kết án đồng chí 6 tháng tù giam và 3 năm cấm cư trú vì tội “sử dụng thẻ căn cước mang tên người khác”. Đồng chí Lê Hồng Phong kiên quyết kháng án nhưng Tòa Thượng thẩm Sài Gòn họp ngày 29/8/1939 đã phê chuẩn y án và giam đồng chí Lê Hồng Phong tại nhà tù Sài Gòn.
     Ngày 23/12/1939, hết hạn tù giam, đồng chí Lê Hồng Phong được thả tự do nhưng ngay lập tức bị trục xuất khỏi Nam Kỳ, buộc phải rời Sài Gòn về quê nhà, vượt qua mọi sự kiểm soát, cấm đoán, đồng chí vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng.
     Lo sợ Lê Hồng Phong trốn thoát, tiếp tục hoạt động lãnh đạo cách mạng, chính quyền thực dân Pháp tiếp tục bắt giam đồng chí lần 2 ngày 20/1/1940. Không có chứng cớ để buộc tội Lê Hồng Phong, tòa tiểu hình Sài Gòn của Đế quốc Pháp đã kết án đồng chí 5 năm tù giam, 10 năm quản thúc. Cuối năm 1940, Lê Hồng Phong bị đày ra giam ở nhà tù Côn Đảo.
     Tại Côn Đảo, đồng chí Lê Hồng Phong đã sống những ngày anh dũng, bất khuất, nêu cao khí tiết của người cộng sản. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, đế quốc Pháp đày ra Côn Đảo. Đây là thời kỳ dã man, tàn bạo nhất trong lịch sử nhà tù Côn Đảo. Lớp tù nhân lúc bấy giờ hầu hết bị cấm cố ở Banh II và Banh III. Lê Hồng Phong bị giam tại xà lim Sở Muối, trên con đường từ thị trấn đi ra mũi Cá Mập, cách trung tâm thị trấn khoảng 1km với mục đích cô lập đồng chí với tổ chức tù chính trị tại Côn Đảo. Tuy nhiên dù bị giam ở khu vực nào, qua hệ thống cơ sở tù chính trị làm khổ sai và bồi bếp, tổ chức Đảng ở Côn Đảo vẫn liên lạc được với đồng chí Lê Hồng Phong.
     Thực dân Pháp ở Nam Kỳ đã chỉ thị cho bọn chúa đảo phải hãm hại đồng chí Lê Hồng Phong. Bọn cai ngục đã áp dụng một chế độ lao tù hà khắc bất chấp cả luật pháp đối với tù nhân. Hàng ngày Lê Hồng Phong bị đ.ánh đ.ập hết sức dã man bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu: đ.ánh trong lúc lao công, lúc tắm giặt, lúc điểm danh và cả trong bữa ăn hàng ngày.
     Có lần, Lê Hồng Phong và các đồng chí của mình vừa bưng bát cơm ăn thì bị bọn cai tù xông vào đ.ánh túi bụi. Lê Hồng Phong và các đồng chí khác hô to phản đối, nhưng mặt khác ông vẫn thản nhiên ngồi ăn dù m.áu đang chảy ròng ròng trên mặt. Bát cơm của Lê Hồng Phong đang ăn cũng thấm đầy m.áu. Thấy thế, một tên cai tù lấy làm kinh ngạc, đến hỏi đồng chí với một giọng hách dịch: "Ê, tại sao tao đ.ánh mày như thế mà mày vẫn thản nhiên ngồi ăn? Mày không biết đau à?"
     Lê Hồng Phong thong thả đặt bát cơm chan m.áu xuống, rồi ngẩng cao đầu, đồng chí cố dằn từng tiếng: “Ngày nào chúng mày không đánh được chúng tao chảy m.áu thì chúng mày thấy ăn không ngon, ngủ không yên. Vậy chúng tao cần phải ăn để có sức đối phó với chúng mày. Đấy là tất cả lý do, rất đơn giản. Chúng mày cứ tiếp tục đ.ánh đi.”
     Với âm mưu thủ đoạn thâm độc hòng gi.ết dần, gi.ết mòn tù nhân bằng chế độ lao tù khắc nghiệt của thực dân Pháp, sức khỏe tù nhân ngày càng suy kiệt, bệnh tật hoành hành. Banh nhà thương (Banh II) lúc bấy giờ chật ních tù nhân. Do bị cấm cố và chế độ ăn uống kham khổ, chân tay Lê Hồng Phong dần bị teo lại, cùng với bệnh kiết lỵ khá nặng, đồng chí bị chuyển về cấm cố tại xà lim Banh II. Hằng ngày, thầy thuốc vào thăm bệnh và phát thuốc. Dù bị bất cứ bệnh gì nguy hiểm cũng chỉ có hai thứ thuốc là nước vôi và bột than. Chỉ trường hợp cấp cứu mới được đưa ra khỏi nhà thương và tiêm một, hai uống thuốc hồi sức. Tất cả bệnh nhân được tập trung về một chỗ rồi lần lượt ra đi. Dù bị bệnh nhưng các đồng chí vẫn bị xiềng chân, cấm cố, ăn uống mất vệ sinh và các yêu sách được trả lời bằng roi vọt.
     Nhưng trong lao tù khắc nghiệt, Lê Hồng Phong và các đồng chí luôn dõi theo, lạc quan tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Lê Hồng Phong đã giới thiệu những thành tựu trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở Liên Xô để củng cố niềm tin cho tất cả các anh em đồng chí. Với niềm tin vào cách mạng, đồng chí đã làm một bài thơ 8 câu vẽ nên viễn cảnh đất nước sẽ được giải phóng, địa ngục trần gian Côn Đảo sẽ được xóa bỏ. Côn Đảo sẽ trở thành một thắng cảnh rất đẹp, nơi nghỉ ngơi cho người lao động.
     Cũng trong thời gian ở Côn Đảo, sau khi đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai h.y sinh được hơn 1 năm, đồng chí Lê Hồng Phong mới hay tin về người vợ, người đồng chí của mình. Vào một buổi trưa năm 1942, dưới gốc bàng xà lim số 2, đồng chí Lê Hồng Phong nói chuyện với người lính Gardrien Ấn Độ vừa ở đất liền ra: Chúng tôi có một nữ đồng chí là Minh Khai bị xét xử thế nào? Ông có biết không? Vừa nghe đến cái tên Minh Khai, người lính Ấn với vẻ mặt trang nghiêm, đôi mắt buồn, đứng lên cất mũ cúi chào rồi kể trong niềm xúc động: Bà lớn Minh Khai bị bắn ch.ết rồi! Tôi nói bà lớn là bà lớn thật, núi cũng phải nghiêng mình, cây cối cũng phải cúi chào bà!
     Đồng chí Lê Hồng Phong lặng im như bức tượng đá, tim như ngừng đập. Anh không muốn tin về cái điều khủng khiếp ấy. Thế là người đồng chí trung kiên, người vợ yêu dấu của anh đã mãi mãi ra đi, Hồng Minh bé nhỏ đã mất mẹ rồi tiếp tục sẽ mất cả cha.
     Ngày 6/9/1942, đồng chí Lê Hồng Phong h.y sinh tại khu cấm cố biệt lập Banh II. Đồng chí đã sống, chiến đấu, yêu thương cho đến hơi thở cuối cùng với khí phách của người cộng sản: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”./.
Yêu nước ST.

NHỮNG CÂU NÓI BẤT HỦ ĐÃ ĐI VÀO LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM!

1. Tha thứ cho Mông Cổ là việc của phật tổ. Tiễn Mông Cổ đi gặp tiên tổ là của trẫm. (Phật Hoàng Trần Nhân Tông)

2. Nếu bệ hạ muốn hàng thì hãy chém đầu thần trước đã. (Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn)

3. Không được để mất một thước núi, một tấc sông. (Vua Lê Thánh Tông)

4. Nơi nào ta mang quân tới nơi đó sẽ bị đánh tan tành. (Vua quang Trung)

5. Xin quan gia cho đánh, cho giặc mượn đường là mất nước. (Trần Quốc Toản)

6. Người Việt Nam thà chết chứ không làm nô lệ. (Hồ Chí Minh)

7. Dù phải đốt cháy cả dãy trường sơn cũng quyết giành cho được độc lập. (Hồ Chí Minh)

8. Không có gì quý hơn độc lập tự do. (Hồ Chí Minh)

9. Tao chỉ biết đứng không biết quỳ. (Võ Thị Sáu)

10. Từ lo sợ không có trong tư duy quân sự của Việt Nam. (Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

11. Lò đã nóng thì củi tươi cũng cháy. (Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng)

12. Nước Nam ta ai cũng có thể bơi lặn như cá ở dưới biển. Ta là kẻ kém nhất. (Thủy thần Yết Kiêu)

13. Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp nguồn sóng dữ, chém cá kình ở biển đông, lấy lại giang sơn dựng nền độc lập. (Triệu Thị Trinh)

14. Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì Bệ hạ đừng lo gì hết. (Thái sư Trần Thủ Độ)

15. Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc. (Trần Bình Trọng)

16. Thần không sợ đánh chỉ sợ lòng dân không theo (Hồ Nguyên Trừng)

17. Bao giờ người tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh tây. (Nguyễn Trung Trực)

18. Người Mỹ có thể lên mặt trăng và trở về an toàn nhưng sang Việt Nam thì tôi không chắc. (Nguyễn Thị Bình)./.
Môi trường (Yn) ST.

Lợi dụng văn học nghệ thuật để chống phá đất nước

 

 Các tác phẩm văn học nghệ thuật “nhuốm màu” chính trị, “cài cắm” những tư tưởng phản động sẽ làm “vẩn đục” đời sống tinh thần của xã hội. Văn học nghệ thuật là một trong những lĩnh vực được các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá đất nước.

Văn học nghệ thuật là những nhu cầu thiết yếu trong đời sống  tinh thần của con người, văn học nghệ thuật có thể len lỏi vào trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người. Nếu như đó là những thông điệp tốt đẹp sẽ truyền cảm hứng, làm cho cuộc sống tốt hơn nhưng nếu các tác phẩm văn học nghệ thuật “nhuốm màu” chính trị, “cài cắm” những tư tưởng phản động sẽ làm “vẩn đục” đời sống tinh thần của xã hội. Và cũng vì thế, văn học nghệ thuật trở thành một trong những lĩnh vực được các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá đất nước.

Kêu gọi thành lập cái gọi là “Văn đoàn độc lập”

Theo thống kê của Bộ Công an, hiện nay, ở nước ngoài có khoảng 50 đài phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, hơn 430 tờ báo, tạp chí và trên 40 nhà xuất bản thường xuyên có nội dung tuyên truyền chống phá Việt Nam. Hằng năm, có gần 3 nghìn tài liệu chiến tranh tâm lý được đưa vào Việt Nam bằng nhiều hình thức khác nhau. Thời gian gần đây, một số văn nghệ sĩ, trí thức bị lợi dụng, lôi kéo đã chạy trốn ra nước ngoài có những hành động phản bội Tổ quốc, viết nhiều ấn phẩm, sách báo bôi nhọ, nói xấu chế độ. Bên cạnh đó, có một số nhà văn, nhà thơ do bản lĩnh không vững vàng, dẫn đến tự diễn biến, tự chuyển hóa, sáng tác những tác phẩm văn học nghệ thuật mang nặng quan điểm bức xúc cá nhân.

Tiến sĩ nghiên cứu văn học Nguyễn Toàn Thắng cho rằng, xuất phát từ đặc điểm của trí thức văn nghệ sĩ mà cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật đang diễn ra rất gay gắt và phức tạp.

“Trí thức văn nghệ sỹ có một điểm mạnh đó là sức tưởng tượng, nhưng chính đây là điểm yếu của trí thức văn nghệ sỹ. Họ dễ dao động, đời sống tinh thần dễ bị xáo trộn. Đặc tính này khiến họ dễ bị lợi dụng, bị lôi kéo. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này vô cùng nan giải”.

Gần đây, một số văn nghệ sĩ, trí thức còn kêu gọi, hô hào ủng hộ vận động, thành lập cái gọi là “Văn đoàn độc lập”. Với danh nghĩa là để chấn hưng nền văn học nước nhà, tổ chức này muốn thực hiện ý đồ chính trị rất rõ ràng là nhằm chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hình thành nên một tổ chức bất hợp pháp đối lập với các tổ chức của Nhà nước nhằm tập hợp những văn nghệ sĩ có tư tưởng cực đoan, bất mãn, chống đối chế độ.

Vì thế, đấu tranh trên lĩnh vực văn học nghệ thuật không chỉ đơn thuần là nhận diện ra đúng sai mà vấn đề cốt lõi nhất là phải định hướng để quần chúng thấy rõ đúng, sai. Đây là quan điểm của Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương.

“Phải nhận diện cho đúng và đánh cho trúng. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng không giống đấu tranh quân sự, mà cuộc đấu tranh này, đích cuối cùng là thuyết phục, lôi kéo quần chúng về phía mình”- ông Dũng cho hay.

Thời gian vừa qua, khi mạng xã hội bùng nổ và trở nên phổ biến thì không ít văn nghệ sĩ đã sử dụng các tài khoản zalo, facebook để bình luận các vấn đề của đất nước bằng ngôn ngữ văn chương với góc nhìn một chiều, phiến diện, cực đoan. Trên trang facebook, một số văn nghệ sĩ, trí thức cũng đã đăng tải những trạng thái, những bài thơ, đoạn trích văn xuôi để bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân trước một số vụ việc ở trong nước theo chiều hướng phê phán, lên án chính quyền. Những bài thơ, đoạn văn được viết với ngôn từ hoa mỹ, nhưng lại được “cài cắm”, móc nỗi những quan điểm phản động. Vì thế, để nhận diện được những quan điểm, tư tưởng sai trái trong các tác phẩm văn học nghệ thuật chúng ta cần phải có một hệ quy chiếu như một quy chuẩn để nhìn nhận và đánh giá.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thiện, Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam cho rằng: “Phê phán, đấu tranh với những cái sai trái, thù địch thì mình phải có một cái chuẩn. Chuẩn ở đây là quan điểm Mác - Lê nin được vận dụng một cách sáng tạo, chuẩn ở đây là đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng thể hiện trong các văn kiện chính thức của Đảng”.

Ranh giới giữa trắng đen, phải trái trong lĩnh vực văn học nghệ thuật rất khó phân định, mà đôi khi công chúng cũng chưa hẳn đã nhận ra đó là thù địch, phản động. Vì vậy, theo Thiếu tướng Nguyễn Văn Tín, nguyên Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn, khi phát hiện thấy có những quan điểm, tư tưởng lệch lạc được lồng ghép trong các tác phẩm văn học nghệ thuật thì cơ quan chức năng, quản lý nhà nước cần có sự chủ động để trao đổi, gặp gỡ với tác giả để tìm ra tiếng nói chung, định hướng nhận thức, không nên quy kết và cô lập họ.

“Có nhiều tác giả mà thời học sinh, chúng tôi rất quý, thậm chí thuộc từng câu, từng chữ của những tác phẩm đó, của những bài thơ đó. Nhưng bây giờ thì họ lại quay ra có những ý kiến này nọ. Nếu liệt người ta vào nhóm nào đó thì có khi lại thành chuyện. Vì vậy đòi hỏi một phương pháp hết sức mềm dẻo. Quan điểm là lôi kéo người ta về phía mình, không đẩy người ta ra xa.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Minh Lường, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, cho rằng, những sai trái, lệch lạc trong việc sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật thì có thể gặp gỡ, trao đổi để định hướng nhưng với những đối tượng cố tình lợi dụng văn học nghệ thuật để xuyên tạc lãnh tụ, bôi nhọ hình ảnh đất nước, nói xấu chế độ, xúc phạm, phí báng tiền nhân thì cần phải có chế tài xử lý nghiêm khắc.

Nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện lệch lạc, sai trái trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật trong thời gian qua không chỉ xuất phát từ nhận thức sai lầm và sự cố chấp của một số văn nghệ sĩ bất mãn với chế độ mà còn do sự móc nối, lôi kéo của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đối với một số văn nghệ sĩ. Vì vậy, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, cần nhận diện và đấu tranh chống lại những biểu hiện sai trái, lệch lạc trên lĩnh vực văn hóa nói chung và văn học, nghệ thuật nói riêng. Đó là cách làm cho văn học, nghệ thuật ngày càng ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần của nhân dân và trở thành sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.

Quân đội nhân dân Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh qua tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới

 

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, từ những bài giảng đầu tiên trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” đến trăn trở, mong muốn trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và dành nhiều tâm sức bàn về vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng, rèn luyện, thực hành đạo đức; coi đó là “cái gốc” của người cách mạng.

Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán về tinh thần cách mạng triệt để, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, được Người đề cập trong rất nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói. Tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, bút danh Trần Lực, đăng trên Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản), số 12, tháng 12 - 1958 là một trong những tác phẩm tiêu biểu mà Hồ Chí Minh viết về đạo đức cách mạng và những vấn đề có tính nguyên tắc đối với công tác xây dựng Đảng, để Đảng ta xứng đáng là đạo đức, là văn minh, là đội tiên phong của giai cấp, của dân tộc,… đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, được nhân dân tin yêu, đùm bọc và nuôi dưỡng. Kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước, nghệ thuật quân sự của dân tộc, Quân đội ta đã cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, xứng đáng với lời khen tặng của Bác Hồ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng1.

 

Lời khen tặng trên là sự ghi nhận về lòng tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân của Quân đội ta; là niềm tin yêu trọn vẹn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao gửi cho đội quân của dân, do dân, vì dân. Đồng thời, là sự khái quát bản chất, truyền thống, cống hiến, hy sinh quên mình và cũng là sự kết tinh những giá trị cốt lõi trong những phẩm chất tiêu biểu về đạo đức cách mạng của Quân đội ta, được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ khắc ghi, học tập và gương mẫu làm theo, hình thành nên những phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” - một giá trị độc đáo trong thời đại mới, là minh chứng sâu sắc cho kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Phẩm chất đó được thể hiện với những đặc trưng tiêu biểu:

Một là, tận trung với nước, với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; tận hiếu với dân, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, vì nhân dân quên mình; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản, quan trọng bậc nhất; biểu hiện tập trung về bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và chức năng, nhiệm vụ, đạo đức cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân2. Tận trung với nước, với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa là bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lời thề danh dự của mỗi quân nhân cách mạng.

Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh, nên tận hiếu với dân là phẩm chất cơ bản, xuyên suốt trong hệ thống các phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ”; là truyền thống tốt đẹp, bổn phận, trách nhiệm, vinh dự, tự hào và là đạo đức cách mạng của người quân nhân cách mạng. Điều đó không thuần túy là thái độ, cách ứng xử của bộ đội với nhân dân mà còn là phẩm chất chính trị, đạo đức, việc làm tự giác, thường xuyên, theo đúng phương châm: gần dân, hiểu dân, trọng dân, thương dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Thực tế đã chứng minh, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội ta luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội, được tôi luyện trong khói lửa của chiến tranh; đồng thời, đó cũng là sự khẳng định giá trị, sự kế thừa, phát triển cùng với sự vận động của thực tiễn và là thước đo chuẩn mực đạo đức cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Tận trung với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ, tận hiếu với nhân dân là tiêu chuẩn cốt lõi, quan trọng hàng đầu về đạo đức cách mạng “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; là tình cảm, sự tôn kính của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với những chỉ dẫn, nguyên tắc rất cơ bản về đạo đức cách mạng mà Người đã luận bàn trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng”.

Hai là, kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng chính trị là nội dung cơ bản cấu thành phẩm chất chính trị. Do vậy, khi nói tới bản lĩnh chính trị, trước hết là nói về sự vững vàng về tư tưởng chính trị của Quân đội ta - lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là mục tiêu, lý tưởng của Quân đội; nền tảng tư tưởng của Đảng là nền tảng tư tưởng của Quân đội. Mặt khác, “Bộ đội Cụ Hồ” là kiểu mẫu về nhân cách được hiện thực hóa một cách tự nhiên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Vì thế, Quân đội phải luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với chuẩn mực nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” và đạo đức cách mạng của người quân nhân, giá trị đó đã được bồi đắp, thử thách, rèn luyện và khẳng định trong suốt chiều dài lịch sử hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta. Đây là biểu hiện sâu sắc về đạo đức cách mạng, nhân tố quan trọng giúp cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó; như Hồ Chí Minh đã dạy: “Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng3.

Tuy nhiên hiện nay, tình trạng suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên là rất đáng lo ngại, đúng như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa đà vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi… Thực trạng này làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ4. Bởi vậy, xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề hết sức quan trọng, tạo nền móng vững chắc để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: Xây dựng Đảng về đạo đức được đặt ngang tầm với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Do vậy, kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phải được xác định là một trong những tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu trong hệ thống chuẩn mực đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nói chung, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, thể hiện sâu sắc về tư tưởng chính trị trong nhân cách người cán bộ, đảng viên và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”. Tiêu chuẩn này đối lập với những khuynh hướng tư tưởng phức tạp, sự suy thoái về các giá trị đạo đức mà giai cấp tư sản và các thế lực thù địch cổ súy; đồng thời, tiếp tục khẳng định phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, góp phần đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Hiện thực hóa tiêu chuẩn này trong đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng trong chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” là kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nắm vững bản chất cách mạng, khoa học; trung thành, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta; tiếp thu những giá trị tiến bộ, văn minh của nhân loại trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ba là, chủ động nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; nhận rõ đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, vấn đề lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc luôn có sự đan xen mang tính toàn cầu ngày càng gia tăng. Vì vậy, cần hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa đối tác và đối tượng: trong một chủ thể, có thể lúc này là đối tác, lúc khác là đối tượng, trong điều kiện nhất định chúng lại chuyển hóa lẫn nhau. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Đảng ta xác định: những lực lượng chống phá mục tiêu của cách mạng nước ta; tiến hành chiến tranh xâm lược; “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chế độ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam đều là đối tượng tác chiến của Quân đội ta. Đối với Quân đội, phải luôn thấu triệt và thực hiện nghiêm phương châm chỉ đạo: kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế; có đối sách phù hợp với từng đối tượng, từng tình huống. Yêu cầu cấp ủy, chỉ huy các cấp, cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn nắm chắc tình hình, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, chiến thắng kẻ thù trong mọi tình huống. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với phần tử cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất cũng như các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng, truyền thống và các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, Quân đội. Như vậy, nhận rõ đối tượng, đối tác; âm mưu, thủ đoạn và kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một trong những tiêu chuẩn mới của đạo đức cách mạng, chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Bốn là, có ý chí quyết chiến, quyết thắng, động cơ phấn đấu đúng đắn, tâm huyết, tận tụy, trách nhiệm cao, gắn bó xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã khẳng định: ý chí quyết chiến, quyết thắng là một nét đặc trưng tiêu biểu của “Bộ đội Cụ Hồ”, được hun đúc bởi truyền thống hào hùng của dân tộc trong suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, không ngừng được tôi luyện qua các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Dù trong hoàn cảnh nào, ý chí quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn được thể hiện sâu sắc và triệt để, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Tinh thần quyết chiến, quyết thắng đã trở thành truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta, là đặc trưng tiêu biểu trong đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ”. Ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân tạo nên sức mạnh để Quân đội ta chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù. Từ mục tiêu lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của Quân đội và trong nhân cách của mỗi quân nhân đều thấm nhuần nguyên tắc “dĩ công vi thượng”; động cơ thôi thúc hành động duy nhất và vô cùng mạnh mẽ của mỗi cán bộ, chiến sĩ là vì lợi ích của Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Đó là kết quả giáo dục, rèn luyện của Đảng, là dấu ấn sâu đậm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình tổ chức xây dựng, giáo dục và rèn luyện Quân đội ta.

Trong giai đoạn hiện nay, nhiều thang giá trị xã hội đã và đang có sự thay đổi, lợi ích vật chất ngày càng chi phối, tác động đến động cơ, mục đích hoạt động của con người; nhận thức và quan niệm giữa cống hiến, hy sinh và hưởng thụ có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng với mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội, không đặt lợi ích vật chất, lợi ích cá nhân làm điều kiện tiên quyết cho việc thực thi nhiệm vụ của mình. Đó chính là động cơ phấn đấu đúng đắn, thúc đẩy mỗi quân nhân luôn yên tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ, tận tâm, tận lực với nghề nghiệp; đồng cam, cộng khổ; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không để Tổ quốc bị bất ngờ trong mọi tình huống. Động cơ phấn đấu đúng đắn, tâm huyết với nghề nghiệp, tận tụy, gắn bó xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện không chỉ là biểu hiện mới trong phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng, trong giá trị nhân cách “Bộ đội cụ Hồ” đã được lớp lớp thế hệ cha anh xây đắp, trao truyền cho thế hệ ngày nay, mà còn là yêu cầu nghiêm ngặt của nhiệm vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Năm là, có đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gương mẫu chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống khiêm tốn, trung thực, giản dị, chân thành của người quân nhân cách mạng là kết tinh những phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội cụ Hồ”, bản sắc văn hóa và truyền thống nhân văn, nhân ái, nghĩa tình, thủy chung của dân tộc Việt Nam, được phát triển và tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh. Nổi bật là, lối sống: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đề cao lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, nghiêm khắc với bản thân; nói đi đôi với làm; luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân; không ham danh lợi, tiền tài; không kèn cựa, đố kỵ, v.v. Dân chủ, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau là nét đẹp truyền thống, văn hóa của “Bộ đội cụ Hồ”, động lực để mỗi cán bộ, chiến sĩ vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đây cũng chính là nguyên tắc căn bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, xây dựng đạo đức cách mạng trong Quân đội nhân dân Việt Nam theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm5. Kỷ luật là sức mạnh của Quân đội ta; đồng thời là sự tuân thủ nghiêm ngặt, chính xác Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của Quân đội; mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên nhằm bảo đảm cho mọi hoạt động của Quân đội, từng đơn vị trên các lĩnh vực được chỉ huy, điều hành thống nhất, thông suốt, hiệu quả. Biểu hiện cao nhất của kỷ luật Quân đội là tự giác và nghiêm minh. Tính tự giác và sự nghiêm minh của kỷ luật Quân đội là sự thống nhất và quan hệ biện chứng với nhau. Bởi, có tự giác mới giữ nghiêm được kỷ luật; nhưng nếu chỉ nhấn mạnh đến tự giác mà không thấy tính chặt chẽ, nghiêm minh của kỷ luật thì sẽ dẫn đến tự do, tùy tiện; còn nếu coi nhẹ tính tự giác, chỉ đề cao sự nghiêm minh thì sự nghiêm minh ấy rất có thể biến thành hình thức, quan liêu, quân phiệt.

Quán triệt và thực hiện nghiêm các nguyên tắc cơ bản, những chỉ dẫn về thực hành, nêu gương về đạo đức trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng” của Người, nguyện phấn đấu xứng danh “Bộ đội cụ Hồ” trong thời kỳ mới là một trong những chủ trương, biện pháp quan trọng, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Phát huy truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng”, toàn quân quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; mẫu mực trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; gương mẫu, đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp. Đồng thời, xung kích trên mặt trận đấu tranh phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch; đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng, Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, gắn với các phong trào, các cuộc vận động của các cấp, các ngành, v.v. Đổi mới phương pháp, phong cách lãnh đạo, chỉ huy, theo phương châm: hướng về cơ sở, bám cơ sở, chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ, thống nhất; lựa chọn đúng, trúng khâu đột phá, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội cụ Hồ” trong tình hình mới.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam phải là một tấm gương sáng về học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước, nhân dân và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang6.

Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

_____________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 435.

2, 3 - Sđd, Tập 11, tr. 604, 602.

4 - Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 45

5 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 483.

6 - Sđd, Tập 11, tr. 601.