Thứ Ba, 1 tháng 8, 2023

Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội theo tinh thần cuốn sách của Tổng Bí thư

Ngày 18/7/2023, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật giới thiệu cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cuốn sách gồm 39 bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Bí thư Quân ủy Trung ương về quan điểm chỉ đạo, phương hướng, giải pháp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Một trong những nội dung được Tổng Bí thư nhắc đến khá nhiều trong cuốn sách là kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Đây là một quan điểm chỉ đạo rất quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng trong Quân đội nói riêng và bảo vệ nền tửng tư tưởng của Đảng trong Quân đội nói chung.

Thực chất âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội

Thuật ngữ “phi chính trị hóa” quân đội xuất hiện vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Đó là một trong những nội dung quan trọng mà các thế lực thù địch nhắm vào các nước xã hội chủ nghĩa. Xu hướng đòi “phi chính trị hóa” Quân đội ban đầu xuất hiện ở các nước xã hội chủ nghĩa, trước tiên là Liên Xô, Đông Âu, sau đó lan sang cả Việt Nam. Luận điệu chủ yếu mà các thế lực thù địch thường đưa ra là: “Quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị, không chịu sự lãnh đạo, chi phối của bất cứ chính đảng, lực lượng chính trị nào”, hay “Quân đội do nhà nước nuôi dưỡng nên chỉ phục tùng nhà nước, không phục tùng đảng phái nào”(1).

Gần đây, khi Đảng ta đưa ra chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, các thế lực thù địch đã xuyên tạc, quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng “quân đội hiện đại”, “quân đội nhà nghề”. Từ đó, các thế lực thù địch cho rằng “không có quân đội nhà nghề nào lại do một đảng chính trị lãnh đạo”; cho nên “cần phải tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của đảng”(2). Đây là những luận điệu rất nguy hiểm, không thể coi thường, xem nhẹ.

Trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Thực chất, “phi chính trị hóa” Quân đội là thủ đoạn cực kỳ nham hiểm của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta, tách rời Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho Quân đội không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước ta”(3).

Sở dĩ Tổng Bí thư coi đây là “thủ đoạn cực kỳ nhan hiểm” bởi các thế lực thù địch đã thực hiện thành công âm mưu này ở Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội ở Liên Xô, các thế lực thù địch đã sớm cài cắm các phần tử phản động vào các cơ quan của Đảng Cộng sản khiến cho từ năm 1987, Liên Xô bắt đầu thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội.

Đầu tiên là việc Đảng Cộng sản Liên Xô tự xóa bỏ cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội. Chỉ trong khoảng 2 năm (1987-1989), gần 50% cán bộ chiến lược của quân đội, 30% tướng lĩnh bị sa thải hoặc tự ý rời bỏ hàng ngũ. Hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch, chiến lược bị cách chức với lý do “không ủng hộ cải tổ”. Năm 1990, Đại hội bất thường của Đảng Cộng sản Liên Xô tiếp tục “tự trói tay mình” với việc từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội đã ghi trong Hiến pháp, chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Chỉ đợi có thế, tháng 7/1991, Tổng thống Liên bang Nga ra sắc lệnh “phi đảng hóa” và cấm các đảng chính trị hoạt động trong các cơ quan nhà nước. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô ra lệnh buộc mọi quân nhân là đảng viên cộng sản phải trả thẻ đảng... Bi kịch “phi chính trị hóa” xảy ra đã khiến quân đội Xô Viết - một quân đội hùng mạnh từng đánh bại chủ nghĩa phát xít, với gần 4 triệu quân thường trực, vũ khí trang bị rất hiện đại bỗng chốc mất phương hướng chiến đấu dẫn đến “thảm họa chính trị” tất yếu vào năm 1991.

Trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”, nhiều lần Tổng Bí thư nhắc lại sự kiện này như một lời cảnh tỉnh đối với chúng ta trong việc không được coi thường, xem nhẹ âm mưu “phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch: “Bài học từ Liên Xô và các nước Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta”; hay “Bài học đắt giá về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu cho đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị”(4). Đây chính là điểm nhấn quan trọng trong cuốn sách và đây cũng chính là quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong việc kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội.

Kiên quyết đấu tranh với âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội

Trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”, Tổng Bí thư cũng phân tích rõ bối cảnh quốc tế, trong nước tác động đến tính hình chính trị, tư tưởng trong Quân đội và đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục tăng cường đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo: các thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; tình hình biển Đông ngày càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động sâu sắc đến nhiều quốc gia trên nhiều phương diện khác nhau…

Ở trong nước, mặc dù sau 35 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhưng tốc độ tăng trưởng chưa cao, chưa vững chắc; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ, sĩ quan Quân đội vẫn còn nan giải… Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ra sức thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội. Do đó, cần phải kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá đó để tiếp tục bảo vệ Đảng, Nhà nước, Quân đội.

Quan điểm chỉ đạo về đấu tranh với âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội được Tổng Bí thư nhắc đến nhiều lần trong các bài viết như “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi và sự trưởng thành, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam”, “75 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng vững bước dưới lá cờ vinh quang của Đảng”, “Nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”… Trong các bài viết, Tổng Bí thư cũng đưa ra các giải pháp để kiên quyết đấu tranh, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Những giải pháp đó là:

Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội. Như đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội được khẳng định ngay từ khi Quân đội thành lập, thông qua một cơ chế, phương thức chặt chẽ, phù hợp, đảm bảo cho Quân đội thực sự là “tổ chức quân sự của Đảng”, luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân”(5). Do đó, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn kiên định với nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội. Nếu tách rời sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội sẽ mất phương hướng chiến đấu, phân rã về chính trị, tư tưởng, tổ chức, không còn sức mạnh để chiến đấu chống lại những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Hai là, tập trung nâng cao chất lượng tổ chức và hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị trong Quân đội, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội. Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, làm tốt công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội”(6). Theo đó, cần làm tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, hướng dẫn công tác đảng, công tác chính trị để nâng cao nhận thức, ý thức đấu tranh, khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, trong đó có âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Quan tâm và tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, khắc phục những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc, góp phần giữ vững bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ” trong tình hình mới.

Ba là, phát huy vai trò của công tác thông tin, tuyên truyền, báo chí, xuất bản để tuyên truyền, định hướng nhận thức, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, chiến sĩ thấy rõ sự nguy hiểm của âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội; chủ động thông tin tích cực, kịp thời nhằm định hướng tư tưởng, nhận thức trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm góp phần nâng cao sức đề kháng, tinh thần cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ. Các cơ quan báo chí, truyền thông cũng cần chú trọng hơn nữa đến việc tuyên truyền, định hướng thông tin kịp thời cho cán bộ, chiến sĩ, tránh để những “khoảng trống” thông tin khiến các thế lực thù địch có cơ hội xuyên tạc, dẫn dắt thông tin nhằm mục đích chống phá.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải luôn nhận thức đầy đủ và sâu sắc bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam là đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam và có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Mục tiêu chiến đấu của Quân đội cũng chính là mục tiêu, lý tưởng của Đảng - vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên, sĩ quan quân đội phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén và kiên quyết đấu trnh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Đồng thời, nhanh chóng, tỉnh táo, kịp thời xử lý những tình huống bất ngờ, phức tạp diễn ra trong thực tiễn theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và quy định của Quân đội, không để kẻ địch lợi dụng, lôi kéo, thao túng vào các hoạt động chống phá.

Có thể khẳng định, “phi chính trị hóa” Quân đội là một âm mưu thâm độc, nguy hiểm, không thể coi thường, xem nhẹ vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và liên quan đến bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Những quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” vừa là một lời cảnh báo, nhắc nhở song cũng là chỉ đạo, định hướng cho mỗi chúng ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch.

Đẩy lùi thái độ thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp để giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo (KNTC) của công dân. Bởi KNTC là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, được pháp luật bảo vệ.

Tuy nhiên, tình trạng đơn thư KNTC sai sự thật vẫn chiếm tỷ lệ lớn (hơn 50%), thậm chí còn phổ biến hiện tượng đơn thư nặc danh, sai sự thật, vu khống người khác gây ra nhiều hệ lụy đối với xã hội.

KNTC đúng có giá trị rất lớn, giúp cơ quan chức năng phát hiện, xử lý kịp thời những cá nhân, tập thể sai phạm, bảo đảm kỷ cương phép nước. Thông qua giải quyết KNTC, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật, từ đó để ngày càng hoàn thiện hơn.

Tuy nhiên, ở khía cạnh ngược lại, việc KNTC sai sự thật, thậm chí KNTC vu khống với mục đích cá nhân không trong sáng lại gây ra rất nhiều hệ lụy cho xã hội. Hệ lụy dễ nhận thấy nhất là bất ổn về an ninh, chính trị, trật tự xã hội, kìm hãm sự phát triển mọi mặt. Nội dung đơn thư sai sự thật gây lãng phí thời gian, công sức và chi phí cho các cơ quan chức năng vào cuộc xác minh giải quyết, cũng như của chính người KNTC. Nguy hiểm hơn cả là những nội dung KNTC vu khống với mục đích nhằm hạ bệ, làm mất uy tín của người khác, lan truyền ra dư luận những điều không đúng sự thật. Khi cơ quan chức năng vào cuộc xác minh, dù kết luận là không đúng, nó cũng khiến người bị KNTC ảnh hưởng rất nhiều. Có những người không thể chịu nổi sức ép dư luận dù điều đó hoàn toàn sai. Không ít trường hợp cứ đến những kỳ chuẩn bị nhân sự đại hội, bầu cử, quy hoạch... lại xuất hiện đơn thư tố cáo nặc danh hoặc tố cáo sai sự thật.

Xã hội văn minh không chấp nhận kiểu KNTC chủ ý sai sự thật hay vu khống người khác, bởi tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Để hạn chế tình trạng đơn thư KNTC sai sự thật, cần tuyên truyền cho mọi công dân trong xã hội hiểu biết, nâng cao kiến thức về pháp luật và có ý thức thượng tôn pháp luật. Thượng tôn pháp luật cũng có nghĩa là tôn trọng quyền nhân thân, quyền lợi của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội và cao nhất là tôn trọng sự thật. Khi có hiểu biết pháp luật thì công dân mới nhận thức được việc mình làm, nhận thức được đúng-sai khi thực hiện quyền KNTC của mình. Trên thực tế, vẫn còn hiện tượng nhiều người dân không nắm vững các quy định của pháp luật, hiểu sai và vận dụng sai trong thực tiễn thi hành, đòi hỏi quá mức quyền lợi của mình trong khung khổ luật pháp.

Đối với những trường hợp KNTC sai sự thật, vu khống, xúc phạm người khác, kích động, đánh tráo dư luận... với động cơ mang tính cá nhân cần được xử lý nghiêm khắc theo đúng các quy định của pháp luật. Theo Điều 156, Bộ luật Hình sự 2015, người thực hiện hành vi vu khống tùy vào mức độ vi phạm pháp luật mà bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 7 năm tùy từng trường hợp. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý cá nhân tố cáo sai sự thật ở nước ta vẫn còn xem nhẹ, hiếm khi bị áp dụng đúng chế tài pháp luật nên chưa có tính răn đe. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng đơn thư tố cáo sai sự thật, tố cáo vượt cấp không giảm, tính chất ngày càng phức tạp. Nhiều chuyên gia luật pháp cho rằng, đối với trường hợp cố ý tố cáo sai sự thật có dấu hiệu tội phạm cần đề nghị chuyển cơ quan chức năng để điều tra, truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hệ thống pháp luật của chúng ta với mục đích bảo vệ quyền của công dân thì việc xử lý nghiêm những trường hợp KNTC sai sự thật, vu khống cũng nhằm bảo vệ quyền của công dân khác trong một xã hội bình đẳng, thượng tôn pháp luật. Vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng là hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi nghiêm luật pháp. Bởi suy cho cùng, luật pháp là hành lang điều chỉnh các hiện tượng, các mối quan hệ và các vấn đề xã hội. Khi luật pháp nghiêm minh, hiện tượng KNTC sai sự thật, vu khống sẽ giảm.

Đẩy lùi thái độ thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng XHCN là một hệ thống những quan niệm phản ánh nhu cầu, ước mơ, nguyện vọng của các giai cấp lao động về một xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều bình đẳng và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; là những thành tựu của con người đạt được trong quá trình đấu tranh giải phóng giai cấp; là chế độ xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều được tự do, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện.

Nhìn từ góc độ bản chất, niềm tin CNXH chính là niềm tin khoa học, phát triển trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, gắn bó chặt chẽ với hoạt động của những người cộng sản. Trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, những người cộng sản luôn phấn đấu vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại, nhân dân lao động, vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. Do đó, xét đến cùng, niềm tin CNXH mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc, là sự thống nhất và biện chứng của tri thức-niềm tin-tình cảm-ý chí-hành động. Đặc trưng cơ bản nhất của niềm tin CNXH là sự nhận thức đúng đắn các quy luật phổ biến và quy luật đặc thù trong sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Có niềm tin về CNXH, cán bộ, đảng viên luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Hiện nay, vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động với nhiều vấn đề của xã hội, trong đó có thờ ơ, dao động với tư tưởng CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất của việc thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN là những phát ngôn mơ hồ về CNXH. Giọng điệu của họ là ngợi ca chủ nghĩa tư bản như hình mẫu của sự phát triển hiện đại và xem cuộc khủng hoảng của CNXH thời gian qua là "bằng chứng khách quan" của một thử nghiệm thất bại. Một số thái độ dao động đáng lên án hơn là lên tiếng phê phán Đảng, Bác Hồ đã không lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa để Việt Nam sớm “hóa rồng”, “hóa hổ” như một số nước Đông Bắc Á. Họ cố tình lãng quên rằng, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các chí sĩ yêu nước Việt Nam đã từng thử nghiệm những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước khác nhau, trong đó có con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng tất cả đều không thành công. Trước tình hình đó, đất nước và nhân dân đòi hỏi một con đường khác, con đường dẫn nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khai mở từ mùa xuân năm 1930.

Một biểu hiện khác của thái độ thờ ơ, dao động đối với tư tưởng XHCN là phủ nhận giá trị bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Có người lập luận rằng, học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sáng lập là kết quả của việc tổng kết lịch sử châu Âu thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nên không còn sức sống trong thời đại mới. Học thuyết đó chỉ là sản phẩm của thời đại công nghiệp, không còn phù hợp trong thời đại toàn cầu hóa, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo... Thực chất đây là sự phủ nhận toàn bộ giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-một biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra.

Đây chính là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Bởi các thế lực thù địch luôn ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá những nước CNXH, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng-sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nếu cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động sẽ dễ sa vào những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch.

Trước tình hình trên, việc làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là cơ sở phản bác thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng CNXH nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên là những người có tri thức, được học tập, công tác, lao động trong điều kiện thuận lợi, do đó, cần hết sức tỉnh táo trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc về CNXH và con đường đi lên CNXH dưới những hình thức khác nhau, trên những diễn đàn khác nhau, nhất là internet và mạng xã hội. Khi thấy những thông tin trên mạng xã hội, cần tỉnh táo nhận diện nguồn tin, tránh bình luận, chia sẻ tùy tiện. Điều này vô tình tuyên truyền cho các luận điệu sai trái, thù địch. Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cũng cần biết lợi dụng thế mạnh của internet, mạng xã hội để tuyên truyền, lan tỏa những thông tin tốt về tính ưu việt của CNXH, sự đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Đối với cán bộ, đảng viên có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cao, cần nêu cao tinh thần đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch thông qua việc viết bài trên các sách, báo, tạp chí hay tham gia những diễn đàn báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng xã hội… Những sản phẩm đấu tranh trực diện đó thường có tính lan tỏa mạnh mẽ đối với cán bộ, đảng viên, tác động trực tiếp đến tâm lý, tư tưởng và định hướng dư luận trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Thái độ thờ ơ, dao động của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là đáng phê phán và cần có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời, nếu không xử lý dứt điểm dễ dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc loại bỏ thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng CNXH là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN trong tình hình hiện nay.

Để kiên định con đường đi lên CNXH cần thực hiện một số yêu cầu sau:

Một là, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước theo tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Phải thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về quan điểm, đường lối của Đảng, nhất là về các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện được yêu cầu này, phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho các chủ thể nhận thức rõ ý nghĩa, trách nhiệm trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cần có các biện pháp thông tin, tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải thường xuyên quán triệt, phổ biến đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng về triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng gắn với trách nhiệm, vị trí công tác. Đối với quần chúng nhân dân, phải có nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền phù hợp, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, sát với điều kiện, trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân.

Hai là, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực phát triển đất nước

Quán triệt tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng về khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực vật chất và tinh thần phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Khơi dậy và phát huy ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, giá trị văn hóa, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

Phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường. Khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Theo đó, cần hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; làm cho kinh tế - xã hội phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. 

Ba là, đấu tranh ngăn chặn, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã, đang và tiếp tục làm mọi cách để chống phá, xuyên tạc quan điểm, đường lối phát triển đất nước mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phải luôn quán triệt tinh thần kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Một mặt, phải tổ chức thực hiện hiệu quả quan điểm, đường lối của Đảng, không tạo khoảng trống để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ âm mưu, bản chất, tác hại của các quan điểm sai trái, thù địch để chủ động phòng ngừa, đấu tranh.

 Bốn là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện mới của đất nước

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Mọi biểu hiện xét lại hoặc giáo điều trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là những lệch lạc, sai lầm cần phòng tránh và phê phán. Kiên định, vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, xuyên suốt, nhất quán trong quá trình đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong bất kỳ điều kiện, tình huống nào cũng phải kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định các bước đi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Nhận diện hoạt động của các hội, nhóm tín ngưỡng, "tôn giáo mới" gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ở Việt Nam còn xuất hiện một số loại hình tín ngưỡng, tôn giáo mới pha tạp những yếu tố mê tín dị đoan như: Hội Thánh đức Chúa trời mẹ, đạo bà Điền, đạo Dừa… Có những hiện tượng tôn giáo mới nhưng mang đậm chất tà đạo, tạp đạo như “Thanh Hải vô thượng sư”, “tà đạo Hà Mòn”, “Bà Cô Dợ”, “Tin Lành Đề Ga”, “Dương Văn Mình”… Ngoài ra, nhiều địa phương nổi lên hoạt động mê tín dị đoan trá hình dưới hình thức xem tử vi, bói toán, đoán vận mệnh kết hợp với “đuổi tà ma”, “trục vong đeo bám”… Những hiện tượng, tín ngưỡng tôn giáo này đều có một điểm chung là không được Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân hoặc buộc phải chấm dứt hoạt động do được lập ra với mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo trên vẫn được một số cá nhân, tổ chức tìm cách nuôi dưỡng, lén lút hoạt động, thậm chí có lúc, có nơi, các đối tượng còn tìm cách “công khai hoạt động”.  

Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có 04 tôn giáo hợp pháp, được công nhận tư cách pháp nhân đang hoạt động gồm: Công giáo, Phật giáo, Tin Lành và Cao Đài. Các tôn giáo này cơ bản đã có mặt hầu hết ở 27/27 huyện, thị, thành phố của tỉnh, kể cả ở vùng cao, khu vực biên giới, vùng đặc biệt khó khăn. Số lượng đồng bào theo các tôn giáo khoảng 300.000 người, chiếm tỷ lệ khoảng 8,5 % dân số toàn tỉnh. Thực tế cho thấy, các tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đều mang những nét đặc trưng riêng nhưng có một điểm chung đó là hướng đến các giá trị chân - thiện - mỹ và có sự dung hợp, đan xen, hòa đồng với truyền thống, văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, qua rà soát hiện nay trên địa bàn tỉnh có 07 hội, nhóm tín ngưỡng, hiện tượng tôn giáo mới hoạt động bao gồm: Thanh Hải vô thượng sư, Âm thanh - Ánh sáng, Long hoa di lặc, Ngọc phật Hồ Chí Minh, Năng lượng gốc Trống đồng Việt Nam, Hội thánh Đức Chúa trời mẹ và Pháp luân công với khoảng hơn 1.300 người ở 24/27 huyện, thị xã, thành phố tham gia tại 60 điểm nhóm với 76 đối tượng cầm đầu, cốt cán.           

Hoạt động của các hội, nhóm tín ngưỡng, tôn giáo mới có nhiều tác động, ảnh hưởng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, tiềm ẩn phức tạp tình hình ANTT trên địa bàn như: 

- Tập trung đông người sinh hoạt trái phép tại nơi công cộng (công viên, nhà văn hóa…), nhà riêng số cầm đầu, cốt cán hoặc thuê nhà hàng, khách sạn, khu du lịch, nghỉ dưỡng…

- Tuyên truyền, tán phát các tài liệu chưa được cấp phép lưu hành hoặc chưa rõ nguồn gốc, nội dung chưa được kiểm định nhằm lôi kéo người tham gia (sách, tạp chí, ấn phẩm…).

- Các nội dung tuyên truyền có sự pha tạp, vay mượn, chắp vá từ các tôn giáo chính thống và tín ngưỡng khác, đồng thời thần thánh hóa người sáng lập; làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế gia đình, tác động xấu đến thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, là tác nhân chính nảy sinh, gây mâu thuẫn, bức xúc trong gia đình và xã hội (đập bỏ bàn thờ, bát hương, không thờ cúng ông bà, tổ tiên; gia đình ly tán, bỏ bê công việc, học hành, mang tiền bạc đi phụng sự tổ chức; khi ốm đau không đi khám điều trị chữa bệnh tại các cơ sở y tế, chữa bệnh bằng nước lã…).

          - Thành phần tham gia đa dạng, trong đó có nhiều người là công chức, viên chức, đảng viên, giáo viên và cán bộ nghỉ hưu, đây là thành phần có uy tín, ảnh hưởng nhất định trong xã hội, hoạt động của họ được nhiều người quan tâm, chú ý, được các đối tượng cầm đầu các hội, nhóm triệt để tuyên truyền, lôi kéo tham gia và lợi dụng số này để tuyên truyền, quảng bá phát triển tổ chức. 

- Hoạt động của các hội, nhóm tín ngưỡng, tôn giáo mới dễ bị các thế lực thù địch, phản động bên ngoài lợi dụng lôi kéo, tập hợp lực lượng gây phức tạp về ANTT hoặc xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Cá biệt, có những đối tượng trong các hội nhóm tín ngưỡng, tôn giáo mới còn trở thành tay sai, quân cờ của các thế lực thù địch để tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam; kích động, lôi kéo tín đồ cực đoan, quá khích chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lợi dụng vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng để gây rối, phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc, gây bất ổn trong nội bộ nhân dân. Một số đối tượng cầm đầu trong các tổ chức như “Tin Lành Chrish”, “tà đạo Hà Mòn”, “Tin Lành Đề Ga”, “đạo Bà Cô Dợ”, “tà đạo Dương Văn Mình”… còn lợi dụng vấn đề tôn giáo để lừa bịp, kích động bà con đồng bào dân tộc thiểu số tham gia các hoạt động ly khai tự trị, chống đối chính quyền. Hành động này không chỉ xâm phạm đến trật tự trị an tại địa phương mà còn  gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ…

Chính vì vậy, cần nhận diện đúng đắn những loại hình tín ngưỡng, tôn giáo có yếu tố mê tín dị đoan, các tà đạo, tạp đạo nêu trên, nâng cao nhận thức của mỗi người dân. Qua đó, giúp chúng ta hiểu rõ đâu là chính đạo, đâu là tà đạo, nắm được tác hại của các tà đạo, tạp đạo đối với đời sống vật chất, tinh thần của người dân và những ảnh hưởng xấu đến an ninh, an toàn xã hội, từ đó hình thành tính tự giác trong công tác phòng ngừa, tham gia đấu tranh ngăn ngừa hoạt động của các tà đạo. Đây cũng là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng nhận được sự đồng tình, ủng hộ từ nhân dân, tạo thế trận lòng dân trong việc tẩy chay các hiện tượng tà đạo; xử lý nghiêm số đối tượng cầm đầu, cốt cán lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng vi phạm pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng nhân dân ngay tại cơ sở, tuyên truyền vận động người dân tuân thủ theo pháp luật, đảm bảo đời sống tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn, lành mạnh./.

Cẩn trọng trước sự “xâm lăng” văn hóa

Thời gian qua, một số phim nước ngoài có hình ảnh bản đồ xuất hiện “đường lưỡi bò” phi pháp đã được phát hiện kịp thời và ngay lập tức bị cấm chiếu tại thị trường Việt Nam. Câu chuyện đặt ra là về phía các cơ quan chức năng cũng như khán giả phải làm gì trước sự “xâm lăng” văn hóa để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ?

An ninh văn hóa cũng là an ninh quốc gia

Sau khi phát hiện phim “Hướng gió mà đi” có hình ảnh “đường lưỡi bò” phi pháp được phổ biến trên không gian mạng qua địa chỉ https://www.netflix.com và ứng dụng Netflix cũng như tại địa chỉ https://fptplay.vn và ứng dụng FPT Play, Cục Điện ảnh (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã có công văn yêu cầu 2 công ty này gỡ bỏ phim.

Trước đó mấy ngày, bộ phim “Barbie” bị Cục Điện ảnh từ chối cấp phép phổ biến vì có hình ảnh “đường lưỡi bò” phi pháp lặp lại nhiều lần. Cũng vì lý do tuyên truyền sai lệch về chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, Cục Điện ảnh đã ra lệnh cấm các bộ phim “Thợ săn cổ vật” (Uncharted) năm 2022, “Em là thành trì doanh lũy của anh” năm 2021, “Điệp vụ biển đỏ” năm 2018…

Trao đổi với PV Báo CAND, PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội khẳng định, việc các bộ phim nước ngoài cố tình cài cắm hình ảnh bản đồ chứa “đường lưỡi bò” để công chiếu tại Việt Nam chính là hình thức “xâm lăng” văn hóa.

“An ninh văn hóa cũng là an ninh quốc gia. Chúng ta phải luôn quan tâm đến vấn đề văn hóa và phải xem đây là những vấn đề hết sức quan trọng, không được phép chủ quan, lơ là. Mỗi cơ quan chức năng, mỗi người dân phải hết sức cảnh giác với những văn hóa phẩm tuyên truyền sai lệch về chủ quyền quốc gia và các vấn đề chính trị khác”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn nói thêm.

Đồng quan điểm đó, Trung tá, NSƯT Đới Anh Quân, Phó Giám đốc Nhà hát Kịch nói quân đội nhấn mạnh, đây là cách thức tuyên truyền không chỉ đe dọa an ninh văn hóa mà còn cho thấy sự xâm phạm chủ quyền nước ta hết sức nghiêm trọng. Trong các phương thức tuyên truyền sai lệch về biên giới lãnh thổ thì tuyên truyền bằng văn hóa là hết sức nguy hiểm.

“Điều đáng nói ở đây việc cài cắm nội dung “đường lưỡi bò” trong các tác phẩm nghệ thuật sẽ khiến các cơ quan chức năng khó phát hiện, khó xử lý hơn. Còn về phía khán giả, việc “hình lưỡi bò” xuất hiện trong các bộ phim sẽ dần dần, từ từ đi vào tâm trí và lâu dần sẽ tiêm nhiễm vào bộ óc của họ”, Trung tá, NSƯT Đới Anh Quân cảnh báo.

Tăng “sức đề kháng” trước thông tin sai trái

Để không bỏ lọt những bộ phim có “hình lưỡi bò” khi chiếu tại thị trường Việt Nam, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, các ban, bộ, ngành và nhất là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - đơn vị có thẩm quyền trực tiếp - cần nâng cao trách nhiệm trong công tác quản lý, kiểm duyệt các bộ phim trước khi công chiếu tại Việt Nam.

“Chúng ta cần xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để “làm gương” cho những trường hợp vi phạm khác. Bên cạnh đó, sự tham gia nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong việc phát hiện, cảnh báo, ngăn chặn kịp thời các sản phẩm văn hóa có hình ảnh xuyên tạc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam là vô cùng quan trọng và là hành động thiết thực để thể hiện lòng yêu nước”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh.

Đạo diễn, NSƯT Bùi Trung Hải (Hãng phim truyện Việt Nam) cho rằng, khi bộ phim có nội dung “đường lưỡi bò” được chiếu rộng rãi trên toàn cầu thì Việt Nam là nước bị ảnh hưởng trực tiếp, do vậy chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn những phim có ý tuyên truyền cho yêu sách này.

“Cục Điện ảnh và Hội đồng duyệt phim có trách nhiệm phát hiện nếu trong phim có hình ảnh “đường lưỡi bò” và khi phát hiện ra thì cần chặn không để phim được phát hành. Chúng ta có thể dùng biện pháp mạnh, mang tính răn đe mạnh đối với các nhà sản xuất và nhà phát hành các phim thuộc dạng này. Nhà nước cũng nên nghiên cứu thêm những đạo luật mới về bảo vệ chủ quyền trong sản phẩm văn hóa. Một điều cũng rất quan trọng là cần phải dùng chính các bộ phim cũng như các tác phẩm văn hóa có nội dung, chất lượng nghệ thuật tốt để khẳng định biên giới chủ quyền biển đảo Việt Nam. Chúng ta nên thực hiện những bộ phim về vấn đề này, có thể phim tài liệu hay phim truyện… Người dân Việt Nam sẽ hoàn toàn ủng hộ và tôi nghĩ người dân các nước khác cũng vậy”, đạo diễn, NSƯT Bùi Trung Hải đề xuất.

Đứng trên góc độ của nhà quản lý giáo dục, TS Phạm Trí Thành, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội cho rằng, điều vô cùng cần thiết và mang tính then chốt là cần thông tin, tuyên truyền, giáo dục một cách đầy đủ, chi tiết cho người dân, nhất là lớp trẻ - lực lượng lớn sử dụng Internet, mạng xã hội - về chủ quyền biên giới quốc gia.

“Mỗi nhà trường từ cấp tiểu học đến đại học nên tổ chức nhiều buổi học ngoại khóa để cung cấp kiến thức về chủ quyền lãnh thổ cho lớp trẻ. Mỗi câu lạc bộ sinh viên trong các trường đại học nên đẩy mạnh việc tuyên truyền chủ quyền lãnh thổ thông qua các hình thức sinh động, hấp dẫn, như tổ chức các cuộc thi, sáng tác thơ, nhạc, tiểu phẩm sân khấu… Họ sẽ là những tuyên truyền viên tích cực và hiệu quả trong việc tuyên truyền đến mỗi gia đình, mỗi khu phố, tổ dân cư, từ đó chúng ta sẽ tạo ra mạng lưới “miễn dịch” trước những thông tin bịa đặt, sai sự thật”, TS Phạm Trí Thành mong mỏi.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề mang tính quy luật trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta

 Đây là vấn đề đã được xác định ngay từ khi Đảng ra đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một tất yếu khách quan, gắn chặt với quá trình phát triển, trưởng thành của sự nghiệp cách mạng; Đảng là một tổ chức sống trong lòng xã hội, một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội. Tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ chức vụ trong Đảng, Nhà nước luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng từ môi trường xã hội cả những cái tốt, tích cực, tiến bộ, cả những cái xấu, tiêu cực và lạc hậu.

          Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải quan tâm nhiều hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, nếu không làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì “... một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Do vậy, đối với những cán bộ, đảng viên nắm giữ quyền lực càng phải đề cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nó không chỉ góp phần làm cho Đảng ta mạnh lên mà còn là nhu cầu tự hoàn thiện, tự làm trong sạch và khẳng định nhân cách của mình. Bởi lẽ, nếu không biết sử dụng đúng quyền lực và đặt nó vào đúng vị trí thì nó sẽ phá hoại ghê gớm, nhất là khi người nắm giữ quyền lực bị tha hóa, biến chất, họ sẽ biến quyền lực của Đảng, của nhân dân thành đặc quyền, đặc lợi, rơi vào chủ nghĩa cá nhân.

          Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là vấn đề có tính quy luật trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, đặc biệt là trước những biến cố, bước ngoặt quan trọng của cách mạng. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng có mối quan hệ biện chứng, trong đó xây dựng là nền tảng, có tác dụng to lớn để thực hiện chỉnh đốn Đảng. Ai đó cho rằng chỉ cần xây dựng Đảng là đủ mà coi thường chỉnh đốn Đảng là điều phi lý, không thể chấp nhận; bởi chỉnh đốn Đảng là một mặt hết sức quan trọng và là điều kiện không thể thiếu của xây dựng. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn bó chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau, ràng buộc và quy định lẫn nhau, xây dựng Đảng ngay trong nội dung chỉnh đốn và chỉnh đốn là thành tố nội tại để xây dựng Đảng tốt hơn. Do vậy, không thể coi trọng, nhấn mạnh mặt này, xem nhẹ, coi thường mặt kia; hai mặt xây dựng và chỉnh đốn có quan hệ chặt chẽ, là vấn đề có tính quy luật của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

          Những thành quả đã đạt được trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời gian qua là niềm tin để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần đề cao cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vững tin xây dựng nước ta ngày càng giàu mạnh.

Ý nghĩa thực tiễn của "7 dám"

  Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám” là quan điểm chỉ đạo được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương nhấn mạnh tại Hội nghị Quân ủy Trung ương 6 tháng đầu năm 2023. Quán triệt, thực hiện tinh thần “7 dám” vừa là giải pháp rất quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, vừa góp phần tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…

Gắn vào thực tiễn “xây” và “chống”
Tinh thần “7 dám” của cán bộ Quân đội trong tình hình mới được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương khái quát, gồm: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”. Gắn vào thực tiễn công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chúng ta thấy rõ: “7 dám” vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp của công tác bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội.
Nội hàm của cán bộ “7 dám” là sự cụ thể hóa những đặc trưng, truyền thống tốt đẹp về phẩm chất đạo đức, giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, là sự phát triển tư duy lý luận, đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao đối với phẩm chất, năng lực cán bộ Quân đội trong giai đoạn mới. Khẳng định những vấn đề có tính nguyên tắc này để thấy rõ hơn, sự phát triển của đời sống xã hội là quy luật vận động không ngừng. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, chủ lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng…
Quân đội ta phải đặt ra yêu cầu, tiêu chí và giải pháp ngày càng cao trong xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Khi cán bộ hội tụ đầy đủ phẩm chất, năng lực theo tinh thần “7 dám”, các cơ quan, đơn vị các cấp trong Quân đội sẽ có nền tảng tinh thần vững chắc, tạo động lực mạnh mẽ để cán bộ, chiến sĩ khai mở tiềm năng, năng lực, phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.
Để hiện thực hóa tinh thần “7 dám”, Tổng Bí thư yêu cầu Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các cấp ủy đảng trong Quân đội phải đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đủ đức, đủ tài, có uy tín cao; cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, chỉ huy phải mẫu mực trước toàn đơn vị. Trong Quân đội, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm…
Thực tiễn quá trình thực hiện nhiệm vụ ở các đơn vị Quân đội trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu to lớn, những thành tích nổi bật đã đạt được, đáng lưu ý là ở một số đơn vị, trong một số thời điểm còn để xảy ra những vụ việc nghiêm trọng. Một bộ phận cán bộ, cấp ủy, người chỉ huy vẫn còn “bệnh thành tích”, giấu giếm khuyết điểm; xử lý một số vi phạm, vụ việc phức tạp, nhạy cảm chưa kịp thời, triệt để… Những hạn chế, khuyết điểm này trong một số trường hợp nhất định không chỉ ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ; chất lượng, hiệu quả huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị… mà còn là cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng không gian mạng thực hiện các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, kích động, chống phá Quân đội…
Quán triệt phương châm “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo quan điểm của Đảng, chúng ta càng thấy rõ tính cấp thiết của việc củng cố, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám”. Đó cũng là căn cứ để cấp ủy, chỉ huy các cấp đẩy mạnh thực hiện phê bình, tự phê bình; đề ra các chỉ tiêu, nội dung, giải pháp đấu tranh, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”.
Soi rọi vào chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên
Từ thực tiễn hiệu quả thực hiện nhiệm vụ đã được Quân ủy Trung ương sơ kết, đánh giá tại Hội nghị Quân ủy Trung ương 6 tháng đầu năm 2023, chúng ta thấy: Để xảy ra những biểu hiện tiêu cực, yếu kém ở đơn vị, nguyên nhân trực tiếp đều bắt nguồn từ phẩm chất, năng lực, phương pháp làm việc, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, nhất là cấp ủy, người chỉ huy các cấp.
Nhìn rộng ra và sâu hơn, chúng ta thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần kiên trì, quyết liệt, không có vùng cấm… trong những năm qua đã đưa ra ánh sáng công lý hàng loạt cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong những vụ việc, vụ án được dư luận xã hội quan tâm đặc biệt, có không ít cán bộ cấp cao trong Quân đội. Để dẫn đến tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp, cơ bản và căn cốt nhất vẫn là do phẩm chất của cán bộ, đảng viên.
Lấy tinh thần “7 dám” soi rọi vào từng cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao, chúng ta càng thấy rõ, nếu thiếu hoặc coi nhẹ các tiêu chí đó, cán bộ không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chẳng hạn, khi đơn vị có hiện tượng tiêu cực, vi phạm kỷ luật nghiêm trọng nhưng cán bộ báo cáo không trung thực, tìm cách bao biện, che giấu khuyết điểm… thì đó là thiếu tinh thần “dám nghĩ”, “dám làm”, “dám chịu trách nhiệm”…
Cán bộ thấy đồng chí của mình sai nhưng im lặng, né tránh, làm ngơ… thì đó là biểu hiện không “dám nói”, không “dám hành động vì lợi ích chung”. Che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích để được khen thưởng, thực dụng, chỉ lo vun vén cho quyền lợi cá nhân, luồn lách tìm cơ hội thăng tiến thì đó là những biểu hiện coi nhẹ đổi mới sáng tạo, không “dám đương đầu với khó khăn, thử thách”…
Các tiêu chí, nội hàm của cán bộ “7 dám” có mối quan hệ biện chứng, bổ trợ, tác động qua lại lẫn nhau. Thiếu đi một “dám” sẽ tác động, ảnh hưởng đến những phẩm chất còn lại. Thiếu càng nhiều “dám” hoặc làm sai lệch nội hàm, bản chất của những tiêu chí đó đều là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, là một bước ngắn dẫn đến tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong bối cảnh toàn quân ta đang nỗ lực tập trung triển khai, thực hiện các mục tiêu, nội dung, giải pháp đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, việc bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ theo tinh thần “7 dám” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đang đẩy mạnh thực hiện đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thực chất các chương trình, kế hoạch xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết phòng, chống chủ nghĩa cá nhân theo các nghị quyết, chỉ thị, kết luận… của Đảng và Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương. Với phương châm kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” theo quan điểm của Đảng; cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị cần bổ sung vào nghị quyết lãnh đạo, chương trình hành động, tổ chức học tập, quán triệt đầy đủ, sâu sắc tinh thần “7 dám”.
Cần coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để thực hiện thường xuyên phê bình, tự phê bình. Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người chỉ huy, bí thư, cấp ủy các cấp cần nêu gương, nghiêm túc đánh giá bản thân trên cương vị, chức trách được giao xem mình được mấy “dám”? Những cái “dám” nào mình còn thiếu, hoặc lâu nay vì nhiều lý do, chưa thực sự coi trọng thì có kế hoạch khắc phục, rèn luyện, phấn đấu. Soi xem mình được mấy “dám” sẽ có căn cứ để đánh giá bản thân có hay không thái độ bàng quan, cầu an, “mũ ni che tai”, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai né tránh đấu tranh, nói xấu, tìm kẽ hở của đồng chí, đồng đội để xoi mói, nịnh bợ, tâng công, cầu vinh, vụ lợi… Soi xem, nếu thấy những thứ ấy đang đè nặng hoặc lởn vởn trong tư duy, nếp nghĩ của mình thì hãy tự sửa, tự gột rửa.
Quân đội ta mạnh ở tính đoàn kết, thống nhất, tự giác, nghiêm minh. Bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ theo tinh thần “7 dám” không chỉ là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong một thời điểm mà cần lấy đó làm “cẩm nang” thường xuyên, gắn kết với các hình thức, phương thức giáo dục khác để đẩy mạnh tự giáo dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện. Chỉ khi cán bộ thực sự “dám” đối diện với những thói hư, tật xấu, khuyết điểm… của bản thân thì mới có động lực để “dám” cống hiến, hy sinh vì tập thể, vì đơn vị, vì sự nghiệp xây dựng Quân đội. Đó cũng là cách để ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội.