Thứ Ba, 1 tháng 8, 2023

Nếu chúng ta làm tốt việc giữ gìn kỷ luật, kỷ cương và hình ảnh, uy tín Bộ đội Cụ Hồ thì chính là đã nâng cao uy tín và bác bỏ các luận điệu xuyên tạc

 


“Phải đặc biệt giữ gìn, phát huy hình ảnh, uy tín của quân đội, giữ vững niềm tin yêu của nhân dân đối với quân đội. Muốn vậy, kỷ luật, kỷ cương phải nghiêm, quân đội phải làm gương cho các nơi khác”-đó là phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư, Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bí thư Quân ủy Trung ương) tại Hội nghị Quân ủy Trung ương phiên họp cuối năm 2017. Tinh thần chỉ đạo ấy đã và đang được thể hiện rất rõ qua việc xử lý sai phạm của một số cán bộ cao cấp trong quân đội thời gian gần đây…

Xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm

Việc Kỳ họp thứ 35 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương mới đây thông báo kết luận kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân và xem xét, thi hành kỷ luật một số cán bộ cấp cao ở Quân khu 9 không phải là những gì bất thường, đột biến mà chỉ là việc tiếp tục triển khai những chủ trương nhất quán, quyết liệt trong đấu tranh phòng, chống tiêu cực của Đảng, Nhà nước, Quân đội ta. Trước đó, năm 2018, một số cán bộ cấp cao quân đội, trong đó có cả tướng lĩnh đã phải chịu xử lý nghiêm minh theo pháp luật và kỷ luật của Đảng, Nhà nước và quân đội do có những sai phạm liên quan tới quản lý kinh tế, quản lý đất quốc phòng. Đây là những lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, bị nhiều tác động của mặt trái kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, không phải chỉ đến khi các cơ quan chức năng vào cuộc, những sai phạm mới được xử lý. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn chủ động, nghiêm túc, quyết liệt thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Các vụ việc được xử lý nghiêm túc, kịp thời nhận được sự tin tưởng, đồng tình của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về sự quyết tâm và hành động của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong quân đội, thể hiện trên mặt trận này không có “vùng cấm”, kể cả đối với lãnh đạo cấp cao, cán bộ đương chức hay đã nghỉ hưu, cán bộ là sĩ quan cao cấp và kể cả tướng lĩnh. Việc xử lý bảo đảm chặt chẽ trên cơ sở các quy định của pháp luật, nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; thông tin kịp thời, không bao che, bưng bít, nương nhẹ.

Việc xử lý sai phạm của cán bộ quân đội gần đây đã theo đúng Quy định 102 của Bộ Chính trị về xử lý đảng viên vi phạm, về thời hiệu xem xét xử lý kỷ luật, thời hiệu xem xét có thể là 5 năm, 10 năm, thậm chí dài hơn tùy theo mức độ sai phạm. Như vậy, không còn vùng cấm cả với những cán bộ đã chuyển công tác khác hay đã nghỉ hưu thì coi như “hạ cánh an toàn”, là một sự nghiêm túc về thực hiện trách nhiệm nêu gương, khắc phục tư duy nhiệm kỳ…

Thông qua việc xử lý góp phần làm trong sạch bộ máy, loại bỏ khỏi bộ máy những cán bộ thoái hóa biến chất; củng cố, nâng cao sức mạnh, sức chiến đấu của quân đội; trước hết là sự vững mạnh về chính trị.

Không để hiện tượng cá biệt làm ảnh hưởng bản chất truyền thống

Trước những sự việc xảy ra thời gian qua, từng có ý kiến đây đó trong dư luận đặt câu hỏi có hay không sự gia tăng tham nhũng, tiêu cực trong quân đội, trong lực lượng vũ trang (LLVT)? Có hay không sự suy thoái đến mức phổ biến, làm suy giảm sức chiến đấu, làm suy giảm niềm tin của nhân dân?

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, cùng với sự đau xót, nghiêm khắc rút ra những bài học đắt giá, chúng ta phải khẳng định một số sai phạm đó chỉ là những hiện tượng cá biệt. Việc xử lý nghiêm minh, kịp thời chính là sự thanh lọc, đẩy lùi những sai phạm cá biệt để Quân đội ta luôn trong sạch, vững mạnh, luôn xứng đáng với niềm tin cậy, yêu mến tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Trước những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, hiện tượng cán bộ có chức có quyền, kể cả cán bộ LLVT rơi vào một số sai phạm kinh tế, lợi ích nhóm là một thực tế đã xảy ra. Đây cũng là điều không tránh khỏi đối với quân đội ở nhiều quốc gia trên thế giới những năm gần đây. Nhiều năm nay, Trung Quốc là quốc gia rất quyết liệt trong chống tham nhũng trong quân đội với rất nhiều tướng lĩnh, cán bộ cao cấp bị xử lý. Năm ngoái, Tổng thống Philippines sa thải 20 sĩ quan cao cấp do tham nhũng. Ở nước Nga, Tổng thống Nga Vladimir Putin gần 10 năm qua luôn mạnh tay chống tham nhũng. Nhiều công ty thuộc quyền kiểm soát của Bộ Quốc phòng Nga đã bị kiểm tra, xử lý và nhiều lãnh đạo cấp cao, trong đó từng có 4 cán bộ cấp lãnh đạo bộ bị thôi chức do tham nhũng… Tại Ukraine, năm 2016, hai quan chức cấp cao trong Bộ Quốc phòng đã bị bắt vì tội biển thủ công quỹ liên quan đến mua sắm quốc phòng. Tại Mỹ, quốc gia được coi là có hệ thống pháp luật và cơ chế kiểm soát quyền lực nghiêm ngặt trong phòng ngừa tham nhũng, nhưng gần đây vẫn xảy ra nhiều vụ tham nhũng trong quân đội, điển hình là vụ một sĩ quan cao cấp trong lực lượng hải quân bị kết án 78 tháng tù vì tham nhũng, thừa nhận đã “nhận quà” của một nhà thầu quốc phòng nước ngoài để đổi lấy thông tin mật của hải quân Mỹ.

Đối với Quân đội ta, ngay từ những ngày đầu còn non trẻ, nhiều khó khăn, thiếu thốn, cũng đã có bài học đau xót, như vụ án Trần Dụ Châu. Trong khi bữa cơm của Bác Hồ và các chiến sĩ thời chống Pháp rất kham khổ thì Trần Dụ Châu và một số sĩ quan biến chất lại sống như những ông hoàng. Chính vì thế, ngay từ ngày đó, quan điểm của Đảng và Bác Hồ là phải xử lý rất nghiêm minh để làm gương. Ngày 5-9-1950 ở thị xã Thái Nguyên-thủ đô kháng chiến, Tòa án binh tối cao mở phiên tòa đặc biệt với 3 bị cáo hầu tòa là nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu và đồng bọn can tội “biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến”. Cửa vào phòng xử án có một bảng khẩu hiệu: “Nêu cao ánh sáng công lý trong quân đội”. Trong phòng xử án, trên tường có hai khẩu hiệu: “Quân pháp vô thân” và “Trừng trị để giáo huấn”. Phiên tòa xét xử công khai, bộ đội và nhân dân đến dự đông kín. Kết thúc phiên tòa, Trần Dụ Châu bị tuyên án tử hình, hai đồng phạm mỗi tên lãnh án 10 năm tù. Chỉ một ngày sau, Trần Dụ Châu bị thi hành án tử hình.

Ngay từ các khẩu hiệu của phiên tòa đã thể hiện quan điểm, tinh thần chống tham nhũng, tiêu cực trong Quân đội ta từ trước đến nay. Thông tin vụ án cũng được công khai kịp thời trên báo chí. Báo Cứu quốc đã có nhiều bài phản ánh về vụ án. Ngày 27-5-1950, báo đăng bài xã luận cho biết vụ án đã cho Chính phủ, Đoàn thể (Đảng) nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng, giáo dục và kiểm soát cán bộ để phục vụ tốt cho kháng chiến, kiến quốc... mặc dù có người e ngại, vì nếu công khai vụ án này sẽ làm cho dân chúng chê trách, kẻ địch lợi dụng để phản tuyên truyền, lợi ít, hại nhiều...

Nhìn từ vụ án Trần Dụ Châu, chúng ta càng thấm thía quan điểm sâu xa của Đảng, Bác Hồ trong giáo dục, rèn luyện Quân đội ta. Bác từng chỉ rõ: “Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua”. Lo ngại sự sa ngã của những cán bộ liên quan tới quản lý kinh tế trong quân đội, Bác từng căn dặn: “Các chú phải làm thế nào một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sĩ”.

Từ đó đến nay, các vụ việc liên quan tới tham nhũng, tiêu cực trong quân đội đều được xử lý nghiêm minh. Trong 33 số Báo Quân đội nhân dânxuất bản tại Mặt trận Điện Biên Phủ, có nhiều bài báo tường thuật việc tòa án binh mặt trận xét xử công khai cán bộ sai phạm và đăng thông tin ngay trên trang nhất.

Chính sự nghiêm minh đó càng làm cho quân đội giữ được niềm tin yêu trọn vẹn của nhân dân, coi quân đội là trường học lớn, là lực lượng mẫu mực với những con người được tôi luyện trong một môi trường nghiêm ngặt, tiêu biểu về bản lĩnh, đạo đức, ít lòng ham muốn vật chất, chấp nhận thiệt thòi, khó khăn, gian khổ, thậm chí sẵn sàng xả thân, hy sinh cho Tổ quốc. Cán bộ, chiến sĩ LLVT phần lớn ở nơi "đầu sóng ngọn gió", nơi tiền phương của Tổ quốc, nơi biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa; miệt mài với gian khổ hy sinh trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Bộ phận tham gia làm kinh tế, quản lý kinh tế chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ và những hiện tượng vi phạm như vừa qua cũng chỉ là cá biệt. Quân đội vẫn là đội quân tiên phong, gương mẫu, trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng, trước nhân dân; là thanh bảo kiếm, là nòng cốt, là lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng và chế độ XHCN.

Giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và hình ảnh quân đội anh hùng

Những câu chuyện ấy khiến chúng ta càng thấm thía hơn khi những ngày này, chúng ta đang kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Di chúc của Bác, có những câu Bác viết ngày nay được in ra treo ở hội trường của nhiều tổ chức Đảng: “Đảng ta là Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

Còn nhớ chuyện Bác Hồ từng giáo dục đồng chí Phùng Thế Tài khi mới là một trung đoàn trưởng. Biết chuyện đồng chí có một số sai phạm, Bác trực tiếp gặp gỡ, căn dặn: “Bây giờ chú là lính. Cách mạng phát triển, quân đội phát triển mai sau chú cố gắng, sẽ là “quan”, là “tướng”. Tướng mà tính nóng là hỏng việc; hai là, tính chú liều quá. Có Bác bên cạnh mà chú còn dám bắt gà, bắt ngựa của dân, sau này ra “hùng cứ một phương” chú sẽ còn làm nhiều điều sai trái, ai ngăn được chú? Lần này ra chiến đấu chú nhớ phải phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm”. Lời căn dặn của Bác Hồ giúp người trung đoàn trưởng sửa sai, tiến bộ, sau này trở thành một vị tướng nổi tiếng.

Theo PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), từ vụ việc một số cán bộ, tướng lĩnh cấp cao bị xử lý, chúng ta rút ra được rất nhiều bài học. Cán bộ cấp cao, tướng lĩnh, thậm chí là lãnh đạo cấp cao hơn nữa nếu không tu dưỡng thì cũng trở thành nạn nhân, tù binh của chính sự thoái hóa biến chất. Cha ông ta có câu: Tu thân, tề gia, trị quốc. Cho nên, bài học tự rèn luyện rất quan trọng. Cùng với đó, phải kiểm soát quyền lực thật tốt. Bác nói là kiểm tra, kiểm soát hành vi của mỗi người, nếu làm đúng thì biểu dương, sai thì nhắc nhở, “tuýt còi” để phòng ngừa. Nếu không làm tốt sẽ dẫn đến tình trạng vi phạm rồi mới phát hiện, mới lôi nhau ra xử phạt, kỷ luật. Còn đã sai phạm thì phải xử lý đến nơi đến chốn nhưng không coi trừng phạt là mục đích cuối cùng… mà chỉ là để giáo dục, với tinh thần chặt cành để cứu cây; để mỗi người và tập thể tiến bộ. Đó cũng là bài học để cùng với xử lý kiên quyết, nghiêm minh, Quân đội ta phải ngày càng hoàn thiện hơn cơ chế, chính sách để kiểm soát quyền lực, phòng ngừa sai phạm, quản lý chặt chẽ hơn cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền và tham gia các lĩnh vực liên quan đến kinh tế, tài chính, đất đai…

Chủ trì Hội nghị Quân ủy Trung ương đầu năm 2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cần xử lý kiên quyết, dứt điểm, quyết liệt hơn những tồn tại, hạn chế, nhất là những vụ việc tiêu cực trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng và nhấn mạnh: “Không sợ mất uy tín của quân đội và không sợ bị kẻ xấu lợi dụng, kích động, chống phá. Nếu chúng ta làm tốt thì chính là đã nâng cao uy tín và bác bỏ các luận điệu xuyên tạc”.

Với tinh thần đó, chúng ta tin tưởng rằng, việc xử lý nghiêm minh một số sự việc sai phạm vừa qua sẽ góp phần làm cho Quân đội ta xây dựng lực lượng trong sạch, vững mạnh toàn diện về mọi mặt; thực sự trở thành Đảng bộ mẫu mực, giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và hình ảnh Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, coi đây là danh dự thiêng liêng và cao quý. 

Toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ

 Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới

Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới.

Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai đoạn mới.


Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của sĩ quan trẻ Quân đội hiện nay trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

 

Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ trong Quân đội hiện nay


Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã và đang gây ra nhiều tác hại đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những biến thể của “diễn biến hòa bình”, với những biểu hiện, như: xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tham ô, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên,... trong đó có đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ là quá trình diễn ra trong nhận thức, tư tưởng, thái độ, tình cảm, hành vi của mỗi người theo chiều hướng tiêu cực, suy giảm và biến đổi về bản chất, đi ngược lại bản chất, truyền thống cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ là tổng thể hoạt động của tổ chức đảng, chỉ huy, đoàn thể trong Quân đội và các tổ chức chính trị - xã hội, thực hiện các chủ trương, biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, chính sách và luật pháp để ngăn chặn nguồn gốc, nguyên nhân và khắc phục biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở mỗi sĩ quan trẻ, góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ vững mạnh về mọi mặt, có lý tưởng, hoài bão phấn đấu vươn lên, khẳng định tài năng, trí tuệ trong thực tiễn.

Đội ngũ sĩ quan trẻ trong Quân đội là những người được đào tạo cơ bản, có nhiệt huyết trong công việc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống tốt. Tuy nhiên, do chưa trải nghiệm nhiều trong thực tiễn, nhất là những tình huống phức tạp, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, nên khi có tình huống xảy ra dễ lúng túng, mất phương hướng, dẫn đến mắc vào mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch. Nhận rõ điều đó, những năm qua, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội; thường xuyên quan tâm, chăm lo giáo dục, giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường, quan điểm, phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách lãnh đạo, chỉ huy, tạo sự chuyển biến tích cực góp phần nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đơn vị. Tuy nhiên, so với yêu cầu đề ra, việc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Một số chủ thể, lực lượng chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề này, còn có tư tưởng chủ quan, coi nhẹ, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với sĩ quan trẻ; nội dung, hình thức, biện pháp còn đơn điệu, thiếu đồng bộ, tính hiệu quả chưa cao. Do vậy, một số biểu hiện lệch chuẩn giá trị trong nhận thức và hành động của sĩ quan trẻ chưa được khắc phục kịp thời. Một bộ phận sĩ quan trẻ còn bị chi phối bởi những tiêu cực ngoài xã hội và sự kích động, chống phá của các thế lực thù địch, nên chưa tích cực, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, nhất là học tập chính trị; thiếu yên tâm xây dựng Quân đội, bản lĩnh chính trị chưa thật vững vàng, vi phạm vào quy định về những điều đảng viên không được làm, có biểu hiện xa rời thực tiễn, cơ sở, v.v.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao và toàn diện; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” đã đạt được những kết quả tích cực, song còn nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết. Trong khi đó, tác động từ mặt trái kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, khoét sâu vào những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,… đã tác động nhiều chiều đến sự phấn đấu, rèn luyện của đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Bởi vậy, việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ đang là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay; trong phạm vi bài viết, xin đề xuất một số nội dung, biện pháp sau đây: 

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ Quân đội hiện nay. Nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ luôn có vị trí quan trọng hàng đầu để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động phòng, chống với biểu hiện này. Nếu các chủ thể, lực lượng nhận thức không thống nhất, không xác định rõ trách nhiệm thì không thể phòng, chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Trong đó, cần tập trung nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức quần chúng, tổ chức chính trị - xã hội trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các chủ thể cần nhận thức rõ các biểu hiện, tác hại, nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nhìn nhận, đánh giá đúng thực trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ hiện nay; những vấn đề nổi lên cần quan tâm giải quyết, không để lây lan, kéo dài, chi phối đến tình hình chung toàn đơn vị. Trên cơ sở đó, xác định yêu cầu, biện pháp thiết thực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ ở các cơ quan, đơn vị trong Quân đội hiện nay.

Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Sĩ quan trẻ trong Quân đội sinh ra và lớn lên trong hoà bình, nhận thức, tư tưởng, tình cảm, nhu cầu, lợi ích, quan hệ xã hội có sự phát triển rất cao, song cũng rất đa dạng, phức tạp. Đặc biệt, họ chưa được rèn luyện, thử thách trước khi vào Quân đội nên dễ mắc phải những khuyết điểm, hạn chế về phẩm chất chính tri, đạo đức, lối sống, ý chí quyết tâm, sự hy sinh, cống hiến, trách nhiệm đối với Tổ quốc, gia đình và bản thân. Nếu không chủ động phòng ngừa những diễn biến tiêu cực về tâm lý, tư tưởng thì dễ xảy những hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống - nguyên nhân chính dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ. Để chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cần tích cực đổi mới nội dung, hình thức tiến hành phù hợp lứa tuổi trẻ, đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị, song phải toàn diện cả về công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác quản lý. Đối với công tác tư tưởng, tích cực đổi mới nội dung giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng; nắm, quản lý, phân tích, đánh giá, phân loại và giải quyết tư tưởng; dự báo xu hướng vận động của những tư tưởng tiêu cực dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ. Đối với công tác tổ chức, chú trọng vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Trong công tác quản lý, đổi mới hình thức, biện pháp quản lý các mối quan hệ xã hội, quản lý tư tưởng, phát huy dân chủ trong chấp hành kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy, môi trường văn hóa,... đảm bảo phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Bên cạnh đó, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với sĩ quan trẻ; tăng cường tổ chức các buổi tọa đàm, thông tin chuyên đề trên các phương tiện thông tin đại chúng; duy trì và phát huy tốt các hình thức thông báo chính trị, đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, truyền thanh nội bộ, góp phần nâng cao nhận thức về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để sĩ quan trẻ tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của mình.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp, các cơ quan chức năng đối với phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Quân đội chịu trách nhiệm lãnh đạo nhiệm vụ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ ở cơ quan, đơn vị mình; xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, được thể hiện trong nghị quyết lãnh đạo thường kỳ của cấp ủy, tổ chức đảng, kế hoạch công tác của người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và hoạt động của các tổ chức quần chúng. Cơ quan chính trị các cấp làm tốt chức năng tham mưu, đề xuất với đảng ủy cấp mình những chủ trương, biện pháp lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ; trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền thực hiện chủ trương, nghị quyết của đảng ủy cấp mình, sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chính trị cấp trên về nhiệm vụ quan trọng này. Với tư cách là người chủ trì về chính trị của đơn vị, chính ủy, chính trị viên trực tiếp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chính trị thuộc quyền, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên về chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ. Đồng thời, trực tiếp tiến hành các hình thức tuyên truyền, giáo dục, nói chuyện thời sự, báo cáo chuyên đề cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, nhân dân nơi đóng quân về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội theo cương vị, chức trách được giao.

Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giáo dục, tự rèn luyện của đội ngũ sĩ quan trẻ. Thông qua tự học, tự giáo dục, rèn luyện, đội ngũ sĩ quan trẻ củng cố thêm những kiến thức về pháp luật, kỷ luật Quân đội và các kiến thức cần thiết khác. Đồng thời, bồi đắp, cập nhật thêm nhiều kiến thức mới, giúp cho quân nhân không bị hụt hẫng, lạc hậu trước sự phát triển của thực tiễn và sự chống phá của các thế lực thù địch. Từ đó, bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống, ý thức chấp hành kỷ luật,… góp phần hình thành và phát triển bản lĩnh cho đội ngũ sĩ quan trẻ trước diễn biến phức tạp của tình hình. Vì vậy, cùng với sự giáo dục của tổ chức, đoàn thể, mỗi sĩ quan trẻ phải chủ động xây dựng cho mình kế hoạch, nội dung, biện pháp tự học tập, tự giáo dục, rèn luyện một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ đơn vị và chức trách của mỗi người. Thông qua những hoạt động đó, giúp cho đội ngũ sĩ quan trẻ đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu, nhận thức rõ quan điểm, tư tưởng sai trái, lệch lạc; tìm ra cách thức, biện pháp tự rèn luyện, tự học tập để phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiệu quả hơn. Để phát huy tính tích cực, tự giáo dục, tự rèn luyện của sĩ quan trẻ, cần chú trọng xây dựng động cơ đúng đắn, thái độ, trách nhiệm cao trong mọi hoạt động; quan tâm, định hướng, giúp sĩ quan trẻ xây dựng nội dung, kế hoạch, phương pháp tự học tập, rèn luyện một cách khoa học, phù hợp kế hoạch công tác chung của đơn vị; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, uốn nắn kịp thời những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, v.v.

Năm là, xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của sĩ quan trẻ. Trước hết, cần giải quyết hài hòa các mối quan hệ, ứng xử có văn hóa trong đơn vị theo đúng điều lệnh, điều lệ Quân đội; đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Cùng với đó, tổ chức tốt các hoạt động thi đua, khen thưởng gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” và các phong trào, cuộc vận động khác; chú trọng nhân rộng điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”, mô hình sáng tạo, hiệu quả

Dể nhân rộng và phát huy. Đồng thời, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần; nhu cầu về đọc báo, đọc sách, văn hóa, văn nghệ, xem phim, thể dục - thể thao, chế độ nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho sĩ quan trẻ. Những nhu cầu chính đáng đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm, chăm lo giải quyết hài hòa, thỏa đáng, vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị, hợp tình, hợp lý, không máy móc, cứng nhắc. Trên cơ sở đó, khơi dậy, động viên tinh thần, góp phần ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phòng, chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ sĩ quan trẻ trong Quân đội hiện nay.Bài 1. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên

Cần phải khẳng định rằng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.

Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tiến tới du nhập tư tưởng, lý luận phi mác-xít, sẵn sàng "trở cờ" phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường khác phi xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một số người. Nhận thức đó có thể bắt nguồn từ những vấn đề còn chưa tỏ tường về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp với sự xuất hiện những thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, như người "đứng giữa ngã ba đường".

Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng, bởi nó vừa thể hiện tính cách mạng triệt để, vừa phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Giải pháp bảo vệ nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 Một là, dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng.

Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là thực tiễn như Mác đã từng nói “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(2). Không một lý thuyết nào có thể đứng vững nếu lý thuyết đó không giúp làm thay đổi thực tiễn theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Cũng như vậy, với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, trong điều kiện mới của đất nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng ngày càng được khẳng định bằng chính thực tiễn sinh động của Việt Nam.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, giáo dục và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thứ tín ngưỡng hay giáo điều cứng nhắc, mà là một học thuyết mang tính mở, sáng tạo, gắn liền với sự phát triển của thực tiễn, hay nói cách khác, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Muốn bảo vệ một cách đúng nghĩa nhất phải thực sự sử dụng vũ khí tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải phát huy sức mạnh thế giới quan và phương pháp luận của nền tảng tư tưởng trong hoạt động thực tiễn, nghĩa là phải có ích cho việc phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề của thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải được nuôi dưỡng, bổ sung và phát triển bằng thực tiễn cuộc sống. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là để vận dụng vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nói cách khác, thực tiễn hằng ngày chính là nguồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, tách rời thực tiễn đất nước khỏi nền tảng tư tưởng vừa khiến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên giáo điều, vừa làm chậm quá trình phát triển bền vững của đất nước.

Ba là, phê phán nền tảng tư tưởng của thế lực thù địch và phản động.

Nhiều nhà tư tưởng phương Tây, từ các góc độ của mình đã tập trung phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều khía cạnh khác nhau.

Bên cạnh việc thảo luận học thuật, chống lại các luận điệu sai trái, thù địch, việc chống lại các nền tảng tư tưởng của các luận điệu sai trái đó, đấu tranh với các hệ tư tưởng thấm đẫm trong các trào lưu chính trị cũng là một việc làm hết sức quan trọng. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần quan tâm và đấu tranh với các hình thức cực đoan của các loại chủ nghĩa khác, như chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân tộc dân túy, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa đế quốc,... Cụ thể, chủ nghĩa tự do mới phản đối sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, cực đoan hóa vai trò của thị trường tự do, quá thiên về chủ nghĩa cá nhân; chủ nghĩa dân tộc dân túy cực đoan hoá chủ nghĩa dân tộc, đe dọa đến hòa bình và thịnh vượng chung…Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vốn được đúc kết từ tinh hoa trí tuệ dân tộc và nhân loại, vì vậy phải được sử dụng để đối thoại với các trào lưu tư tưởng tiến bộ hiện nay, để hấp thụ, chuyển hóa và sử dụng những giá trị hợp lý phục vụ cho dân tộc và cộng đồng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không tách rời kho tàng trí tuệ nhân loại, không quay lưng với thế giới, không “một mình một kiểu”. Chủ nghĩa Mác - Lênin không xa lạ với những giá trị của thế giới phương Tây đương đại, như tôn trọng nhân phẩm, tôn trọng tự do, bình đẳng, dân chủ, bác ái, bao dung,... vì những giá trị này cũng chính là những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chúng ta không nên chỉ tập trung vào những điểm khác biệt của chủ nghĩa Mác - Lênin so với các học thuyết khác mà còn phải nhìn thấy những điểm tương đồng, dù cho cách tiếp cận có thể khác nhau. Có như vậy, chúng ta mới có thể xuất phát từ cao độ của chủ nghĩa Mác - Lênin để lý giải các học thuyết khác, phê phán và tiếp thu các học thuyết ấy nhằm làm phong phú thêm cho hệ tư tưởng mácxít và giải quyết tốt hơn những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Phòng, chống việc lợi dụng CNTT để tung tin thất thiệt, bịa đặt các tình tiết về các vụ án hòng "câu view", "câu like"

 Công nghệ viễn thông phát triển là cơ hội để truyền thông lan tỏa, đó là một trong những điều kiện để mở rộng dân chủ. Thế nhưng hiện nay, một số cá nhân đã lợi dụng vấn đề này để tung tin thất thiệt, bịa đặt các tình tiết về các vụ án hòng "câu view", "câu like", hướng lái dư luận và mục đích cụ thể, thực dụng hơn cả là kiếm tiền từ trên mạng. Chẳng hạn khi mở trang Youtube, gõ từ khóa “vụ án Hồ Duy Hải”, người dùng sẽ thấy xuất hiện hàng trăm clip liên quan đến vụ án. Trong số ấy có nhiều video clip với những thông tin kiểu dựng chuyện, bịa chuyện, trộn lẫn thật với giả khiến cho người xem như lạc vào mê cung, không thể phân biệt được đâu là thông tin đúng, đâu là thông tin sai. Cũng có những video clip lợi dụng các tình tiết của vụ án để bôi nhọ, nói xấu người này, chĩa mũi dùi vào người khác. Nghe các câu, từ bình luận trong clip, những người ít thông tin cứ ngỡ tác giả của video clip là những “nhà điều tra” tội phạm thực thụ, hoặc chí ít họ cũng có những “nguồn thông tin đáng tin cậy” như họ nói. Nhưng thực ra những người làm ra các video clip này hầu hết chỉ là những kẻ lừa bịp về truyền thông trên mạng xã hội. Tất cả thông tin mà họ đăng tải đều là do cóp nhặt trên mạng, kết hợp với sự bình luận bạt mạng, vô căn cứ, hoàn toàn theo ý chủ quan của bản thân người làm ra sản phẩm video clip. Hình ảnh trong các video clip này hầu hết là hình ảnh tĩnh mà họ nhặt nhạnh từ đâu đó, rồi gán ghép bằng những lời bình luận vô lối. Những trang mạng mang màu sắc phản động và có sự thù địch với Việt Nam, như: Việt Tân, BBC, RFA... thì có thêm các đoạn “phỏng vấn” truyền thanh một vài nhân vật đang có thiên hướng, hoặc đã từng thực hiện các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, hòng làm ra vẻ sản phẩm của mình là “vô tư”, là “minh bạch”. Nhưng xâu chuỗi các video clip của họ lại thì thấy rõ, họ luôn hướng lái người nghe/xem đến mục tiêu chính trị, đó là xuyên tạc tính ưu việt của chế độ XHCN, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội Việt Nam. Hầu hết nhân vật trong các video clip của các trang mạng nói trên đều cố “bày trò”, ra vẻ “vì sự dân chủ, công bằng”, nhưng cuối các đoạn phỏng vấn, bao giờ họ cũng lòi “cái đuôi cáo” về chính trị của mình ra.

Bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản chính là xuất phát từ bản chất cách mạng và vai trò của giai cấp ấy.

 Đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân nên vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản cũng xuất phát từ bản chất cách mạng và vai trò của giai cấp ấy.

Khi phân tích về các giai tầng trong xã hội từ khi giai cấp công nhân xuất hiện, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, trong tất cả các giai cấp tồn tại cùng với giai cấp công nhân, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp hội đủ các yếu tố của một giai cấp lãnh đạo xã hội. Chỉ có giai cấp công nhân mới đủ sức cầm ngọn cờ cách mạng định hướng cho con đường đi của lịch sử nhân loại. Điều này không phải là mong muốn của chủ quan của giai cấp công nhân hay nguyện vọng của C.Mác như nhiều quan điểm lập luận. Sở dĩ giai cấp công nhân có được vai trò và sứ mệnh ấy bởi lẽ, giai cấp công nhân có sự khác biệt với tất cả các giai tầng khác về địa vị trong phương thức sản xuất, về tính tổ chức, tính kỷ luật và hệ tư tưởng.

Giai cấp công nhân ra đời và phát triển trong nền công nghiệp hiện đại với phương thức lao động đặc trưng là gắn liền với dây chuyền máy móc, sản xuất tập trung, theo chu trình khép kín. Chính điều này làm cho giai cấp công nhân có tính kỷ luật chặt chẽ. Tính kỷ luật chặt chẽ làm cho giai cấp công nhân thống nhất được hành động, thống nhất được lợi ích, qua đó thống nhất được nhận thức, tư tưởng. Nói cách khác, khi nhận thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân được hình thành. Hệ tư tưởng đã trở thành vũ khí trong cuộc đấu tranh giải phóng chính giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần lao trên phạm vi toàn thế giới. Trong lịch sử, một giai cấp chỉ khẳng định được vai trò lãnh đạo của mình nếu có hệ tư tưởng. Nếu không có hệ tư tưởng thì các phong trào cách mạng chỉ có tính chất tự phát, tạm thời, kiểu “lửa rơm chóng tắt”(4), chứ không thể “lay chuyển những khối quần chúng đông đảo, những dân tộc trọn vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn trong mỗi dân tộc”(5), “đến chỗ tiến hành những hành động lâu dài đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại”(6).


Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là vấn đề hệ trọng, là mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân

 Kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, gây tâm lý hoài nghi, bất an, thậm chí mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Có thể khẳng định rằng, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, những mặt trái trong xã hội thời gian qua đạt được nhiều kết quả tích cực, lấy lại niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Rõ ràng, đây là vấn đề hệ trọng, là mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nên không thể vội vàng, mắc sai lầm. Nhưng cũng vì thế mà không thể “chùng xuống”, không thể thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, thực hiện, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp…

Có như vậy, mới thấy rằng, cuộc đấu tranh này là không có “vùng cấm”, không loại trừ bất kỳ ai vi phạm pháp luật; qua đó tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, mới giúp cả nước đồng lòng, quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần đẩy mạnh công bằng xã hội, giúp đất nước phát triển tích cực, vững bền…

Báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin về các mặt tích cực, tốt đẹp trong xã hội

 Xây dựng, thiết lập hệ thống các giải pháp tuyên truyền đồng bộ, sát hợp, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng góp phần nhận diện, chủ động đấu tranh sớm, kịp thời, hiệu quả trước các hình thức, phương thức tấn công, phá hoại xấu xa của các thế lực thù địch.

Các cơ quan báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin về các mặt tích cực, tốt đẹp trong xã hội tránh tình trạng mất cân bằng thông tin, khiến các thế lực thù địch, phản động dựa vào đó vu khống rằng bộ mặt đất nước quá nhiều gam màu xám, thiếu những tươi mới, phấn khởi… Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí cần tăng cường đáng kể thời lượng cho các chuyên mục đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng…

Bên cạnh đó, cần thiết phải hình thành, duy trì hoạt động hiệu quả các trang thông tin trên mạng xã hội, nhất là trên mạng xã hội Facebook được tổ chức khoa học, bài bản, với đội ngũ phụ trách chuyên nghiệp, có nghề nhằm kịp thời, chủ động nhận diện, đấu tranh bài bản, khoa học, xác đáng, thuyết phục, hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động xấu xa của các thế lực thù địch, phản động, từ việc viết bài đăng trên các phương tiện truyền thông xã hội nhằm xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, bôi xấu các lãnh đạo cấp cao, nhằm gây chia rẽ nội bộ; đến những việc như kêu gọi tụ tập, kích động biểu tình, chống phá; gây hấn, lăng nhục, chửi bới vô cớ, phạm pháp… để khiêu khích chính quyền, lực lượng chức năng “trấn áp” và quay video clip, chụp ảnh, lives tream để vu oan cho chính quyền…

Thứ sáu, cần kịp thời phát hiện, nhận diện để đấu tranh, can thiệp, nghiêm trị những phần tử phá hoại núp dưới danh nghĩa “yêu nước”, “nhân quyền”, “công bằng” để kích động, tạo lập các mầm mống gây bạo loạn, lật đổ… trên tất cả các phương diện, hình thức khác nhau, từ không gian mạng, đến các vụ việc cụ thể trong đời sống.

Phải khu biệt, cô lập, xác định đúng đối tượng phản động, phá hoại, kích động, chủ mưu trong từng vụ việc, cũng như đã cố tình vi phạm cả thời gian dài một cách có hệ thống để đưa ra xét xử trước pháp luật những phần tử chống phá, những kẻ nhân danh “lòng yêu nước”, “vì dân chủ”, “vì công bằng”, nhất là hai tổ chức phản động ở nước ngoài đã được Bộ Công an Việt Nam đưa vào danh sách các tổ chức khủng bố là Việt Tân và “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”…

Rõ ràng, chỉ có bị nghiêm trị trước pháp luật, các phần tử, những kẻ cố tình chống phá cách mạng nước ta mới giác ngộ, nhụt chí, từ bỏ sự phá hoại điên cuồng, ngu muội, cùng đường, vô lối...

Sự nghiêm trị của pháp luật cũng góp phần cảnh tỉnh, răn đe các đối tượng bất mãn, thiếu hiểu biết, tham lam mù quáng… không bước chân vào con đường tội lỗi, góp phần tàn phá chính đất nước, đồng bào mình.

THẾ GIỚI VẤN ĐỀ-SỰ KIỆN: SỰ CẤM VẬN CỦA PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI NGA LIỆU CÓ ỔN?

         Kể từ thời Liên Xô, châu Âu đã quen với việc sống sung túc với cái giá phải trả là các nguồn tài nguyên rẻ tiền của LX.. Người ta có thể nói, Liên Xô đã cung cấp dầu, khí đốt, kim loại, gỗ và nhiều thứ khác cho những người châu Âu hài lòng với “giá hời”. Công nghiệp Châu Âu phát đạt, các nước giàu lên, nhìn chung người Châu Âu ăn ngon ngủ yên.
LX tan rã, tình hình vẫn không có gì thay đổi. Yeltsin, theo sự dẫn dắt của người Mỹ và để làm hài lòng châu Âu, đã tiếp tục chính sách bán rẻ lợi ích quốc gia với hơn 750 hiệp ước “Phân chia sản phẩm” (phải cho đến s2 nhiệm kỳ Tổng thống, Putin mới loại bỏ hết cái trò ăn cướp tài nguyên khoáng sản Nga thông qua cái gọi là “Phân chia sản phẩm” này), phương Tây tiếp tục nhận nguyên liệu thô giá rẻ từ Nga.
Trong khi đó, Phương Tây đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Nga từ thời Xô Viết, không có gì thay đổi sau những năm 90, nhưng họ yêu cầu nguồn cung cấp tài nguyên giá rẻ của Nga không bị gián đoạn. Và họ đã nhận được chúng!
Nhưng một khi cái gì cũng đến hồi kết, hay nói cách khác, cái gì cũng có giới hạn.
Chính họ thực sự muốn “thoát khỏi sự phụ thuộc của Nga, ngăn Putin kiếm tiền”, để cách ly Nga khỏi một thứ gì đó. OK! Mơ được ước thấy, nguyên liệu thô giá rẻ, vốn là nền tảng của ngành công nghiệp châu Âu, sẽ không còn tồn tại...
Sự khôn lõi, trịch thượng, xảo quyệt của PT ở chỗ là họ đã phủ lên Nga cả đống gói lệnh trừng phạt, nhưng các quan chức châu Âu vẫn “quên đưa vào” một điều gì đó, đặc biệt là việc xuất khẩu gỗ và gỗ xẻ từ Nga vẫn không được họ chú ý.
Trò chơi trịch thượng này khiến Nga nổi điên, tuyên bố “vì mày đã quyết định loại bỏ mọi thứ của tao, thì mày phải đi đến cùng...” Nga ngố quyết định tăng thuế đối với gỗ lên 80% và chỉ để lại hai trạm kiểm soát xuất khẩu gỗ.
Ngay lập tức bắt đầu la hét, cầu xin và thậm chí đe dọa từ EU. Các quan chức đã tính toán và nhận ra rằng với nhiệm vụ như vậy, các công ty chế biến gỗ của họ sẽ đứng trước bờ vực phá sản.
Rừng cháy, giá gỗ đang tăng lên. Chi phí sản xuất cuối cùng cũng tăng lên, các nhà máy bắt đầu đóng cửa, công nhân đổ ra đường. Đó là, các cuộc biểu tình và bạo loạn đang đến.
Và châu Âu bắt đầu đe dọa phạt Nga vì không tuân thủ các quy định của WTO (theo họ, mức phí không được vượt quá 15-20%).
Trước lời đe dọa, Matxcova tuyên bố rằng từ lâu luật pháp quốc tế chỉ mang tính chất tư vấn đối với Nga. Hiến pháp năm 1993 do các chuyên gia Mỹ thiết kế thời Yeltsin không còn mà thay vào đó là HP Nga năm 2020, theo đó, mọi thứ luật quốc tế không phù hợp với Luật Nga là vứt. LB Nga không từ chối cung cấp gỗ cho châu Âu, nhưng chỉ với giá của Nga. Thế thôi. Còn WTO? Để các ngài dùng nhé.
Sắp tới Chính phủ Nga sẽ thực hiện quyết định của Tổng thống Nga Putin, sẽ thanh toán ngũ cốc bằng đồng rub như đã từng với khí đốt. Ai không mua, khí, ngũ cốc bằng rub thì rét và đói ráng chịu. Hãy dùng Iphone, bảng tính mà ngấu nghiến và sưởi ấm.
Trước tình hình diễn biến này, có những người vận động hành lang vì lợi ích của châu Âu bên trong đất nước Nga, những người bắt đầu giảng dạy cho chính phủ Nga, rằng vì Nga không rút khỏi WTO, do đó Nga phải tuân thủ các quy tắc - thuế không quá 20%. Nhưng những người vận động hành lang bày tỏ sự không hài lòng trong phạm vi rất hẹp, không dám công khai nói chuyện với Chính phủ Nga. Có lẽ vì họ còn nhớ Ngoại trưởng Lavrov đã từng nói với người châu Âu - EU: Mày là ai mà lên giọng đạo đức với tao!... thì họ chỉ là con tép.
Bây giờ, với FSB, đây là thời điểm rất tốt để tìm ra tất cả những kẻ nghiệp dư thân Mỹ và thân phương Tây để “làm sạch” xã hội và các cơ quan quan liêu của chúng ta khỏi những kẻ như vậy./.
Yêu nước ST.

CHỈ RÕ ÂM MƯU THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Xây dựng, thiết lập hệ thống các giải pháp tuyên truyền đồng bộ, sát hợp, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng góp phần nhận diện, chủ động đấu tranh sớm, kịp thời, hiệu quả trước các hình thức, phương thức tấn công, phá hoại xấu xa của các thế lực thù địch.

Các cơ quan báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin về các mặt tích cực, tốt đẹp trong xã hội tránh tình trạng mất cân bằng thông tin, khiến các thế lực thù địch, phản động dựa vào đó vu khống rằng bộ mặt đất nước quá nhiều gam màu xám, thiếu những tươi mới, phấn khởi… Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí cần tăng cường đáng kể thời lượng cho các chuyên mục đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng…

Bên cạnh đó, cần thiết phải hình thành, duy trì hoạt động hiệu quả các trang thông tin trên mạng xã hội, nhất là trên mạng xã hội Facebook được tổ chức khoa học, bài bản, với đội ngũ phụ trách chuyên nghiệp, có nghề nhằm kịp thời, chủ động nhận diện, đấu tranh bài bản, khoa học, xác đáng, thuyết phục, hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động xấu xa của các thế lực thù địch, phản động, từ việc viết bài đăng trên các phương tiện truyền thông xã hội nhằm xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, bôi xấu các lãnh đạo cấp cao, nhằm gây chia rẽ nội bộ; đến những việc như kêu gọi tụ tập, kích động biểu tình, chống phá; gây hấn, lăng nhục, chửi bới vô cớ, phạm pháp… để khiêu khích chính quyền, lực lượng chức năng “trấn áp” và quay video clip, chụp ảnh, lives tream để vu oan cho chính quyền…

Thứ sáu, cần kịp thời phát hiện, nhận diện để đấu tranh, can thiệp, nghiêm trị những phần tử phá hoại núp dưới danh nghĩa “yêu nước”, “nhân quyền”, “công bằng” để kích động, tạo lập các mầm mống gây bạo loạn, lật đổ… trên tất cả các phương diện, hình thức khác nhau, từ không gian mạng, đến các vụ việc cụ thể trong đời sống.

Phải khu biệt, cô lập, xác định đúng đối tượng phản động, phá hoại, kích động, chủ mưu trong từng vụ việc, cũng như đã cố tình vi phạm cả thời gian dài một cách có hệ thống để đưa ra xét xử trước pháp luật những phần tử chống phá, những kẻ nhân danh “lòng yêu nước”, “vì dân chủ”, “vì công bằng”, nhất là hai tổ chức phản động ở nước ngoài đã được Bộ Công an Việt Nam đưa vào danh sách các tổ chức khủng bố là Việt Tân và “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”…

Rõ ràng, chỉ có bị nghiêm trị trước pháp luật, các phần tử, những kẻ cố tình chống phá cách mạng nước ta mới giác ngộ, nhụt chí, từ bỏ sự phá hoại điên cuồng, ngu muội, cùng đường, vô lối...

Sự nghiêm trị của pháp luật cũng góp phần cảnh tỉnh, răn đe các đối tượng bất mãn, thiếu hiểu biết, tham lam mù quáng… không bước chân vào con đường tội lỗi, góp phần tàn phá chính đất nước, đồng bào mình.

KIÊN QUYẾT ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG


Kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, gây tâm lý hoài nghi, bất an, thậm chí mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Có thể khẳng định rằng, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, những mặt trái trong xã hội thời gian qua đạt được nhiều kết quả tích cực, lấy lại niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Rõ ràng, đây là vấn đề hệ trọng, là mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nên không thể vội vàng, mắc sai lầm. Nhưng cũng vì thế mà không thể “chùng xuống”, không thể thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, thực hiện, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp…

Có như vậy, mới thấy rằng, cuộc đấu tranh này là không có “vùng cấm”, không loại trừ bất kỳ ai vi phạm pháp luật; qua đó tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, mới giúp cả nước đồng lòng, quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần đẩy mạnh công bằng xã hội, giúp đất nước phát triển tích cực, vững bền…


Về vai trò của đội ngũ trí thức


Bên cạnh giai cấp công nhân, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là V.I.Lênin đã nhìn thấy vai trò to lớn của nông dân và trí thức trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Họ là đồng minh, là lực lượng cách mạng, là lực lượng vật chất của giai cấp công nhân. Nhưng với những hạn chế từ chính bản thân các giai tầng này, do phương thức lao động quy định, do vai trò trong hệ thống sản xuất xã hội và không có hệ tư tưởng, các giai tầng này không thể giữ vai trò lãnh đạo xã hội. V.I.Lênin cho rằng: “so với giai cấp công nhân thì giới trí thức bao giờ cũng có nhiều tính chất cá nhân chủ nghĩa hơn, ấy là do những điều kiện cơ bản của đời sống và công tác của họ không cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp và rộng rãi, không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức”(7). Chính từ đặc điểm này, V.I.Lênin luôn luôn cảnh báo về thái độ thờ ơ chính trị của đội ngũ trí thức. Người viết: “Người trí thức cấp tiến, người trí thức xã hội chủ nghĩa rất dễ biến thành quan lại của chính phủ nhà vua, thành một anh quan lại tự an ủi rằng ở trong nếp cũ quan trường, mình cũng “có ích” và viện “sự có ích” đó để bào chữa cho thái độ lãnh đạm của mình đối với chính trị, bào chữa cho tính nô lệ của mình trước cái chính phủ roi vọt”(8).

Khi nói về vai trò của trí thức, trong tác phẩm tác phẩm Làm gì, V.I.Lênin khẳng định: “Công nhân trước đây không thể có ý thức dân chủ - xã hội được. Ý thức này chỉ có thể từ bên ngoài đưa vào. Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng chỉ do lực lượng của độc bản thân mình thôi thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công liên chủ nghĩa... Còn học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phát sinh ra từ lý luận triết học, lịch sử, kinh tế, do những người có học thức trong giai cấp hữu sản, những trí thức xây dựng nên”(9). Khi đề cập đến vấn đề này, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, việc hình thành hệ tư tưởng của giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được thông qua vai trò của trí thức - những người đứng ở đỉnh cao tri thức nhân loại.

Tuy nhiên, theo V.I.Lênin, trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà là một tầng lớp (đội ngũ) trung gian trong xã hội, hoạt động trong lĩnh vực lao động trí óc (sản xuất tinh thần là chủ yếu), trí thức không có hệ tư tưởng độc lập mà phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp mà họ phục vụ. Với tư cách là một tầng lớp đặc biệt và ở trong một thể chế chính trị cụ thể, trí thức nói chung là của giai cấp thống trị, do hệ thống giáo dục và đường lối đào tạo của nhà nước, của thể chế chính trị ấy tạo ra. Đội ngũ này tự giác hoặc không tự giác phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Quá trình đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm cho trí thức phân hóa thành những bộ phận khác nhau. Những bộ phận đó sẽ ngả theo lực lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác. Điều này cũng có nghĩa rằng, trí thức không phải là “siêu giai cấp”, “đứng trên mọi giai cấp” như quan niệm của các học giả tư sản, mà theo V.I.Lênin, “Nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi”(10). Do đó, trí thức chỉ có thể chứng tỏ mình là một lực lượng xã hội thực sự khi gắn bó chặt chẽ và được sự ủng hộ của một giai cấp, tầng lớp nào đó trong xã hội. Theo nghĩa đó, trí thức không thể là đội ngũ lãnh đạo xã hội.

Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, trong giai đoạn đầu của cách mạng vô sản, phần lớn những người trí thức đứng về phía giai cấp tư sản, bảo vệ những quan điểm, lập trường tư sản, phản ánh những lợi ích của giai cấp tư sản. Cùng với thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, tầng lớp trí thức ngày càng nhận rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và tìm thấy lợi ích của mình trong cuộc đấu tranh chung đó. Vì thế, ngày càng nhiều trí thức đi theo giai cấp công nhân, ủng hộ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Ngày nay, trí thức càng có vai trò to lớn trong cách mạng khoa học công nghệ. Với những phát minh, sáng chế của trí thức, quá trình sản xuất vật chất của công nhân và nông dân đã có thay đổi căn bản, góp phần thay đổi sức sản xuất của xã hội, tạo ra sự phát triển vượt bậc của thời đại mới về cả giá trị vật chất và tinh thần cho nhân loại. Tuy nhiên, với những đặc điểm cơ bản nêu trên, trí thức không phải là đội ngũ lãnh đạo xã hội.


 

Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản


Đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân nên vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản cũng xuất phát từ bản chất cách mạng và vai trò của giai cấp ấy.

Khi phân tích về các giai tầng trong xã hội từ khi giai cấp công nhân xuất hiện, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, trong tất cả các giai cấp tồn tại cùng với giai cấp công nhân, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp hội đủ các yếu tố của một giai cấp lãnh đạo xã hội. Chỉ có giai cấp công nhân mới đủ sức cầm ngọn cờ cách mạng định hướng cho con đường đi của lịch sử nhân loại. Điều này không phải là mong muốn của chủ quan của giai cấp công nhân hay nguyện vọng của C.Mác như nhiều quan điểm lập luận. Sở dĩ giai cấp công nhân có được vai trò và sứ mệnh ấy bởi lẽ, giai cấp công nhân có sự khác biệt với tất cả các giai tầng khác về địa vị trong phương thức sản xuất, về tính tổ chức, tính kỷ luật và hệ tư tưởng.

Giai cấp công nhân ra đời và phát triển trong nền công nghiệp hiện đại với phương thức lao động đặc trưng là gắn liền với dây chuyền máy móc, sản xuất tập trung, theo chu trình khép kín. Chính điều này làm cho giai cấp công nhân có tính kỷ luật chặt chẽ. Tính kỷ luật chặt chẽ làm cho giai cấp công nhân thống nhất được hành động, thống nhất được lợi ích, qua đó thống nhất được nhận thức, tư tưởng. Nói cách khác, khi nhận thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân được hình thành. Hệ tư tưởng đã trở thành vũ khí trong cuộc đấu tranh giải phóng chính giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần lao trên phạm vi toàn thế giới. Trong lịch sử, một giai cấp chỉ khẳng định được vai trò lãnh đạo của mình nếu có hệ tư tưởng. Nếu không có hệ tư tưởng thì các phong trào cách mạng chỉ có tính chất tự phát, tạm thời, kiểu “lửa rơm chóng tắt”(4), chứ không thể “lay chuyển những khối quần chúng đông đảo, những dân tộc trọn vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn trong mỗi dân tộc”(5), “đến chỗ tiến hành những hành động lâu dài đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại”(6).


Về bản chất giai cấp công nhân của đảng cộng sản


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đảng cộng sản ra đời từ đòi hỏi tất yếu của sự phát triển giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là tổ chức của những con người ưu tú từ phong trào cách mạng, nơi hội tụ mọi ước nguyện của sự giải phóng và giá trị tốt đẹp. Với sứ mệnh đó, đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân.

Như đã phân tích, giai cấp công nhân mang trong mình thuộc tính bản chất của giai cấp cách mạng. Đó là giai cấp có tính kỷ luật chặt chẽ, giai cấp tiên tiến, tiên phong, triệt để, nhân văn, nhân đạo sâu sắc... Do vậy, đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân chính là đảng mang những thuộc tính bản chất của giai cấp ấy.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, trong các giai tầng xã hội, giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất nên những đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân sẽ có môi trường tốt để rèn luyện trưởng thành nhanh hơn so với các giai tầng xã hội khác, chứ không phải các giai tầng khác không thể rèn luyện những phẩm chất của giai cấp cách mạng. Nhưng điều này cũng có nghĩa là không phải bất kỳ ai xuất thân từ giai cấp công nhân cũng đương nhiên là người cách mạng nhất. Mỗi người công nhân phải có quá trình rèn luyện mình để trưởng thành, từ việc nhận thức về vai trò, trách nhiệm đến nhận thức sứ mệnh; từ việc vươn lên thành giai cấp dân tộc đến trở thành dân tộc.

Cũng theo nghĩa đó, khi đã trở thành đảng viên của đảng cộng sản, mang trong mình bản chất của giai cấp cách mạng thì đều có thể trở thành lãnh đạo của Đảng. Điều này cũng bác bỏ một số quan điểm cho rằng, đảng mang bản chất của giai cấp công nhân mà nhiều lãnh đạo của đảng cộng sản không xuất thân từ giai cấp công nhân. Quan niệm như vậy là máy móc, siêu hình, không hiểu được nội hàm “bản chất giai cấp công nhân của đảng”.


Căn cứ khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.


Có thể nói, C.Mác và Ph.Ăngghen luận giải sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân xuất phát từ cơ sở xác định vai trò của các giai cấp trong lịch sử. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp, ở mỗi thời đại lịch sử, các giai cấp có vai trò khác nhau đối với lịch sử của mỗi dân tộc và lịch sử thế giới. Giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho lực lượng sản xuất mới thì thúc đẩy sự phát triển của dân tộc, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhân loại. Ngược lại, giai cấp lỗi thời, bảo thủ, phản động thì kìm hãm sự phát triển của lịch sử.

Khi còn là giai cấp cách mạng, giai cấp tư sản đã có vai trò to lớn đối với sự phát triển của CNTB ở mỗi nước và đối với lịch sử thế giới. Chính giai cấp tư sản đã phá bỏ thành lũy phong kiến, thúc đẩy sự thống nhất giữa các dân tộc; nêu ra tư tưởng về sự giải phóng con người trong cách mạng tư sản; tạo ra của cải vật chất to lớn cho CNTB và nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên, khi giai cấp tư sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nó đã bộc lộ tính chất lỗi thời, phản động sâu sắc, tác động to lớn, kìm hãm sự phát triển của các dân tộc và lịch sử thế giới. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc xuất hiện đã dẫn đến thời kỳ của sự áp bức, nô dịch các dân tộc trên thế giới, mà bản chất của chủ nghĩa đế quốc chính là sự phản động cùng cực của giai cấp tư sản.

Khi giai cấp tư sản đã bộc lộ tính chất lỗi thời, phản động thì việc một giai cấp xuất hiện để phủ định nó, nhằm giải phóng áp bức giai cấp, áp bức xã hội, áp bức con người là điều tất yếu. Như vậy, sự xuất hiện của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan. Giai cấp công nhân mang đầy đủ thuộc tính của giai cấp cách mạng.

Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày về nguồn gốc ra đời của giai cấp công nhân. Về nguồn gốc kinh tế, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng sự ra đời của giai cấp công nhân gắn với nền công nghiệp hiện đại, từ mục đích phát triển quy mô sản xuất và tích lũy tư bản của nhà tư sản. Về nguồn gốc xã hội, giai cấp công nhân được tuyển mộ từ trong tất cả các giai cấp, tầng lớp của xã hội.

Đặc trưng chủ yếu của giai cấp công nhân là không có tư liệu sản xuất, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản, địa vị xã hội là người làm thuê và bị bóc lột; giai cấp công nhân là hiện thân của lực lượng sản xuất hiện đại, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần quốc tế trong sáng, cao cả, có tính tổ chức, kỷ luật cao, có tình đoàn kết giai cấp...

C.Mác và Ph.Ăngghen dựa trên cơ sở địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân để luận chứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp đó, chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của bất kỳ một cá nhân hoặc một lực lượng xã hội nào. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, chế độ TBCN đã từng chiến thắng chế độ phong kiến bởi vì giai cấp tư sản đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, đại diện cho phương thức sản xuất mới, đại diện cho nhân tố mới trong thực tiễn xã hội đang mục ruỗng, lạc hậu của chế độ phong kiến. Và giai cấp công nhân chính là một lực lượng mới trong xã hội tư bản, là sản phẩm của nền đại công nghiệp, là lực lượng sản xuất tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Chính vì vậy, C.Mác đã đặt ra “Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”(1).

Nói về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen viết, “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(2). Chính vì bị đẩy xuống đáy tận cùng của nấc thang xã hội, giai cấp công nhân trở thành nơi hội tụ của những khao khát được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột mà tất cả những người lao động có thể gửi gắm ủy thác. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân có quyền nhân danh lợi ích toàn xã hội để đứng ra tập hợp các giai cấp, các tầng lớp bị áp bức, bóc lột, những phần tử tiên tiến trong cuộc đấu tranh đó. Cuộc đấu tranh ấy được bắt đầu ngay từ khi giai cấp công nhân ra đời, trải qua nhiều giai đoạn phát triển từ tự phát đến tự giác, cuối cùng kết thúc bằng cuộc cách mạng XHCN, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo tất cả những người lao động dùng bạo lực lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, “giai cấp tư sản không những đã rèn nên vũ khí sẽ giết nó mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những người công nhân hiện đại, những người vô sản”(3).


Lên án mạnh mẽ những kẻ lấy mạng xã hội làm tấm bình phong

 

Công nghệ viễn thông phát triển là cơ hội để truyền thông lan tỏa, đó là một trong những điều kiện để mở rộng dân chủ. Thế nhưng hiện nay, một số cá nhân đã lợi dụng vấn đề này để tung tin thất thiệt, bịa đặt các tình tiết về các vụ án hòng "câu view", "câu like", hướng lái dư luận và mục đích cụ thể, thực dụng hơn cả là kiếm tiền từ trên mạng. Chẳng hạn khi mở trang Youtube, gõ từ khóa “vụ án Hồ Duy Hải”, người dùng sẽ thấy xuất hiện hàng trăm clip liên quan đến vụ án. Trong số ấy có nhiều video clip với những thông tin kiểu dựng chuyện, bịa chuyện, trộn lẫn thật với giả khiến cho người xem như lạc vào mê cung, không thể phân biệt được đâu là thông tin đúng, đâu là thông tin sai. Cũng có những video clip lợi dụng các tình tiết của vụ án để bôi nhọ, nói xấu người này, chĩa mũi dùi vào người khác. Nghe các câu, từ bình luận trong clip, những người ít thông tin cứ ngỡ tác giả của video clip là những “nhà điều tra” tội phạm thực thụ, hoặc chí ít họ cũng có những “nguồn thông tin đáng tin cậy” như họ nói. Nhưng thực ra những người làm ra các video clip này hầu hết chỉ là những kẻ lừa bịp về truyền thông trên mạng xã hội. Tất cả thông tin mà họ đăng tải đều là do cóp nhặt trên mạng, kết hợp với sự bình luận bạt mạng, vô căn cứ, hoàn toàn theo ý chủ quan của bản thân người làm ra sản phẩm video clip. Hình ảnh trong các video clip này hầu hết là hình ảnh tĩnh mà họ nhặt nhạnh từ đâu đó, rồi gán ghép bằng những lời bình luận vô lối. Những trang mạng mang màu sắc phản động và có sự thù địch với Việt Nam, như: Việt Tân, BBC, RFA... thì có thêm các đoạn “phỏng vấn” truyền thanh một vài nhân vật đang có thiên hướng, hoặc đã từng thực hiện các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, hòng làm ra vẻ sản phẩm của mình là “vô tư”, là “minh bạch”. Nhưng xâu chuỗi các video clip của họ lại thì thấy rõ, họ luôn hướng lái người nghe/xem đến mục tiêu chính trị, đó là xuyên tạc tính ưu việt của chế độ XHCN, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội Việt Nam. Hầu hết nhân vật trong các video clip của các trang mạng nói trên đều cố “bày trò”, ra vẻ “vì sự dân chủ, công bằng”, nhưng cuối các đoạn phỏng vấn, bao giờ họ cũng lòi “cái đuôi cáo” về chính trị của mình ra.

 

Hãy cảnh giác và làm thất bại thủ đoạn của các thế lực thù địch


Xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ XHCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng là mục tiêu không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch. Dù không mới nhưng âm mưu, thủ đoạn để thực hiện mục tiêu của chúng thì ngày càng tinh vi hơn. Lợi dụng phản biện xã hội (PBXH), xem PBXH là "chiêu bài" để chống phá Đảng, Nhà nước là một trong những thủ đoạn như thế.

Những người mang động cơ xấu, nhằm mục đích chống phá đất nước không bày tỏ quan điểm theo quy trình tổ chức và các kênh chính thống. Các đối tượng triệt để lợi dụng ưu thế của internet, nhất là mạng xã hội (MXH) để tiến hành các hoạt động chống phá núp dưới danh nghĩa PBXH. Dưới sự giật dây của các thế lực thù địch, một số phần tử cơ hội trong nước và cả ở nước ngoài đã soạn ra các văn bản dưới dạng “tâm thư”, “thư ngỏ”, “thư góp ý” (cả chính danh, nặc danh và mạo danh); thậm chí họ còn soạn hẳn một dự thảo văn kiện mới, hoàn toàn khác với dự thảo văn kiện chính thống được công bố... để thể hiện những ý kiến trái ngược với quan điểm của Đảng, Nhà nước rồi gửi đến các đồng chí lãnh đạo. Với kiểu lập luận của họ, thông qua các câu từ bóng bẩy, chau chuốt... thoáng qua người ta dễ lầm tưởng đó là những "ý kiến tâm huyết", "những đóng góp chân thành"... Nhưng thực chất, trước khi những “tâm thư”, “thư ngỏ”, “thư góp ý”... kia được gửi đi thì nó đã được các đối tượng đưa lên MXH. Để minh họa cho những quan điểm sai trái đã nêu, núp dưới chiêu bài PBXH, họ dựng chuyện, tung ra nhiều thông tin thất thiệt, tuyên truyền xuyên tạc, nhằm gây nhiễu loạn thông tin, kích động, gây áp lực, gieo rắc tâm lý hoài nghi, gây bất ổn trong dư luận.

Trên không gian mạng, họ lập ra các hội, nhóm trá hình, sau đó tuyên truyền vận động, lôi kéo những người thiếu bản lĩnh, nhẹ dạ cả tin tham gia. Thông qua đó, họ khơi gợi các thành viên trong từng hội, nhóm theo danh nghĩa PBXH nêu những quan điểm, ý kiến trái chiều, nhưng thực chất là tuyên truyền xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; kích động tư tưởng, thái độ chống đối. Đặc biệt, trước những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, như: Dân tộc, tôn giáo, môi trường, chủ quyền biển, đảo... họ sử dụng các hội, nhóm và những đối tượng đã được móc nối, nuôi dưỡng đội lốt PBXH đưa lên MXH hàng loạt quan điểm, ý kiến đi ngược lại với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Họ mưu toan phát triển đưa các hội, nhóm trên không gian mạng thành tổ chức, hoạt động dưới dạng câu lạc bộ tự do, hòng từ đó biến hoạt động PBXH trở thành một trào lưu làm méo mó thực tiễn.

Ngoài sử dụng những đối tượng PBXH đã được móc nối, để chống phá Việt Nam lâu dài, các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam rất quan tâm đến việc gieo mầm, nuôi dưỡng, phát triển lực lượng phản biện mới. Đối tượng PBXH trong giới trẻ và cán bộ, đảng viên, công chức... được họ đặc biệt để mắt. Cùng với tài trợ về tài chính, họ còn hướng dẫn nội dung, kế hoạch hoạt động liên kết thành mạng lưới. Khi xuất hiện những quan điểm đi ngược chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trên không gian mạng, thì ngay lập tức họ huy động lực lượng "chân rết" vào bình luận, chia sẻ, tung hô... Họ thường đánh tráo khái niệm giữa ý kiến PBXH chính thống được Đảng, Nhà nước ta tiếp thu, với những giọng điệu tuyên truyền chống phá; hoặc đánh đồng giữa những người có ý kiến khác với những đối tượng cơ hội chính trị, lợi dụng PBXH để gây bất ổn trong dư luận. Vì thế, khi một số đối tượng lợi dụng PBXH để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Nhà nước bị đưa ra xử lý trước pháp luật thì họ cho rằng Việt Nam “đàn áp người bất đồng chính kiến”, “vi phạm quyền tự do ngôn luận”... rồi từ đó kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp.

Thực tế cho thấy nhận thức về PBXH của nhân dân ta còn có những khoảng trống. Do vậy, muốn làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng PBXH để chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, chúng ta cần đặt lên hàng đầu việc tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về hoạt động PBXH. Có như vậy mới giúp người dân hiểu đúng mục đích, ý nghĩa của công việc hệ trọng này, phân biệt được đâu là PBXH tích cực, đâu là PBXH tiêu cực, từ đó đề cao cảnh giác, chủ động phát hiện, kịp thời đấu tranh với những hành vi lợi dụng PBXH để chống phá.

Vai trò định hướng để hoạt động PBXH diễn ra đúng mục đích, ý nghĩa và đem lại hiệu quả tích cực của các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan chức năng là rất quan trọng. Cùng với phát huy tốt vai trò định hướng, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp cần quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp nhân dân được tiếp cận thông tin, nghiên cứu, thể hiện quan điểm, chính kiến của mình đối với từng nội dung liên quan tới đường lối, chủ trương, chính sách, thể chế... tác động trực tiếp đến quyền lợi của người dân.

Đối với từng người dân, khi tiếp cận với những thông tin, tài liệu, nhất là những nội dung thuộc quan điểm về các vấn đề hệ trọng, nhạy cảm của đất nước tán phát trên MXH, cần phải tỉnh táo nhận diện đâu là thông tin tốt, đâu là thông tin xấu, đâu là thông tin có cơ sở khách quan, đâu là thông tin xuyên tạc. Nâng cao hiểu biết, tự trang bị cho mình những kiến thức cần thiết là cách tốt nhất để mỗi người nâng cao "sức đề kháng", tránh bị cuốn theo những giọng điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch.

Đi đôi với mở rộng dân chủ, tổ chức chặt chẽ hoạt động PBXH tích cực, cần làm tốt việc nắm bắt, tổng hợp, tiếp thu ý kiến của nhân dân để trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định. Trong tổng hợp và ghi nhận những ý kiến đóng góp của nhân dân, các cơ quan chức năng cần có sự đánh giá, phân tích kỹ lưỡng, thận trọng, không để kẻ xấu lợi dụng PBXH để thực hiện những mục đích đen tối.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần tiến hành chặt chẽ, lấy phòng là chính nhưng cũng phải kiên quyết đấu tranh để vừa bảo vệ, vừa ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong nội bộ, lợi dụng PBXH để thực hiện những động cơ, mục đích không trong sáng. Đặc biệt, cần quan tâm quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là lớp trẻ để bồi dưỡng xây dựng những nhân tố tích cực, kịp thời phát hiện những tư tưởng, hành động sai trái. Đối với những cán bộ, đảng viên, công chức thoái hóa biến chất về chính trị lợi dụng PBXH tiếp tay cho các thế lực thù địch, cần xử lý kịp thời, nghiêm minh. Cần coi trọng công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm m­ưu, thủ đoạn lợi dụng hoạt động PBXH để tuyên truyền, xuyên tạc chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Các lực lượng chức năng cần chủ động phát hiện những hội, nhóm, cá nhân lợi dụng PBXH để tuyên truyền, tán phát những quan điểm sai trái trên MXH, từ đó có biện pháp kiên quyết đấu tranh. Đối với những trang mạng lợi dụng PBXH để tuyên truyền theo kiểu xuyên tạc, kích động chống phá Nhà nước Việt Nam, âm mưu làm mất ổn định chính trị ở Việt Nam thì cần tổ chức lực lượng phối hợp với các nhà mạng, kết hợp giữa biện pháp kỹ thuật với biện pháp hành chính để đấu tranh ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. 

 

Nhận thức đúng hiệu quả tích cực từ phản biện xã hội

 

Theo cách hiểu phổ quát, phản biện xã hội (PBXH) là sự tương tác, giao thoa qua lại về quan điểm, tư duy của các lực lượng, thành phần trong xã hội trước những vấn đề thuộc chủ trương, chính sách, thể chế... có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các thành viên trong xã hội. Thông qua việc lắng nghe, tiếp thu những ý kiến phản biện xác đáng, có cơ sở khoa học mà các chủ trương, chính sách, thể chế... của cộng đồng ngày càng phù hợp, đáp ứng tốt hơn với những đòi hỏi của thực tiễn.

Thực tế cho thấy, trước mỗi kỳ đại hội đảng, mỗi lần sửa đổi Hiến pháp, ban hành các đạo luật hay trước các sự kiện lớn, những vấn đề hệ trọng của đất nước... Đảng và Nhà nước ta đều công bố rộng rãi các văn kiện dự thảo, đưa ra quan điểm, chủ trương... để lấy ý kiến thảo luận, đóng góp của toàn dân. Đại đa số nhân dân có ý thức trách nhiệm cao, luôn coi mỗi đợt đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo các văn kiện là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và hưởng ứng tích cực. Các cơ quan chức năng luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân tiếp cận sớm, hướng dẫn người dân nghiên cứu, bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về từng nội dung trong dự thảo các văn kiện và những vấn đề quan trọng. Các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị tổ chức hàng trăm hội nghị, hội thảo, tọa đàm... nhằm tạo điều kiện để người dân có cơ hội bày tỏ quan điểm. Hằng ngày, hằng giờ, mọi người dân đều có thể tiếp nhận thông tin và phản ánh quan điểm, ý kiến của mình qua hàng trăm xuất bản phẩm báo chí in, báo điện tử, đài phát thanh, truyền hình từ Trung ương đến địa phương.

Tất cả ý kiến dù đồng thuận hay không đồng thuận đều được cơ quan chức năng tổng hợp báo cáo với Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ để xem xét quyết định. Theo tinh thần ấy, để nâng cao chất lượng xây dựng các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh việc phát huy dân chủ, lắng nghe, trân trọng các ý kiến đóng góp của nhân dân, nhất là của các chuyên gia, nhà khoa học có kiến thức chuyên sâu về từng lĩnh vực... chắt lọc để nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các dự thảo văn kiện. Chính nhờ mở rộng dân chủ, phát huy tinh thần PBXH của toàn dân mà các văn kiện của Đảng, Nhà nước ta đều thể hiện sự kết tinh giữa ý Đảng với lòng dân, được sự đồng thuận trong xã hội và sớm đi vào cuộc sống.

Thực tế chứng minh, để hoạt động PBXH đi đúng hướng, theo đúng ý nghĩa tích cực thì việc bày tỏ các quan điểm, nêu ý kiến đóng góp phải theo đúng quy trình, trên nền tảng khoa học, với thái độ khách quan, đặc biệt là phải đặt lợi ích của cộng đồng, lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết. Thế nhưng, trên thực tế đã có không ít người lợi dụng hoạt động PBXH để mưu mô cơ hội, phản biện kiểu phủ nhận sạch trơn, với các quan điểm hoàn toàn không vì lợi ích của cộng đồng, lợi ích của đất nước. Những quan điểm này càng trở nên nguy hiểm khi được các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá. Hãy cảnh giác và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. 


NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG BỐI CẢNH MỚI


Một là, dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng.

Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là thực tiễn như Mác đã từng nói “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(2). Không một lý thuyết nào có thể đứng vững nếu lý thuyết đó không giúp làm thay đổi thực tiễn theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Cũng như vậy, với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, trong điều kiện mới của đất nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng ngày càng được khẳng định bằng chính thực tiễn sinh động của Việt Nam.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, giáo dục và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thứ tín ngưỡng hay giáo điều cứng nhắc, mà là một học thuyết mang tính mở, sáng tạo, gắn liền với sự phát triển của thực tiễn, hay nói cách khác, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Muốn bảo vệ một cách đúng nghĩa nhất phải thực sự sử dụng vũ khí tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải phát huy sức mạnh thế giới quan và phương pháp luận của nền tảng tư tưởng trong hoạt động thực tiễn, nghĩa là phải có ích cho việc phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề của thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải được nuôi dưỡng, bổ sung và phát triển bằng thực tiễn cuộc sống. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là để vận dụng vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nói cách khác, thực tiễn hằng ngày chính là nguồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, tách rời thực tiễn đất nước khỏi nền tảng tư tưởng vừa khiến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên giáo điều, vừa làm chậm quá trình phát triển bền vững của đất nước.

Ba là, phê phán nền tảng tư tưởng của thế lực thù địch và phản động.

Nhiều nhà tư tưởng phương Tây, từ các góc độ của mình đã tập trung phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều khía cạnh khác nhau.

Bên cạnh việc thảo luận học thuật, chống lại các luận điệu sai trái, thù địch, việc chống lại các nền tảng tư tưởng của các luận điệu sai trái đó, đấu tranh với các hệ tư tưởng thấm đẫm trong các trào lưu chính trị cũng là một việc làm hết sức quan trọng. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần quan tâm và đấu tranh với các hình thức cực đoan của các loại chủ nghĩa khác, như chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân tộc dân túy, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa đế quốc,... Cụ thể, chủ nghĩa tự do mới phản đối sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, cực đoan hóa vai trò của thị trường tự do, quá thiên về chủ nghĩa cá nhân; chủ nghĩa dân tộc dân túy cực đoan hoá chủ nghĩa dân tộc, đe dọa đến hòa bình và thịnh vượng chung…Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vốn được đúc kết từ tinh hoa trí tuệ dân tộc và nhân loại, vì vậy phải được sử dụng để đối thoại với các trào lưu tư tưởng tiến bộ hiện nay, để hấp thụ, chuyển hóa và sử dụng những giá trị hợp lý phục vụ cho dân tộc và cộng đồng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không tách rời kho tàng trí tuệ nhân loại, không quay lưng với thế giới, không “một mình một kiểu”. Chủ nghĩa Mác - Lênin không xa lạ với những giá trị của thế giới phương Tây đương đại, như tôn trọng nhân phẩm, tôn trọng tự do, bình đẳng, dân chủ, bác ái, bao dung,... vì những giá trị này cũng chính là những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chúng ta không nên chỉ tập trung vào những điểm khác biệt của chủ nghĩa Mác - Lênin so với các học thuyết khác mà còn phải nhìn thấy những điểm tương đồng, dù cho cách tiếp cận có thể khác nhau. Có như vậy, chúng ta mới có thể xuất phát từ cao độ của chủ nghĩa Mác - Lênin để lý giải các học thuyết khác, phê phán và tiếp thu các học thuyết ấy nhằm làm phong phú thêm cho hệ tư tưởng mácxít và giải quyết tốt hơn những vấn đề do thực tiễn đặt ra.