Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023

KHẮC PHỤC “CĂN BỆNH” NÉ TRÁNH, ĐÙN ĐẨY TRÁCH NHIỆM


Quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta xác định: Cán bộ, công chức là công bộc của Nhân dân và có trách nhiệm phục vụ Nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay, ở không ít nơi, cán bộ, công chức lại co cụm, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, không làm đúng, đầy đủ chức trách, nhiệm vụ của mình. “Căn bệnh” này khiến việc giải quyết nhiều công việc chính đáng của người dân, doanh nghiệp bị đình trệ; làm kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
“Căn bệnh” né tránh, nể nang, đùn đẩy trách nhiệm đã được lãnh đạo Ðảng, Nhà nước nhận diện và chỉ rõ, đó là thường gặp ở những cán bộ có bổn phận thực thi, giải quyết những vấn đề, công việc thuộc phạm vi mình phụ trách nhưng lại trốn tránh trách nhiệm, tìm cách đẩy sang cho người khác, đẩy lên cho cấp trên, đẩy cho cấp dưới… Vậy điều gì khiến “căn bệnh” này tồn tại và thời gian gần đây càng trở nên nổi cộm, gây bức xúc dư luận? Phân tích, tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, “căn bệnh” này sinh ra từ nhận thức về quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ý thức, trách nhiệm về vị trí công tác của một số cán bộ, công chức chưa cao.
Một số cán bộ lãnh đạo có tư tưởng sợ “mất phiếu”, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Trường hợp khác do năng lực, trình độ chuyên môn yếu, không đáp ứng được nhiệm vụ nên e dè, làm gì cũng sợ sai. Ngoài ra, hệ thống văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước thường xuyên thay đổi, có sự chồng chéo, thiếu đồng bộ nên nhiều khi cán bộ, công chức chưa tiếp thu được đầy đủ, kịp thời, không dám làm vì sợ sai…
Sau 37 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vậy, hiện tại, nước ta vẫn là nước đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp, có khoảng cách khá xa với các nước phát triển. Kìm hãm sự phát triển của đất nước, như đã nói ở trên, có trách nhiệm của “căn bệnh” né tránh, nể nang, đùn đẩy trách nhiệm.
Nhận thức rõ điều này, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách và quy định pháp luật nhằm nâng cao trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đặc biệt, lãnh đạo Ðảng, Nhà nước đã nhiều lần nhắc nhở, yêu cầu các cấp, ngành, đơn vị phải kịp thời đề ra những giải pháp ngăn chặn và tháo gỡ... Mới đây nhất (ngày 16/8), chủ trì phiên họp thứ 24 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để thảo luận, cho ý kiến về kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 6 tháng đầu năm 2023 và nhìn lại công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay; xác định nhiệm vụ trọng tâm công tác những tháng cuối năm và thời gian tới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục chỉ đạo: “Các cơ quan chức năng làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng thêm một số quy chế cần thiết khắc phục ngay tình trạng né tránh, nể nang, đùn đẩy”.
Rõ ràng, để đất nước phát triển nhanh, bền vững thì việc cấp thiết và quan trọng là cần quyết tâm, quyết liệt, kiên trì chữa trị dứt điểm “căn bệnh” né tránh, nể nang, đùn đẩy trách nhiệm bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Trong đó, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ, đó là phải có những quy chế, chính sách kịp thời, đúng đắn. Quy chế cần cụ thể, cá thể hóa quyền hạn, trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong từng khâu, tuyệt đối không để xảy ra việc đùn đẩy, né tránh trách nhiệm.
Trường hợp đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm để xảy ra chậm trễ hoặc không quyết định những vấn đề, công việc thuộc thẩm quyền thì phải kiểm điểm, xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan theo đúng quy định. Bên cạnh đó, kịp thời rà soát, thay thế hoặc điều chuyển sang công việc khác đối với cán bộ, công chức năng lực yếu, không dám làm, né tránh, đùn đẩy, thiếu trách nhiệm, để trì trệ và không đáp ứng yêu cầu công việc. Ở chiều ngược lại, cần có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn và yêu cầu cán bộ, đảng viên phải hết sức nêu cao tinh thần trách nhiệm trước nhiệm vụ, công việc được giao, dù là việc lớn hay việc nhỏ, việc đơn giản hay phức tạp, nhiệm vụ bình thường hay quan trọng, bí mật. Ðảng ta cũng đã ban hành nhiều quy định liên quan đến trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Hơn lúc nào hết, các công bộc của Nhân dân cần chấm dứt ngay việc đùn đẩy, nể nang, né tránh trách nhiệm, thay vào đó là tiên phong, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Khắc phục “căn bệnh” né tránh, nể nang, đùn đẩy trách nhiệm, đồng nghĩa với việc xóa bỏ được những cản trở để đất nước ta phát triển nhanh và bền vững./.
Tạp chí Tổ chức Nhà nước
Có thể là hình vẽ ngẫu hứng

Lời Bác dạy ngày này năm xưa: Ngày 05 tháng 9

 “Những người khi kháng chiến thì rất anh dũng, trước bom đạn địch không chịu khuất phục, nhưng đến khi về thành thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ, mất lập trường, sa vào tội lỗi”.

Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô”, Bác nói ngày 05 tháng 9 năm 1954. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vừa mới kết thúc (07/5/1954), Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21/7/1954). Để công tác tiếp quản Thủ đô được nhanh chóng, an toàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp và có những lời căn dặn quý báu đối với lực lượng bộ đội và công an thực hiện nhiệm vụ này. Theo đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ khi thực hiện nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô phải giữ vững lập trường, bản chất cách mạng, luôn kiên định, trách nhiệm với công việc được giao, không dao động trước sự phồn hoa của đời sống thị thành.

Lời căn dặn của Bác ngắn gọn, nhưng súc tích, là sự nhắc nhở sâu sắc đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội, công an cần phải giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng, khí tiết của người chiến sĩ cộng sản; gương mẫu trong mọi lời nói, hành động và việc làm; phát huy khối đại đoàn kết toàn dân để thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh chóng và chính xác, tránh sa vào những cạm bẫy của cuộc sống đời thường. Do vậy, học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy phải trở thành việc làm tự giác, thường xuyên, góp phần bồi dưỡng đạo đức cách mạng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp có thái độ giao tiếp, ứng xử chuẩn mực; có năng lực và tính chuyên nghiệp cao trong thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao; lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Phát huy truyền thống tốt đẹp, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, không để rơi vào cạm bẫy, sa hoa; luôn kiên định với mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; sẵn sàng xả thân hy sinh cứu dân, chung vai sát cánh cùng nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới, nông thôn mới; có lối sống văn minh, năng động, trí tuệ, đoàn kết và kỷ luật nghiêm.

-st-

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: QUAN TÂM ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP TRUNG TÁ TRỞ XUỐNG KHI THÔI PHỤC VỤ TẠI NGŨ!

         Theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam hiện hành, hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm: Đối với cán bộ cấp trung tá, thiếu tá, đại úy lần lượt là 51, 48 và 46 tuổi. Sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ theo một trong các hình thức: Nghỉ hưu; chuyển ngành; phục viên; nghỉ theo chế độ bệnh binh. Ở độ tuổi này và với lĩnh vực đào tạo đặc thù, khi nghỉ hưu, họ rất khó tìm được việc làm thêm để cải thiện thu nhập, trong khi vẫn phải lo toan, gánh vác kinh tế gia đình...

Mặc dù khoản 2 Điều 35 Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam quy định có 4 hình thức thôi phục vụ tại ngũ đối với sĩ quan nhưng thực tế hiện nay, phần lớn họ đều nghỉ hưu. Tại Quân khu 4, qua tổng kết 10 năm thực hiện Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam và thực tế ở các đơn vị cho thấy, đời sống của hầu hết cán bộ cấp trung tá trở xuống khi nghỉ hưu còn nhiều khó khăn vì lương hưu hạn chế, khó tìm việc làm thêm, trong khi vẫn phải lo toan nhiều bề.
Theo Thượng tá Nguyễn Giang Nam, Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 324 (Quân khu 4), khi được nghỉ hưu, sĩ quan cấp bậc trung tá, thiếu tá, đại úy thường có thời gian phục vụ trong Quân đội chưa đủ 35 năm, vì thế, lương hưu không được hưởng mức tối đa 75%, khiến cuộc sống của nhiều đồng chí rất khó khăn. Nếu chỉ dựa vào tiền lương hưu hằng tháng thì không thể bảo đảm nhu cầu cuộc sống bởi ở độ tuổi này, họ vẫn phải lo toan từ chi tiêu sinh hoạt, học tập của các con đến nuôi dưỡng cha mẹ già... Trong 10 năm (2013-2023), Sư đoàn 324 có 41 cán bộ là sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ, trong đó, quân hàm cấp trung tá trở xuống là 31 đồng chí.
Sau khi xuất ngũ, các đồng chí này thường đầu tư vào phát triển chăn nuôi, sản xuất, số ít làm bảo vệ tại các công ty, xí nghiệp... “Qua gặp gỡ và được nghe ý kiến của các cán bộ đã nghỉ hưu, Sư đoàn cũng hết sức băn khoăn. Tất cả ý kiến đều nêu lên những khó khăn, bất cập khi nghỉ hưu ở độ tuổi này. Bởi với chuyên ngành đào tạo đặc thù, họ rất khó kiếm việc làm phù hợp và cũng không thể đi học nghề ở độ tuổi này. Trước khi trao quyết định nghỉ chế độ cho cán bộ, chúng tôi cũng chỉ biết động viên anh em cố gắng khắc phục khó khăn, giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ để vươn lên trong cuộc sống”, Thượng tá Nguyễn Giang Nam cho biết thêm.
Tương tự như ở Sư đoàn 324, hằng năm, Bộ CHQS tỉnh Nghệ An làm thủ tục cho hàng chục sĩ quan, QNCN nghỉ theo chế độ, trong đó khoảng 75% có quân hàm trung tá trở xuống. Sau 28 năm công tác trong Quân đội, trải qua nhiều đơn vị, đầu tháng 8 vừa qua, Thiếu tá Nguyễn Thái Bình, Trợ lý động viên Ban CHQS huyện Tân Kỳ (Bộ CHQS tỉnh Nghệ An) nhận quyết định nghỉ hưu theo chế độ.
Trò chuyện với chúng tôi, Thiếu tá Nguyễn Thái Bình nói: “Chứng kiến nhiều đồng đội đi trước khi về hưu ở độ tuổi này rất khó tìm việc làm nên gần 5 năm qua, tôi đã đầu tư kinh phí, thời gian xây dựng trang trại của gia đình. Thu nhập từ chăn nuôi, sản xuất không cao nhưng cộng với lương hưu cũng tạm đủ trang trải cuộc sống gia đình”.
Thiếu tá Lê Xuân Long, nguyên Trợ lý binh chủng Ban CHQS thị xã Kỳ Anh (Bộ CHQS tỉnh Hà Tĩnh) có vợ là giáo viên tiểu học, hai con đang học đại học. Mỗi tháng, gia đình anh chi tiêu gần 20 triệu đồng. Thu nhập từ lương hưu của anh và lương giáo viên của vợ không đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt hằng tháng. Vì thế, sau khi nghỉ hưu, anh đã trải qua nhiều công việc. Nhưng ở tuổi 49, công việc bảo vệ ở ngân hàng có lẽ phù hợp nhất với anh. Đức tính kiên nhẫn, tác phong chính quy của người quân nhân đã giúp anh hoàn thành tốt nhiệm vụ của nhân viên bảo vệ.
Trò chuyện với chúng tôi, anh Long chia sẻ: “Độ tuổi 46-51 rất khó tìm công việc phù hợp. Tôi mong rằng hệ thống pháp luật có liên quan sớm được sửa đổi để tạo điều kiện cho đội ngũ sĩ quan khi nghỉ hưu được hưởng mức lương phù hợp, góp phần giảm bớt khó khăn”.
Những khó khăn, mong mỏi của đội ngũ cán bộ cấp trung tá trở xuống khi thôi phục vụ tại ngũ là xác đáng. Do đó, quá trình xây dựng pháp luật cần tính đến những chính sách đặc thù đối với cán bộ Quân đội để giải quyết tốt những vấn đề trên; chính sách pháp luật phải phản ánh được tính chất đặc thù, đặc biệt của lao động trong Quân đội là lao động xương máu, giúp cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đồng thời thu hút được người tài vào Quân đội./.

Yêu nước ST.

NGUY CƠ ĐÃ HIỂN HIỆN!

         Trước đây, chúng ta từng cảnh báo luận điệu cổ vũ xét lại lịch sử, đòi đánh giá lại công - tội của các nhân vật lịch sử còn đang gây tranh cãi thì hiện nay, nguy cơ đó đã hiển hiện trước mắt chúng ta với liên tục là những bài viết vinh danh những kẻ được coi là bán nước, “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi giày mả tổ” như Nguyễn Ánh.

Họ đăng những dòng rất trịnh trọng, với những lời lẽ ca ngợi Nguyễn Ánh là người có công lớn với đất nước, kiểu như: “Kỷ niệm 260 năm ngày sinh vua Gia Long - vị hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn. Ông là vị vua có công rất lớn trong việc thống nhất, mở mang bờ cõi nước ta với vùng đất rộng lớn từ ải Nam Quan đến đất Mũi Cà Mau”. Hoặc là những thông tin mang tính câu khách, tâng bốc Nguyễn Ánh hết lời, xem như một vị vua anh minh bằng lối diễn đạt đánh lừa độc giả: “Phát hiện thú vị về vua Gia Long và những kế sách ngoại giao khôn khéo”.

Nguyễn Ánh tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, sinh năm 1762, mất năm 1820, là kẻ đã năm lần bảy lượt cầu viện ngoại bang đem quân sang đánh nhà Tây Sơn, từ Xiêm La đến thực dân Pháp. Năm 1802, với sự suy yếu của vương triều Tây Sơn bắt đầu từ sự ra đi đột ngột của vua Quang Trung (năm 1792), cùng sự giúp đỡ của thực dân Pháp, Nguyễn Ánh đã lật đổ nhà Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn (trước đây, tổ tiên của Nguyễn Ánh chỉ dám xưng chúa - sử gọi là chúa Nguyễn). Trong suốt quá trình từ khi lưu vong nhờ ngoại bang đến khi lên ngôi vua, Nguyễn Ánh đã phạm những tội lỗi không thể dung thứ đối với người thân, gia tộc và đất nước. Để phục vụ mưu đồ bá vương của mình, Nguyễn Ánh đã làm một việc thất đức là dùng chính con trai mình - hoàng tử Cảnh làm con tin để cầm cố cho Pháp; Ánh thậm chí còn giết con trai mình là hoàng tử Cải vì sợ bị tiếm quyền. Khi vợ là bà Phi Yến khuyên không nên cầu viện ngoại bang, Ánh đã giam bà đến chết. Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã cho phá thành Thăng Long để chở gạch ngói vào Phú Xuân xây kinh đô Huế.

Nếu cho rằng Nguyễn Ánh là người có công thống nhất giang sơn, xã tắc thì đó là sự hồ đồ về lịch sử, bởi vì vào cuối thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh chiếm đoạt quyền hành nhà Lê ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn cát cứ lập vương triều độc lập ở Đàng Trong, đất nước chia 2 nửa Nam - Bắc phân tranh hơn 200 năm bất phân thắng bại. Chỉ đến khi anh em nhà Tây Sơn lãnh đạo nông dân khởi nghĩa thành công, đánh tan 2 tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ, thống nhất Nam - Bắc, giang sơn liền dải. Cũng chính Quang Trung là người đã lần lượt đập tan các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La ở phía Nam và Mãn Thanh ở phía Bắc. Trong khi đó, giống như Lê Chiêu Thống ở phía Bắc đã rước 29 vạn quân Mãn Thanh vào giày xéo đất nước mình nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, gia đình, dòng tộc mình thì ở miền Nam, Nguyễn Ánh đã quỳ gối mời giặc Xiêm La vào nước ta. Sau khi Xiêm La bị thất bại, Nguyễn Ánh đã cầu viện giặc Pháp đánh nhà Tây Sơn hòng chiếm lại vương quyền. Thậm chí, khi nghe tin quân Thanh giúp Lê Chiêu Thống sang đánh Tây Sơn và đã tiến chiếm Thăng Long, Nguyễn Ánh từng sai chở 50 vạn cân gạo ra giúp quan quân Tôn Sĩ Nghị, tuy nhiên âm mưu bất thành do giữa đường đi bị sóng to, gió lớn đánh chìm.

Năm 1787, hầu tước Montmorin đại diện cho vua Louis XVI của Pháp và Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) thay mặt Nguyễn Ánh ký Hiệp ước Versailles. Hiệp ước này gồm 10 khoản, nội dung chính là vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 tàu chiến loại frégaté cùng 1.200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 lính Cafres (lính da đen châu Phi) và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại, Nguyễn Ánh phải chấp thuận cắt cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp; cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam; phải cung cấp thủy thủ, tàu bè, lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông; mỗi năm phải đóng 1 chiếc tàu, y như tàu của nước Pháp đã cho sang giúp, để đem sang trả cho vua nước Pháp. Đổi lại, Pháp sẽ đưa quân đội, vũ khí sang giúp đánh nhà Tây Sơn. “Công lao” của Nguyễn Ánh chính là đã mở đường cho sự can thiệp của Pháp ở Việt Nam qua việc mời Pháp giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Công giáo tại Việt Nam. Nguyễn Ánh nếu đem so với Lê Chiêu Thống thì cũng là kẻ tám lạng, người nửa cân, giống nhau như 2 giọt nước ở chỗ “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi giày mả tổ”, bán nước cầu vinh.

Nguyễn Ánh đã gây dựng nên triều đình nhà Nguyễn - một triều đình trong suốt thời gian tồn tại 143 năm - luôn thỏa hiệp và cắt đất cho ngoại bang để giữ vững ngai vàng của mình. Chẳng hạn như phủ Trấn Ninh gồm các huyện Khám Liên, Quảng, Khang, Cát, Xuy, Mộc và Liêm rộng khoảng 45.000km² được Nguyễn Ánh cống nạp cho vương quốc Vạn Tượng (nay là tỉnh Xiêng Khoảng của Lào) để nhận lấy sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Năm 1827, nhà Nguyễn đã cắt huyện Sầm Nưa, phủ Trấn Biên, tỉnh Thanh Hóa cho nước Ai Lao; 3 huyện Cam Môn, Cam Cát, Cam Linh trước đây thuộc tỉnh Nghệ An nhưng đến năm 1840 nhà Nguyễn cũng cắt cho Ai Lao. Phủ Lạc Biên thuộc Việt Nam năm 1828, sau cũng được nhà Nguyễn cắt cho Lào, nay là Savannakhet. Hay cam tâm tình nguyện để thực dân Pháp ngang nhiên cắt đất của tổ tiên dâng cho nhà Thanh theo Công ước Pháp - Thanh năm 1887. Khôn ngoan đâu chưa thấy, song lãnh thổ của Tổ quốc mất về tay ngoại bang là có thật, là sự thật hiển nhiên đau lòng, là tội nhân thiên cổ của dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Ánh chính là kẻ đã thừa hưởng thành tựu thống nhất giang sơn của hoàng đế Quang Trung. Thế nhưng, vì sao ngày nay một số nhà sử học, trí thức “cấp tiến”, các tờ báo mạng lại trơ trẽn, tráo trở, bất trung, bất nghĩa vinh danh, ca ngợi Nguyễn Ánh? Mục đích cuối cùng của hành vi này là gì? Câu trả lời của trò “lật sử” này chỉ có thể là tạo tiền lệ công nhận và đạo đức hóa hành vi rước ngoại xâm vào lãnh thổ của ngụy Việt Nam Cộng hòa, cuối cùng là tấn công và phủ nhận các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta trong thế kỷ XX nhằm rửa mặt cho Mỹ và bọn bán nước cầu vinh Việt Nam Cộng hòa! Bọn chúng muốn hủy hoại lịch sử vẻ vang của nước ta. Giặc Xiêm La và các nhà truyền đạo phương Tây - công cụ hỗ trợ cho bọn thực dân kiểu cũ vào xâm lược Việt Nam cũng do một tay Nguyễn Ánh rước vào. Một số nhà sử học và thành phần “lật sử” khẳng định rằng, việc xây dựng cố đô Huế, giờ là di sản văn hóa thế giới chính là công lao của Nguyễn Ánh và nhà Nguyễn. Nhưng họ đã cố tình quên rằng, về cơ bản nó là di sản của nhân dân, nhà Nguyễn cũng chỉ dùng sức lực, trí tuệ, của cải của nhân dân để xây dựng mà thôi. 

Tóm lại, Nguyễn Ánh chỉ xứng để so sánh với Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Nguyễn Ánh cùng phần lớn con cháu của mình đã để lại hậu quả nặng nề cho sự phát triển của đất nước, ôm chân ngoại xâm để bảo vệ đặc quyền gia tộc mà bỏ qua lợi ích dân tộc. Mục đích của bọn “lật sử” khi hết lời ngợi ca Gia Long - Nguyễn Ánh đã rõ. Hãy luôn tỉnh táo để nhận rõ phải - trái, đúng - sai, công - tội nhằm đập tan âm mưu phủ định cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đầy hào hùng của cha ông ta thế kỷ XX./.
Yêu nước ST.

HỒ CHÍ MINH - PHÚT CUỐI CỦA NGƯỜI VÀ NGỌN LỬA ĐẦU TIÊN CỦA ĐỜI!

     Đã 54 năm trôi qua, kể từ phút giây Người đi xa, đồng bào Hà Nội cùng cả nước đau đớn vĩnh biệt Người. Tất cả đã đi vào ký ức thiêng liêng của lịch sử. Tình thương yêu của Người với đồng bào, đồng chí, với nhân dân - dân tộc và nhân loại đã từng được biết đến, mãi mãi được nhắc đến như huyền thoại về một tình yêu.

Thời gian mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc ở Hà Nội từ cuối Tháng Tám, năm 1945 đến khi Người qua đời, vào 9 giờ 47 phút sáng ngày 2-9-1969 là 24 năm nhưng không liên tục. Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Người và cơ quan đầu não của Trung ương Đảng, của Chính phủ đã rời Hà Nội về căn cứ địa cách mạng ở Việt Bắc. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, ngày 1 tháng 1 năm 1955, đồng bào Hà Nội, thay mặt cả nước hân hoan chào đón Người cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô. Cho đến lúc qua đời, thời gian Người sống và làm việc tại Hà Nội chỉ trong khoảng 15 năm. Đó là khoảng thời gian Hà Nội cùng cả nước chứng kiến những quyết định trọng đại của Người, in dấu ấn vào những bước ngoặt lịch sử của Đất nước và Dân tộc. Bản Di chúc của Người đã hơn 1/2 thế kỷ kể từ khi Người viết những dòng đầu tiên, từ ngày 19-5 đến ngày 15-5-1965, lúc đó Người đã 75 tuổi. Người sửa Di chúc lần cuối cùng vào tháng 5-1969. Bốn tháng sau, Người vĩnh biệt chúng ta (2-9-1969).

Đã 54 năm trôi qua, kể từ phút giây Người đi xa và đồng bào Hà Nội cùng cả nước đau đớn vĩnh biệt Người.     

“Như thế, Người đi, phút cuối cùng     
Nhẹ nhàng thanh tịnh rất ung dung 
Lời Di chúc gửi êm bên gối   
Quên nỗi mình đau để nhớ chung”. 
                                  (Tố Hữu)

Tất cả đã đi vào ký ức thiêng liêng của lịch sử. Tình thương yêu của Người với đồng bào, đồng chí, với nhân dân - dân tộc và nhân loại đã từng được biết đến, mãi mãi được nhắc đến như huyền thoại về một tình yêu.

Phút lâm chung, vẫn nguyên vẹn sự minh mẫn của bậc vĩ nhân và cốt cách hiền triết Á Đông, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, Người cầm tay Thủ tướng Phạm Văn Đồng mà thường ngày Người vẫn gọi trìu mến là “chú Tô” và hỏi: “Hai Giáp có phải không chú?”.

Ấy là Người nhớ rằng, lễ mừng Quốc khánh lần thứ 24 là năm chẵn, hãy đốt pháo hoa cho dân chúng mừng. Mọi năm vào ngày lễ trọng đại mùa Thu tháng Tám, đồng bào Hà Nội vẫn hân hoan chào đón Người, lắng nghe tiếng nói ấm áp của Người. Trong nắng sớm mùa Thu và rợp trời cờ đỏ sao vàng, đi giữa Quảng trường Ba Đình lịch sử, đồng bào Hà Nội ai cũng ngước nhìn lên lễ đài để được nhìn rõ ánh mắt, nụ cười của Người, để nhận từ đó sự ấm lòng và niềm tin yêu, hy vọng. Vậy mà, Quốc khánh lần thứ 24, lần đầu tiên, người dân Thủ đô không được nhìn thấy Bác Hồ trên lễ đài như bao năm trước. Nào có ai hay, Bác đã ra đi vĩnh viễn, trở về với thế giới người hiền, sau những cơn đau quặn thắt đáy lòng. Từ 9 giờ 47 phút sáng ngày 2-9-1969, thời gian như ngừng trôi. Suốt những ngày tang lễ, “đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”, Hà Nội và cả nước dường như vỡ òa trong tiếng khóc. Bạn bè khắp năm châu bốn biển cùng đau nỗi đau không gì có thể đền bù cùng dân tộc và nhân dân Việt Nam. Vì dân tộc độc lập mà Người đã trọn đời tranh đấu, vì nhân dân phải được tự do và sống trong hạnh phúc mà Người đã hy sinh, dâng hiến và hóa thân.

Ngôi nhà sàn đơn sơ, giản dị Người đã ở, trọn một đời giường đơn chiếu mộc, cũng trọn một đời không một giấc ngủ yên. Gần đó, “nhà 67”, Người đã ở những ngày cuối cùng và tại nơi đây, trên giường bệnh, giữa những cơn đau, Người vẫn hằng mong tin chiến thắng báo về từ miền Nam - miền Nam luôn ở trong trái tim Người. Nghe tin đê vỡ, lũ lụt tràn về, Người hỏi trong hơi thở gấp: Đê vỡ ở đâu? Có kịp sơ tán dân đi chưa? Người còn hỏi, sắp đến ngày khai trường rồi, các chú chuẩn bị trường, lớp, sách vở cho các cháu đến đâu rồi?

Hãy nhớ lại trong những ngày chiến tranh ác liệt, đời sống căng thẳng, công việc bộn bề, Người lâm bệnh nặng. Biết rằng sinh tử là quy luật của muôn đời, không ai tránh được, Người vẫn cố chờ đợi miền Nam, dù linh cảm đã mách bảo Người, đó là điều không thể.

Trong Di chúc, Người đã dặn lại chúng ta, nếu như khi tôi đã qua đời mà miền Nam vẫn chưa được giải phóng thì xin gửi lại một ít tro xương cho đồng bào miền Nam. Ta thấu hiểu nỗi đau của Người, biết rõ nỗi đau ấy trên từng nét chữ. Trong lần cuối cùng sửa Di chúc giữa ngày tháng năm sinh nhật, nét bút đỏ của Người gạch chữ “xương” đi, để lại chữ “tro” và dặn lại: Tro thì chia vào ba hộp sành, cho miền Bắc một hộp, miền Trung một hộp, miền Nam một hộp, tìm đồi cao mà chôn xuống cho đỡ tốn đất ruộng.

Người nghĩ tới dân, thương nông dân, để đất ruộng cho nông dân, dặn miễn thuế nông nghiệp cho bà con trong các hợp tác xã, ngay sau ngày giải phóng miền Nam. Trước lúc ra đi, Người muốn nghe một câu hò Huế, một làn điệu dân ca xứ Nghệ và muốn được uống một ngụm nước dừa. Ở đời, không ai có thể sống mãi và “sinh có hạn, tử bất kỳ”, đó là lẽ thường, cũng là điều nghiệt ngã của số phận - cái hữu hạn của sự sống cá thể. Vậy mà, với Hồ Chí Minh, Người không chỉ vượt lên nỗi đau, “quên nỗi mình đau để nhớ chung”, không chỉ cố chờ đợi đến ngày toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước - dù không thể chờ được - mà Người còn cố chờ đến ngày Quốc khánh với một nỗi niềm, ra với đồng bào, dù chỉ nói dăm câu, gặp dân dăm phút. Nỗi niềm ấy của Người, không chỉ đồng bào Thủ đô mà đồng bào cả nước, kể cả đồng bào ta ở nước ngoài thấu hiểu linh thiêng và cao cả đến nhường nào. Với Hà Nội và người dân ở Hà Nội, nỗi đau chịu tang Người da diết khôn cùng, bởi được trực tiếp đến với Người, “Ta đi qua đau khổ trước di hài”. “Bác ơi!” là tiếng gọi, tiếng khóc của tất cả mọi người, từ em nhỏ thơ ngây đến những người già từng trải, những giọt nước mắt này thay cho cả những người vắng mặt do hoàn cảnh đất nước còn chia cắt.

Hà Nội đã đón Người trong Lễ Độc lập đầu tiên, lắng nghe Tuyên ngôn Độc lập do Người đích thân soạn thảo và tuyên đọc. Hà Nội đã được nghe trực tiếp tiếng Người: “Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?”. Có lãnh tụ nào trên đời gần gũi, thân thương với dân và hòa vào lòng dân đến như vậy? Hà Nội lại vinh dự thay mặt cả nước đón Người cùng Trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về sau 9 năm kháng chiến thắng lợi với kỳ tích Điện Biên Phủ lẫy lừng năm châu, chấn động địa cầu.

Hai mươi tư năm sau kể từ ngày Người đọc Tuyên ngôn Độc lập, Hà Nội đau đớn vĩnh biệt Người.

Hà Nội và cả nước, bạn bè quốc tế trong giờ phút tiễn đưa Người về với tổ tiên và thế giới người hiền, có vạn người, triệu người lắng nghe đọc Di chúc của Người - Bản Di chúc 1.000 từ mà Người dồn tâm sức để viết và sửa chữa hàng năm, sửa lần cuối cùng vào dịp sinh nhật tháng 5-1969, bốn tháng sau, Người vĩnh biệt chúng ta. Bản Di chúc ấy là một đại tổng kết lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam, lắng đọng và kết tinh những tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, tâm hồn và tình cảm cao quý của Người - con người Việt Nam đẹp nhất, Con Người viết hoa Chân - Thiện - Mỹ mà lịch sử đã tạo nên, đã làm rạng rỡ Việt Nam, đã tỏa sáng trong nhân loại. Người khiêm nhường chỉ gọi đó là một bức thư, là mấy lời để lại cho đồng bào đồng chí. Văn kiện lịch sử vô giá này, Người đã ấp ủ và viết ra từ Hà Nội - trái tim Tổ quốc. Người sửa chữa từng câu, từng chữ, để lại cho chúng ta muôn vàn tình thân yêu, ký thác vào ta bao dự định tốt lành, tràn ngập niềm tin và tinh thần lạc quan để cổ vũ đồng bào đồng chí, còn nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế, Người nén chặt trong lòng. Người ra đi không có điều gì phải ân hận, Người chỉ có một niềm nuối tiếc, “chỉ tiếc là tiếc rằng, không được phục vụ Cách mạng, Tổ quốc và đồng bào lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Khi Tổng Bí thư Lê Duẩn (lúc đó gọi là Bí thư thứ nhất) đọc đến đoạn này thì cả Quảng trường Ba Đình lịch sử và khắp mọi nơi - dưới các loa phóng thanh trong phút đau thương vĩnh biệt - cả một biển người đã khóc, đã đồng cảm cùng nhau bởi nỗi đau lớn nhất, đã kết thành sức mạnh của đồng tâm, đồng chí, đồng lòng để đồng hành, thề quyết biến đau thương thành hành động, giải phóng miền Nam để thỏa lòng mong ước của Người, thề đưa lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Người mà Người ký thác, trao gửi cho đồng bào đồng chí tới đích cuối cùng.

Năm lời thề của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vĩnh biệt Người được “chắt” ra từ những điều cốt yếu nhất trong Di chúc 1000 từ của Người. Cảm xúc lại trào dâng bởi thương yêu và tự hào khi chúng ta biết rằng, Người chỉ dành riêng cho mình điều tối thiểu trong cái tối đa, chỉ vẻn vẹn 79 từ Người dặn về việc riêng. Ngay việc đó vẫn chỉ thấy một tấm lòng thương dân, thương nước đến vô cùng: “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân. Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu tới đồng bào, đồng chí, tới các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý cùng bạn bè quốc tế…”. Chu đáo và ân cần là vậy, là đặc trưng nổi bật của tình thương yêu, thấm đẫm chất nhân văn Hồ Chí Minh.

Từ Di chúc của Người, Thủ tướng Phạm Văn Đồng hồi ấy đã nhận xét, trong trái tim mênh mông của Người có tất cả tình thương mà Người dành cho mỗi chúng ta. Người đã đi trọn lô gích của một đời, trọn vẹn và toàn vẹn để dâng hiến và hóa thân. Vào lúc cuối đời, trả lời câu hỏi phỏng vấn của một nhà báo nữ Cu Ba “trong cuộc đời của Chủ tịch, đâu là điều thiêng liêng nhất?”, Người đã đặt tay lên ngực, nơi có nhịp đập trái tim, Người nói một câu thôi: “Tôi tự nguyện dâng hiến đời tôi cho nhân dân tôi, cho dân tộc tôi và cho cả nhân loại”. Những lời cảm động ấy đã tạc vào ký ức của lịch sử, ký ức của muôn đời.

Có thể nào quên những chi tiết này trong cuộc đời của Người. Cho đến lúc ra đi, trên ngực áo của Người không một tấm huân chương. Quốc hội tôn vinh Người, trao tặng Người Huân chương Sao vàng, là huân chương cao quý nhất của Việt Nam. Người đã nói lời cảm ơn và đề nghị hoãn lại, đợi đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, lúc đó đồng bào miền Nam gắn huân chương cho Người cũng chưa muộn. Tự đáy lòng, Người nói rằng, mình chưa xứng đáng.

Người giải thích rằng, mình mới chỉ đi đến nơi mà chưa về đến chốn; Người có một niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của cách mạng nhưng biết rằng, sẽ không gặp được đồng bào trong ngày toàn thắng. Miền Nam luôn ở trong trái tim Người là như vậy, có thương yêu và tin tưởng, có hy vọng và chờ mong với nỗi niềm day dứt khôn nguôi.

Những giọt nước mắt cửa Người thấm hai bên gối và trên ngực áo của Người cũng đẫm nước mắt. Đó là nước mắt của các bác sĩ trong tổ y tế đặc biệt đã nỗ lực hết sức để cứu chữa cho Người, thầm mong một phép nhiệm màu cho tim Người đập lại mà không được.

Người đã đi vào một khoảnh khắc thiêng - giờ Người từng viết và sửa Di chúc, giờ mà Người vẫn dành riêng để đọc báo mỗi ngày, dõi theo từng tấm gương “người tốt việc tốt”, “mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả nước, cả dân tộc là một vườn hoa đẹp”. Mười năm cuối đời, Người đã gửi tặng 5.000-6.000 Huy hiệu Người tốt-Việc tốt từ em nhỏ đến các cụ già. Vậy là, chữ “Dân” đã quy tụ tất cả mọi nỗ lực cho mục đích sống của Người và “Vì dân” đã định hình lẽ sống cao thượng nhất mà Người suốt đời thực hành để chúng ta noi theo. Những chi tiết sống động ấy là những sự kiện và kỷ niệm mà Người gắn bó với Dân - từ Hà Nội, từ ngôi nhà sàn bình dị, Người hướng tới cả nước, tới cả bạn bè quốc tế, từ dân tộc đến thế giới nhân loại.

Trong hàng ngàn, hàng vạn thư và điện từ khắp năm châu bốn biển gửi tới Hà Nội - Việt Nam để chia sẻ nỗi đau buồn của chúng ta, lời của Phi Đen CátxtơRô sâu sắc biết nhường nào: “Đồng chí Hồ Chí Minh thuộc về một lớp người đặc biệt, mà cái chết lại gieo mầm cho sự sống, đời đời bất diệt (tác giả nhấn mạnh). Đó không chỉ là ngợi ca nhân cách và tầm vóc của Người mà còn là sự khẳng định một thực tế lịch sử, một giá trị vĩnh hằng. Sự sống mạnh hơn cái chết. Cá thể là hữu hạn mà nhân loại là vô cùng. Hồ Chí Minh đã từ Việt Nam đến với thế giới. Thế giới hiểu Việt Nam và Việt Nam được tin yêu giữa lòng bè bạn là nhờ có Người, con người “có tầm mắt đại dương” (Chế Lan Viên), biểu tượng cao quý của khát vọng tự do và suốt đời tranh đấu cho hòa bình, cho lẽ phải và sự công bằng dành cho tất cả mọi người trên trái đất này như bạn bè quốc tế đã nói về Người. Sinh thời, Người đã nghiền ngẫm các giá trị nhân sinh qua nếm trải trực tiếp mọi gian nan, khó nhọc, hiểm nguy trên đường tranh đấu, qua sự thấu hiểu và thấu cảm tâm nguyện và đời sống của muôn vạn người từ những thân phận và cảnh đời nô lệ. Bởi vậy, Người đã nâng cao sự thực hành “Thân dân” tới “Dân chủ” trong lẽ sống ở đời và đem vào sự tu dưỡng “chính tâm” của người cộng sản hiện đại những giá trị cao quý của đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính - bốn đức để làm người. Ánh sáng trí tuệ, tinh thần ấy của Hồ Chí Minh, ngọn lửa thiêng ấy của tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh sáng mãi qua các thế hệ.

Đã hơn nửa thế kỷ, kể từ ngày đầu tiên Người viết Di chúc tại Hà Nội. Đã 54 năm qua, từ giây phút Người vĩnh biệt chúng ta, cũng tại Hà Nội này.

Bởi Người sống mãi trong lòng dân và trong trái tim nhân loại nên tất cả những gì thuộc về sự nghiệp và sự sống của Người vẫn nguyên vẹn trong suy tư và cảm xúc của mỗi chúng ta. Tố Hữu đã nói hộ chúng ta điều đó  

“Tháng năm ơi! Có thể nào quên    
Hàng bóng cờ tang thắt dải đen 
Rủ giữa lòng đau ta nhớ mãi   
Cuộc đời như ngọn lửa đầu tiên”…    
                           (Theo chân Bác)

Ngọn lửa đầu tiên ấy, qua trải nghiệm của lịch sử, từ mỗi cuộc đời của mỗi con người, các thế hệ nối tiếp nhau, ta nhận ra, ánh sáng ngọn lửa ấy được bắt đầu từ ngày Nguyễn Tất Thành, “Người đi tìm hình của Nước” rời bến cảng Nhà Rồng ngày 5-6-1911. Và, sau 30 năm của cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Người đã trở về Pác Bó, Cao Bằng, đặt tên “núi Các Mác”, “suối Lênin” như một lời nguyện thề suốt đời chung thủy với chủ nghĩa, một lòng một dạ kiên trì con đường cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng, đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thành lập Mặt trận Việt Minh ngày 19-5-1941 dẫn tới Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự tỏa sáng rực rỡ của ngọn lửa thần kỳ này bởi người thắp lửa thiên tài Hồ Chí Minh.

Trong “Việt Nam diễn sử ca”, được viết giữa núi rừng Việt Bắc, Người dự báo, năm 1945, Việt Nam độc lập. Điều tiên tri kỳ lạ và kỳ diệu ấy đã xảy ra, từ Quốc dân đại hội Tân Trào đến Thủ đô Hà Nội, giữa Quảng trường Ba Đình rợp trời cờ đỏ sao vàng trong ngày lễ Độc lập ngày 2-9-1945.

“Người đi tìm hình của nước” giữa đêm đen nô lệ là người khai sinh ra nước Việt Nam mới với Bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ - Tuyên ngôn dựng nước, lập quốc trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta.

Áng thiên cổ hùng văn được sản sinh trong thời đại mới đã vừa kế tục tinh hoa của truyền thống vừa phát huy và làm thăng hoa trí tuệ và tâm hồn, khí phách và bản lĩnh Việt Nam.

Từ khi Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng để dấn thân vào sự nghiệp cứu nước cứu dân đến khi Người có mặt ở Hà Nội, viết và đọc Tuyên ngôn Độc lập mà Người cảm nhận rằng, đó là những giây phút sung sướng nhất của đời mình, phải trải qua độ dài thời gian 34 năm (1911-1945). Cuộc khủng hoảng triền miên về đường lối cứu nước từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 20 thế kỷ XX đã chấm dứt, khi Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy chân lý, với bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ngọn lửa đầu tiên của đời đã rọi ánh sáng cho lịch sử sang trang sử mới.

Từ làng Sen, làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, quê nội và quê ngoại của Người đến Thủ đô Hà Nội, chỉ mấy trăm cây số mà Người đã đi từ thuở thiếu thời đến khi tuổi đời đã hơn nửa thế kỷ để tới nơi. Đó là cuộc đi làm thay đổi hình hài, số phận của cả dân tộc từ nô lệ tới tự do. Ngọn lửa đầu tiên của Đời, Bác Hồ đã thắp lên và tỏa sáng, đang tiếp tục truyền lửa và mãi mãi tỏa sáng trong cuộc đời các thế hệ con cháu của Người để thực hiện đầy đủ và xứng đáng nhất với tâm nguyện và hoài bão của Người: Độc lập vững bền cho Tổ quốc, Tự do và Hạnh phúc thực sự cho dân tộc và nhân dân./.

Theo: Báo QĐND.
Yêu nước ST.

KHẮC PHỤC “CĂN BỆNH” NÉ TRÁNH, ĐÙN ĐẨY TRÁCH NHIỆM!

         Quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta xác định: Cán bộ, công chức là công bộc của Nhân dân và có trách nhiệm phục vụ Nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay, ở không ít nơi, cán bộ, công chức lại co cụm, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, không làm đúng, đầy đủ chức trách, nhiệm vụ của mình. “Căn bệnh” này khiến việc giải quyết nhiều công việc chính đáng của người dân, doanh nghiệp bị đình trệ; làm kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

“Căn bệnh” né tránh, nể nang, đùn đẩy trách nhiệm đã được lãnh đạo Ðảng, Nhà nước nhận diện và chỉ rõ, đó là thường gặp ở những cán bộ có bổn phận thực thi, giải quyết những vấn đề, công việc thuộc phạm vi mình phụ trách nhưng lại trốn tránh trách nhiệm, tìm cách đẩy sang cho người khác, đẩy lên cho cấp trên, đẩy cho cấp dưới… Vậy điều gì khiến “căn bệnh” này tồn tại và thời gian gần đây càng trở nên nổi cộm, gây bức xúc dư luận? Phân tích, tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, “căn bệnh” này sinh ra từ nhận thức về quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ý thức, trách nhiệm về vị trí công tác của một số cán bộ, công chức chưa cao.

Một số cán bộ lãnh đạo có tư tưởng sợ “mất phiếu”, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Trường hợp khác do năng lực, trình độ chuyên môn yếu, không đáp ứng được nhiệm vụ nên e dè, làm gì cũng sợ sai. Ngoài ra, hệ thống văn bản, quy định của Đảng, Nhà nước thường xuyên thay đổi, có sự chồng chéo, thiếu đồng bộ nên nhiều khi cán bộ, công chức chưa tiếp thu được đầy đủ, kịp thời, không dám làm vì sợ sai…

Sau 37 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vậy, hiện tại, nước ta vẫn là nước đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp, có khoảng cách khá xa với các nước phát triển. Kìm hãm sự phát triển của đất nước, như đã nói ở trên, có trách nhiệm của “căn bệnh” né tránh, nể nang, đùn đẩy trách nhiệm.

Nhận thức rõ điều này, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách và quy định pháp luật nhằm nâng cao trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đặc biệt, lãnh đạo Ðảng, Nhà nước đã nhiều lần nhắc nhở, yêu cầu các cấp, ngành, đơn vị phải kịp thời đề ra những giải pháp ngăn chặn và tháo gỡ... Mới đây nhất (ngày 16/8), chủ trì phiên họp thứ 24 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để thảo luận, cho ý kiến về kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 6 tháng đầu năm 2023 và nhìn lại công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay; xác định nhiệm vụ trọng tâm công tác những tháng cuối năm và thời gian tới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục chỉ đạo: “Các cơ quan chức năng làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng thêm một số quy chế cần thiết khắc phục ngay tình trạng né tránh, nể nang, đùn đẩy”.

Rõ ràng, để đất nước phát triển nhanh, bền vững thì việc cấp thiết và quan trọng là cần quyết tâm, quyết liệt, kiên trì chữa trị dứt điểm “căn bệnh” né tránh, nể nang, đùn đẩy trách nhiệm bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Trong đó, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ, đó là phải có những quy chế, chính sách kịp thời, đúng đắn. Quy chế cần cụ thể, cá thể hóa quyền hạn, trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong từng khâu, tuyệt đối không để xảy ra việc đùn đẩy, né tránh trách nhiệm.

Trường hợp đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm để xảy ra chậm trễ hoặc không quyết định những vấn đề, công việc thuộc thẩm quyền thì phải kiểm điểm, xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan theo đúng quy định. Bên cạnh đó, kịp thời rà soát, thay thế hoặc điều chuyển sang công việc khác đối với cán bộ, công chức năng lực yếu, không dám làm, né tránh, đùn đẩy, thiếu trách nhiệm, để trì trệ và không đáp ứng yêu cầu công việc. Ở chiều ngược lại, cần có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn và yêu cầu cán bộ, đảng viên phải hết sức nêu cao tinh thần trách nhiệm trước nhiệm vụ, công việc được giao, dù là việc lớn hay việc nhỏ, việc đơn giản hay phức tạp, nhiệm vụ bình thường hay quan trọng, bí mật. Ðảng ta cũng đã ban hành nhiều quy định liên quan đến trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Hơn lúc nào hết, các công bộc của Nhân dân cần chấm dứt ngay việc đùn đẩy, nể nang, né tránh trách nhiệm, thay vào đó là tiên phong, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Khắc phục “căn bệnh” né tránh, nể nang, đùn đẩy trách nhiệm, đồng nghĩa với việc xóa bỏ được những cản trở để đất nước ta phát triển nhanh và bền vững./.
Yêu nước ST.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Biểu tượng của tinh hoa và khí phách dân tộc Việt Nam

“Người là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt bốn nghìn năm lịch sử. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. ất cả những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta trong hàng nghìn năm lịch sử đều được kết tinh, hun đúc, sống dậy, tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, trong thời đại Hồ Chí Minh. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa những giá trị tinh thần cao quý như độc lập, tự do, hạnh phúc, loại bỏ bất công, bất bình đẳng, hòa bình và công lý, một thế giới mới chống lại đói nghèo, bệnh tật, dốt nát. Chủ nghĩa yêu nước,giá trị hàng đầu, nhất quán, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam xuất hiện từ thời cổ đại, phát triển qua các giai đoạn lịch sử, đến thời đại Hồ Chí Minh, là một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam và nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa của nó là “đường”, là hướng đi thì đích thực là đạo Việt Nam”(1). Trải qua các giai đoạn lịch sử từ cái nôi Văn Lang - Âu Lạc đến thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc chống đô hộ Hán, Đường, qua kháng chiến chống xâm lược thế kỷ X đến thế kỷ XVIII, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có cách biểu hiện cao thấp, sắc thái khác nhau, nhưng ngày càng phát triển cả bề rộng và sâu, đậm đà cốt cách Việt Nam. Đến giai đoạn lịch sử cận đại, khi triều Nguyễn lên ngôi, giai cấp phong kiến Việt Nam từng bước từ bỏ ngọn cờ yêu nước, giai cấp tư sản không đủ sức giương cao ngọn cờ yêu nước, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được giai cấp công nhân nâng lên một tầm cao mới. Được ánh sáng khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Lênin (chủ nghĩa Mác - Lênin) soi sáng, Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản. Từ đó trở đi, Người cùng với Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam - Đảng do Người sáng lập và rèn luyện - phát kiến lại chủ nghĩa yêu nước truyền thống, đưa vào những nội dung mới, chất lượng mới, trở thành một bộ phận của tinh thần quốc tế, kết hợp nhuần nhuyễn, phát huy một cách hài hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong toàn bộ tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa yêu nước là thứ của quý, động lực tinh thần lớn nhất cho cách mạng, kháng chiến và xây dựng. Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước “có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh phát kiến lại chủ nghĩa yêu nước truyền thống không phải bằng lý luận, sách vở thuần túy mà chủ yếu thông qua thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Người sử dụng liên tục chủ nghĩa yêu nước như một vũ khí và rèn luyện vũ khí ấy ngày càng sắc bén trong trường kỳ cách mạng và kháng chiến. Người chỉ rõ: “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”(4) Sau gần 90 năm (1858-1945), dân tộc ta đánh Pháp, Nhật và chế độ phong kiến với tinh thần Hồ Chí Minh trong lời hiệu triệu: “Dân ta một cổ hai tròng. Đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật. Trước tình cảnh đau đớn, xót xa ấy, ta có chịu khoanh tay chờ chết không? Không, quyết không! Hơn 20 triệu con Lạc cháu Hồng quyết không chịu làm vong quốc nô lệ mãi!... Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm”(5). Cuối cùng, chúng ta đã thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!(6). Khi thực dân Pháp trở lại cướp nước ta một lần nữa, lời hịch của ông cha ta tự ngàn xưa vang vọng trong lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Chúng ta phải đứng lên… Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(7). Sau chín năm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn, đem thân làm giá súng”, chúng ta đã viết nên thiên sử vàng Điện Biên, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Hơn hai mươi năm tiếp theo, khi đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ở cả miền Nam và miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ hào khí Việt Nam, khảng khái tuyên bố rằng đế quốc Mỹ có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(8). “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn… Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”(9). Cuối cùng, Mỹ phải cút, ngụy phải nhào, Tổ quốc thống nhất, giang sơn thu về một mối. Chúng ta “có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”(10). Nhiều dân tộc trên thế giới bị xâm lược và đứng lên chống xâm lược, không riêng Việt Nam, nhưng như Việt Nam thì không nhiều. Nhiều người nước ngoài không hiểu nổi sức mạnh của dân tộc Việt Nam là gì? Vì sao dân tộc Việt Nam thời trung đại, không những không bị Hán hóa, mà còn giành được độc lập dân tộc? Ba lần đánh bại quân Mông, Nguyên, những kẻ luôn luôn chiến thắng từ Á sang Âu? Từ một nước nông nghiệp, khoa học kỹ thuật kém phát triển, đã vùng lên giải phóng, đánh bại các cuộc xâm lược của các đế quốc hùng mạnh là Pháp và Mỹ? Còn nhiều câu hỏi vẫn phải tiếp tục tìm câu trả lời hoàn toàn thuyết phục Việt Nam đất không rộng, người không đông, vũ khí súng đạn không nhiều, không lớn, luôn phải đối mặt với những cường quốc to lớn hơn mình gấp nhiều lần. Vậy khí phách của dân tộc Việt Nam là gì? Câu trả lời nằm ở chỗ một dân tộc biết đặt tâm lý tinh thần độc lập tự cường lên hàng đầu; luôn coi trọng luân lý biết hy sinh lợi ích cá nhân mình, làm lợi cho quần chúng. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh kéo dài hàng nghìn năm đã nhào nặn tâm hồn Việt Nam, đạo lý và khí phách Việt Nam. Chúng ta tự hào về một dân tộc rắn rỏi, kiên trung, hiên ngang, có tinh thần độc lập tự chủ, lạc quan, sáng tạo, thương người, chính nghĩa, đại nghĩa, trước “sóng cả không ngã tay chèo”. Những giá trị đó có tự ngàn xưa, được vun bồi, kết tinh, sống dậy trong Hồ Chí Minh, phát sáng hào quang. Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng rực rỡ của cuộc chiến đấu giành tự do; là mẫu mực xuất chúng về mọi đức tính nhân đạo, tượng trưng cho tinh thần của dân tộc “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(11); “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(12); “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp mình đã”(13). Để khởi nghĩa thắng lợi, Người khái quát và nâng cao tinh thần, khí phách của dân tộc: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(14). Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời về nhiệt tình, chí khí cách mạng kiên cường, khí phách anh hùng, tinh thần độc lập tự do, một lòng kiên trì cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, lâu dài, phức tạp, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; thắng không kiêu, bại không nản. Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ phẩm chất của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cách mạng vô sản dũng cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh phấn đấu với niềm tin và tư thế của một người chiến thắng. Đó là khí phách và khát vọng của những người được sứ mạng lịch sử trao cho là đánh đổ xã hội cũ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy dân làm gốc. Nguyễn Trãi viết: “Lấy đại nghĩa thắng hùng tàn/Dùng chí nhân thay cường bạo”. “Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt tối rồi lại minh Để mở nền muôn thuở thái bình Để rửa nỗi nghìn thu sỉ nhục”. Đó là một khía cạnh đặc trưng thuộc tinh hoa và khí phách của dân tộc Việt Nam - tinh hoa và khí phách về khát vọng đổi mới, hạnh phúc và phát triển bền vững, thái bình. Hồ Chí Minh tiếp nối, phát triển, nâng cao khát vọng đó với tâm nguyện đến ngày thắng lợi sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, hơn mười ngày nay. Trong Di chúc, Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(15). Thế giới khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng sản theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời tượng trưng cho dân tộc mình, một dân tộc trải qua hàng nghìn năm lịch sử, từ thời cổ trung đại đến cận hiện đại đã tiến hành liên tục các cuộc đấu tranh anh hùng để bênh vực những giá trị đạo đức cao cả, chân chính không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà cả với nhân loại, đó là quyền sống, độc lập, tự do, hạnh phúc, công lý cho mọi dân tộc và vì mọi người, bình đẳng giữa các dân tộc, thế giới hòa bình. Năm 1980, trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, Rômét Chanđra nhấn mạnh: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”(16). Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ phẩm chất của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cách mạng vô sản dũng cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh phấn đấu với niềm tin và tư thế của một người chiến thắng. Đó là khí phách và khát vọng của những người được sứ mạng lịch sử trao cho là đánh đổ xã hội cũ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy dân làm gốc. Hai mươi năm sau, năm 2000, trên cương vị Chủ tịch danh dự Hội đồng Hòa bình thế giới, phát biểu trong Hội thảo quốc tế “Việt Nam trong thế kỷ XX”, Rômét Chanđa có một phát hiện độc đáo khác: “Trong nửa sau thế kỷ XX, có một từ đã xuất hiện trong tiếng nói của những người bảo vệ và kiến tạo hòa bình trên thế giới, một từ mà cùng một lúc mang rất nhiều ý nghĩa: đấu tranh, dũng cảm, anh hùng; và nó còn có ý nghĩa là chiến thắng, độc lập, tự do. Từ đó là Việt Nam. Và có một cái tên luôn luôn gắn với từ này - từ chỉ tên của một đất nước. Đó là Hồ Chí Minh… Người là niềm cảm hứng cho cuộc đấu tranh bất khuất của dân tộc mình, và cũng là nguồn cảm hứng cho tất cả các dân tộc đang đấu tranh cho những điều tốt đẹp nhất của nhân loại. Lời nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vang vọng khắp mọi nơi và nó đã được phụ nữ, nam giới trên khắp các châu lục, những người đang chiến đấu để giành lấy những mục tiêu thiêng liêng đó, hưởng ứng”(17). Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại, “một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(18). Vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: “Người là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt bốn nghìn năm lịch sử. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó là lời kêu gọi cứu nước khẩn thiết hiện nay của Tổ quốc, là lời hịch của ông cha ta vang vọng tự ngàn xưa, là nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta đối với muôn đời con cháu”(19). Người “là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta”(20). Đánh giá, ghi nhận của Đảng ta và bè bạn quốc tế là sự khái quát cao, cô đọng, súc tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng cho tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam anh hùng.

Sự phi lý của luận điệu “Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”

Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ xác đáng, hữu hiệu để bác bỏ luận điệu “Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”. Sự phi lý của một luận điệu Độc lập, tự chủ là ý chí sắt đá được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành giá trị cốt lõi thiêng liêng trong truyền thống quý báu của dân tộc ta. Chính vì thế, độc lập, tự chủ là vấn đề mang tính nguyên tắc, nhất quán trong hệ thống các quan điểm của Đảng ta, có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện của thế giới hiện nay, Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là phương châm chỉ đạo và tổ chức thực hiện; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ đất nước là một trong những mối quan hệ quan trọng đặc biệt cần giải quyết trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, với bản chất thâm độc, các thế lực thù địch cho rằng, chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam là hão huyền, phi thực tế. Chúng cho rằng "không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế được"; "đã độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ". Đồng thời, chúng còn cho rằng thể chế chính trị của Việt Nam là khác biệt, không phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế, với một đảng duy nhất cầm quyền càng không thể hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa là tất yếu khách quan kéo theo quá trình cả thế giới theo dòng thời cuộc hội nhập quốc tế. Đó cũng là quá trình nước nào cũng phải tìm mọi cách thức để tự bảo vệ mình. Vậy nên hội nhập quốc tế là xu thế khách quan thì việc mỗi nước phải giữ được tố chất của mình cũng là một nhu cầu và nhiệm vụ tất yếu. Nhưng nếu xem xét một cách sâu xa hơn thì có thể thấy ngay được luận điệu “Không thể có độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam” thực chất là sự hằn học của thế lực thù địch. Chúng ta có đủ luận cứ về lý luận và chứng cứ về thực tiễn để bác bỏ hoàn toàn luận điệu phi lý này. Hiệu quả hội nhập quốc tế hiện diện trên mọi mặt đời sống xã hội Sau hơn 30 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã xác nhận nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất phức tạp đòi hỏi phải xử lý đúng đắn, hiệu quả, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Trong Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu của hội nhập quốc tế là: “Củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo toàn và phát huy bản sắc dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Quan điểm và chủ trương của Đảng nêu bật việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, tiền đề để giữ độc lập, tự chủ trên mọi mặt đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Quán triệt và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong công tác đối ngoại, những năm qua, chúng ta đã thu được những thành quả khả quan. Trong lĩnh vực chính trị. Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất: Chủ động tham gia phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng và thực chất cả trong kênh song phương và đa phương. Hội nhập song phương tạo tiền đề để Việt Nam phát huy vai trò trên diễn đàn đa phương, qua đó tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á-Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu. Từ một quốc gia hội nhập sau, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực tham gia tiến trình hội nhập khu vực, chủ động đề xuất những sáng kiến, thúc đẩy các liên kết. Việt Nam cũng tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trên cộng đồng quốc tế. Trong lĩnh vực kinh tế. Chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. Theo Tổng cục Thống kê, tính đến năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD, xuất siêu 11,2 tỷ USD. Đầu tư vào Việt Nam đã đăng ký hơn 400 tỷ USD, năm 2022 đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước. Việt Nam được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Hiện nay cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới hơn 50 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và hơn 20 nhà tài trợ đa phương. Ngoài ra, nước ta còn nhận được vốn ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Thành công của hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện vật chất-kỹ thuật thuận lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, tạo nền tảng để hội nhập về chính trị và hội nhập các lĩnh vực khác. Kinh tế đất nước phát triển, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên là nhân tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội. Đến nay, Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn hóa xã hội đi vào chiều sâu đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hóa ngay tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, từ đó thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hóa-xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, để ánh sáng văn hóa Việt Nam là ngôi sao lấp lánh trên bầu trời văn hóa các dân tộc trên thế giới. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ và hỗ trợ cho chính sách chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước, vừa bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh môi trường quốc phòng, an ninh trên thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực, đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tùy viên quân sự tại hơn 30 nước và có hơn 40 nước có văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh, quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào những hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh, quân sự toàn cầu. Tiếp tục kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại Tình hình thế giới ngày càng có những biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường, trong khi hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh dẫn tới những thách thức to lớn trong quá trình bảo vệ độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. Trước những vấn đề mới đặt ra, Đảng ta đã xác định rõ những nguyên tắc, phương châm, mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng lớn cho quá trình hội nhập quốc tế. Để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết cần xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị-đối ngoại, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc và của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, cần chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện ngăn chặn kịp thời các đối tác nước ngoài lợi dụng các kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế, thao túng thị trường trong nước; đấu tranh với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và internet, có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào những mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa. Cùng với đó, cần nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực phục vụ đắc lực yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Đổi mới tư duy, nghiên cứu có chiều sâu, nhạy bén bám sát tình hình để có những dự báo xác đáng. Tập trung nghiên cứu những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực, những điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước lớn, những mối quan hệ giữa các nước lớn. Nghiên cứu đánh giá và xác định đúng đắn quan hệ đối tác, đối tượng trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, hiệu quả. Giải pháp có ý nghĩa căn cơ là tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đảng ta đã xác định nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng. Có thể khẳng định rằng, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nhằm góp phần hiện thực hóa phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã thể hiện nhất quán và từng bước cụ thể hóa nội dung của chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế cho từng giai đoạn, phù hợp với bối cảnh tình hình thế giới và khu vực. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ, bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch về vấn đề này./.

 DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA 🇻🇳⭐️🇻🇳


(Lịch sử nước ta trong thơ của Bác)


Dân ta phải biết sử ta,

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

Kể năm hơn bốn ngàn năm,

Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.


Hồng Bàng là tổ nước ta.

Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.

Thiếu niên ta rất vẻ vang,

Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.


Tuổi tuy chưa đến chín mười,

Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.

An Dương Vương thế Hùng Vương,

Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.


Triệu Đà là vị hiền quân,

Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.

Nước Tàu cậy thế đông người,

Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam.


Quân Tàu nhiều kẻ tham lam,

Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?

Hai Bà Trưng có đại tài,

Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,


Ra tay khôi phục giang san,

Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.

Tỉnh Thanh Hoá có một bà,

Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,


Tài năng dũng cảm hơn người,

Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.

Phụ nữ ta chẳng tầm thường,

Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời.


Kể gần sáu trăm năm giời,

Ta không đoàn kết bị người tính thôn.

Anh hùng thay ông Lý Bôn,

Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người.


Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.

Lập nên Triều Lý sáu mươi năm liền.

Vì Lý Phật Tử ngu hèn,

Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.


Thương dân cực khổ xót xa,

Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,

Vì dân đoàn kết chưa sâu,

Cho nên thất bại trước sau mấy lần.


Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,

Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.

Đến hồi Thập nhị sứ quân,

Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.


Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,

Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.

Ra tài kiến thiết kinh dinh,

Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.


Lê Đại Hành nối lên ngôi.

Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.

Vì con bạo ngược hoành hành,

Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.


Công Uẩn là kẻ phi thường,

Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.

Mở mang văn hoá nước nhà,

Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.


Lý Thường Kiệt là hiền thần,

Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.

Tuổi già phỉ chí công danh,

Mà lòng yêu nước trung thành không phai.


Họ Lý truyền được chín đời,

Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.

Nhà Trần thống trị giang san,

Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài.


Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:

Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,

Tung hoành chiếm nửa Âu châu,

Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la.


Lăm le muốn chiếm nước ta,

Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,

Hải quân theo bể kéo đi,

Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nen.


Dân ta nào có chịu hèn,

Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.

Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,

Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang.


Mênh mông một giải Bạch Đằng,

Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,

Hai lần đại phá Nguyên binh,

Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.


Quốc Toản là trẻ có tài,

Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,

Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,

Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.


Thật là một đấng anh hùng,

Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.

Đời Trần văn giỏi võ nhiều,

Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.


Mười hai đời được hiển vinh,

Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.

Cha con nhà Hồ Quý Ly,

Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.


Tình hình trong nước không yên,

Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,

Bao nhiêu của cải trân châu,

Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.


Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,

Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.

Mấy phen sông Nhị núi Lam,

Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.


Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,

Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.

Mười năm sự nghiệp hoàn thành,

Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.


Vì dân hăng hái kết đoàn,

Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.

Vua hiền có Lê Thánh Tông,

Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.


Trăm năm truyền đến cung hoàng,

Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.

Bấy giờ trong nước lôi thôi,

Lê nam, Mạc bắc rạch đôi san hà.


Bảy mươi năm nạn can qua.

Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.

Từ đời mười sáu trở đi,

Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu.


Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,

Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.

Dân gian có kẻ anh hùng,

Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn.


Đóng đô ở đất Quy Nhơn,

Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu dân đảo huyền.

Nhà Lê cũng bị mất quyền,

Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.


Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,

Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,

Ông đà chí cả mưu cao,

Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.


Cho nên Tàu dẫu làm hung,

Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.

Tướng Tây Sơn có một bà,

Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân.


Tay bà thống đốc ba quân,

Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.

Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.


Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà.


Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.

Từ năm Tân Hợi trở đi,

Tây đà gây chuyện thị phi với mình.


Vậy mà vua chúa triều đình,

Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.

Nay ta nước mất nhà tan

Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.


Năm Tự Đức thập nhất niên,

Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.

Hăm lăm năm sau trận này,

Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan.


Ngàn năm gấm vóc giang san,

Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!

Tội kia càng đắp càng đầy,

Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.


Nước ta nhiều kẻ tôi trung,

Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.

Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,

Cùng thành còn mất làm gương để đời.


Nước ta bị Pháp cướp rồi,

Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;

Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng

Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.


Mấy năm ra sức Cần Vương,

Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,

Giang san độc lập một miền,

Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.


Anh em khố đỏ, khố xanh,

Mưu khởi nghĩa tại Hà thành năm xưa,

Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,

Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.


Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An

Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.

Nam Kỳ im lặng đã lâu,

Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.


Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!

Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.

Xét trong lịch sử Việt Nam,

Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.


Nhiều phen đánh bắc dẹp đông,

Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.

Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,

Vì ta chỉ biết lo yên một mình.


Để người đè nén, xem khinh,

Để người bóc lột ra tình tôi ngươi!

Bây giờ Pháp mất nước rồi,

Không đủ sức, không đủ người trị ta.


Giặc Nhật Bản thì mới qua,

Cái nền thống trị chưa ra mối mành.

Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,

Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.


Ấy là nhịp tốt cho ta,

Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.

Người chúng ít, người mình đông

Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.


Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!

Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.

Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,

Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.


Người giúp sức, kẻ giúp tiền,

Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.

Trên vì nước, dưới vì nhà,

Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.


Chúng ta có hội Việt Minh

Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh

Mai sau sự nghiệp hoàn thành

Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng


Dân ta xin nhớ chữ đồng:

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!


Hồ Chí Minh - 1942




 

QUAN ĐIỂM CỦA PH.ĂNGGHEN: SỨC MẠNH QUÂN SỰ CỦA MỘT QUÂN ĐỘI PHẢI ĐƯỢC XEM XÉT TRÊN GÓC NHÌN TOÀN DIỆN

 Theo Ph. Ăng-ghen muốn đánh giá đúng đắn khả năng chiến đấu của một quân đội, cần xem xét không những mặt trang bị của nó, mà cần xem xét cả trình độ kỷ luật, tinh thần quyết chiến, khả năng và chuẩn bị của nó để chịu đựng những gian khổ của chiến tranh và sự “nhất là trạng thái tinh thần của nó, nghĩa là có thể đòi hỏi nó những gì mà không sợ làm cho nó mất tinh thần.

Những tư tưởng, luận điểm của Ph. Ăng-ghen đi sâu giải thích một cách khách quan, khoa học hiện tượng xã hội phức tạp là chiến tranh và hòa bình, quân sự và quốc phòng, khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh cách mạng. xây dựng quân đội cách mạng và bảo vệ Tổ quốc; sự chuyển hóa tiềm lực quân sự trong chiến tranh; quan hệ giữa con người và vũ khí... Trong đó, có những quan điểm, luận điểm về xây dựng, tăng cường sức mạnh quân sự của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc của giai cấp vô sản, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cách mạng sâu sắc. Theo ông, quân đội bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp và nhà nước tổ chức ra nó và “Quân đội đã trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước, trở thành một mục đích tự nó” [1]

Dựa trên quan niệm chủ nghĩa duy vật về các quá trình lịch sử - xã hội, C. Mác, Ph. Ăng-ghen chỉ rõ, giữa chính trị, chiến tranh, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và đối ngoại...có quan hệ mật thiết, quy định và phụ thuộc lẫn nhau. Đó là yêu cầu cấp thiết phải xây dựng và tăng cường tiềm lực quân sự của nhà nước vô sản. Ông cho rằng, sức mạnh nền quốc phòng của đất nước được biểu hiện ở khả năng vật chất và tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đáp ứng yêu cầu các loại hình chiến tranh thông thưởng và hiện đại. Trong đó, tiềm lực kinh quân sự là một bộ phận đặc biệt của tiềm lực kinh tế đất nước, trực tiếp cục cấp trang bị, phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất cho tiềm lực quân sự để tạo nên sức mạnh quân sự của Nhà nước vô sản. Đồng thời, sức mạnh của quân đội  phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của Nhà nước sinh ra nó. Vì vậy, “Không có gì lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm đội. Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược phụ thuộc trước hết vào trình độ sản xuất đạt được trong một thời điểm nhất định và cá phương tiện giao thông nữa" [2].

Thực tiễn xung đột quân sự đang diễn ra giữa Nga – Ucraina đang minh chứng cho học thuyết quân sự của Ph.ăngghen…Chúng ta cần tiếp tục xem xét và đi sâu phân tích luận giải nó…



  • [1] C. Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị Quốc gia Sư thật, Hà nội, Tr.242.
  • [2] C. Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia Sư thật, Hà nội, Tr.235.

 Cái trống trường em


Cái trống trường em

Mùa hè cũng nghỉ.

Suốt ba tháng liền

Trống nằm ngẫm nghĩ.


Buồn không hả trống?

Trong những ngày hè

Bọn mình đi vắng

Chỉ còn tiếng ve.


Cái trống lặng yên

Nghiêng đầu trên giá,

Chắc thấy chúng em,

Nó mừng vui quá!


Kìa trống đang gọi:

Tùng! Tùng! Tùng! Tùng...

Vào năm học mới

Rộn vang tưng bừng.