Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023
KHẮC PHỤC “CĂN BỆNH” NÉ TRÁNH, ĐÙN ĐẨY TRÁCH NHIỆM
Lời Bác dạy ngày này năm xưa: Ngày 05 tháng 9
“Những người khi kháng chiến thì rất anh dũng, trước bom đạn địch không chịu khuất phục, nhưng đến khi về thành thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ, mất lập trường, sa vào tội lỗi”.
Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô”, Bác nói ngày 05 tháng 9 năm 1954. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vừa mới kết thúc (07/5/1954), Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21/7/1954). Để công tác tiếp quản Thủ đô được nhanh chóng, an toàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp và có những lời căn dặn quý báu đối với lực lượng bộ đội và công an thực hiện nhiệm vụ này. Theo đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ khi thực hiện nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô phải giữ vững lập trường, bản chất cách mạng, luôn kiên định, trách nhiệm với công việc được giao, không dao động trước sự phồn hoa của đời sống thị thành.
Lời căn dặn của Bác ngắn gọn, nhưng súc tích, là sự nhắc nhở sâu sắc đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội, công an cần phải giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng, khí tiết của người chiến sĩ cộng sản; gương mẫu trong mọi lời nói, hành động và việc làm; phát huy khối đại đoàn kết toàn dân để thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh chóng và chính xác, tránh sa vào những cạm bẫy của cuộc sống đời thường. Do vậy, học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy phải trở thành việc làm tự giác, thường xuyên, góp phần bồi dưỡng đạo đức cách mạng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp có thái độ giao tiếp, ứng xử chuẩn mực; có năng lực và tính chuyên nghiệp cao trong thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao; lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Phát huy truyền thống tốt đẹp, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, không để rơi vào cạm bẫy, sa hoa; luôn kiên định với mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; sẵn sàng xả thân hy sinh cứu dân, chung vai sát cánh cùng nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới, nông thôn mới; có lối sống văn minh, năng động, trí tuệ, đoàn kết và kỷ luật nghiêm.
-st-
CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: QUAN TÂM ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP TRUNG TÁ TRỞ XUỐNG KHI THÔI PHỤC VỤ TẠI NGŨ!
NGUY CƠ ĐÃ HIỂN HIỆN!
HỒ CHÍ MINH - PHÚT CUỐI CỦA NGƯỜI VÀ NGỌN LỬA ĐẦU TIÊN CỦA ĐỜI!
KHẮC PHỤC “CĂN BỆNH” NÉ TRÁNH, ĐÙN ĐẨY TRÁCH NHIỆM!
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Biểu tượng của tinh hoa và khí phách dân tộc Việt Nam
Sự phi lý của luận điệu “Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”
DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA 🇻🇳⭐️🇻🇳
(Lịch sử nước ta trong thơ của Bác)
Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.
Hồng Bàng là tổ nước ta.
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.
Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chưa đến chín mười,
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương,
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.
Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.
Nước Tàu cậy thế đông người,
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam.
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam,
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Hai Bà Trưng có đại tài,
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,
Ra tay khôi phục giang san,
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.
Tỉnh Thanh Hoá có một bà,
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,
Tài năng dũng cảm hơn người,
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.
Phụ nữ ta chẳng tầm thường,
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời.
Kể gần sáu trăm năm giời,
Ta không đoàn kết bị người tính thôn.
Anh hùng thay ông Lý Bôn,
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người.
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.
Lập nên Triều Lý sáu mươi năm liền.
Vì Lý Phật Tử ngu hèn,
Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.
Thương dân cực khổ xót xa,
Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,
Vì dân đoàn kết chưa sâu,
Cho nên thất bại trước sau mấy lần.
Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
Đến hồi Thập nhị sứ quân,
Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.
Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.
Ra tài kiến thiết kinh dinh,
Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.
Lê Đại Hành nối lên ngôi.
Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.
Vì con bạo ngược hoành hành,
Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.
Công Uẩn là kẻ phi thường,
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hoá nước nhà,
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.
Lý Thường Kiệt là hiền thần,
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh,
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Họ Lý truyền được chín đời,
Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.
Nhà Trần thống trị giang san,
Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài.
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,
Tung hoành chiếm nửa Âu châu,
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la.
Lăm le muốn chiếm nước ta,
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,
Hải quân theo bể kéo đi,
Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nen.
Dân ta nào có chịu hèn,
Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang.
Mênh mông một giải Bạch Đằng,
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,
Hai lần đại phá Nguyên binh,
Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.
Đời Trần văn giỏi võ nhiều,
Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.
Mười hai đời được hiển vinh,
Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.
Cha con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.
Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười năm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.
Vì dân hăng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tông,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.
Trăm năm truyền đến cung hoàng,
Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê nam, Mạc bắc rạch đôi san hà.
Bảy mươi năm nạn can qua.
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.
Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu.
Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.
Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn.
Đóng đô ở đất Quy Nhơn,
Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu dân đảo huyền.
Nhà Lê cũng bị mất quyền,
Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.
Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.
Tướng Tây Sơn có một bà,
Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân.
Tay bà thống đốc ba quân,
Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.
Gia Long lại dấy can qua,
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà.
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.
Từ năm Tân Hợi trở đi,
Tây đà gây chuyện thị phi với mình.
Vậy mà vua chúa triều đình,
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.
Nay ta nước mất nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.
Năm Tự Đức thập nhất niên,
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan.
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Nước ta nhiều kẻ tôi trung,
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.
Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,
Cùng thành còn mất làm gương để đời.
Nước ta bị Pháp cướp rồi,
Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;
Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng
Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.
Mấy năm ra sức Cần Vương,
Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,
Giang san độc lập một miền,
Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.
Anh em khố đỏ, khố xanh,
Mưu khởi nghĩa tại Hà thành năm xưa,
Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,
Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.
Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.
Nam Kỳ im lặng đã lâu,
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.
Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!
Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.
Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh bắc dẹp đông,
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.
Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,
Vì ta chỉ biết lo yên một mình.
Để người đè nén, xem khinh,
Để người bóc lột ra tình tôi ngươi!
Bây giờ Pháp mất nước rồi,
Không đủ sức, không đủ người trị ta.
Giặc Nhật Bản thì mới qua,
Cái nền thống trị chưa ra mối mành.
Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,
Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.
Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Người chúng ít, người mình đông
Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.
Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.
Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức, kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!
Hồ Chí Minh - 1942
QUAN ĐIỂM CỦA
PH.ĂNGGHEN: SỨC MẠNH QUÂN SỰ CỦA MỘT QUÂN ĐỘI PHẢI ĐƯỢC XEM XÉT TRÊN GÓC NHÌN
TOÀN DIỆN
Theo Ph. Ăng-ghen muốn đánh giá đúng đắn khả năng chiến đấu của một quân đội, cần xem xét không những mặt trang bị của nó, mà cần xem xét cả trình độ kỷ luật, tinh thần quyết chiến, khả năng và chuẩn bị của nó để chịu đựng những gian khổ của chiến tranh và sự “nhất là trạng thái tinh thần của nó, nghĩa là có thể đòi hỏi nó những gì mà không sợ làm cho nó mất tinh thần.
Những tư tưởng,
luận điểm của Ph. Ăng-ghen đi sâu giải thích một cách khách quan, khoa học hiện
tượng xã hội phức tạp là chiến tranh và hòa bình, quân sự và quốc phòng, khởi
nghĩa vũ trang và đấu tranh cách mạng. xây dựng quân đội cách mạng và bảo vệ Tổ
quốc; sự chuyển hóa tiềm lực quân sự trong chiến tranh; quan hệ giữa con người
và vũ khí... Trong đó, có những quan điểm, luận điểm về xây dựng, tăng cường
sức mạnh quân sự của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc của giai cấp vô
sản, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cách mạng sâu sắc. Theo ông, quân đội
bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp và nhà nước tổ chức ra nó và “Quân đội
đã trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước, trở thành một mục đích tự nó” [1]
Dựa trên quan
niệm chủ nghĩa duy vật về các quá trình lịch sử - xã hội, C. Mác, Ph. Ăng-ghen
chỉ rõ, giữa chính trị, chiến tranh, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và đối
ngoại...có quan hệ mật thiết, quy định và phụ thuộc lẫn nhau. Đó là yêu cầu cấp
thiết phải xây dựng và tăng cường tiềm lực quân sự của nhà nước vô sản. Ông cho
rằng, sức mạnh nền quốc phòng của đất nước được biểu hiện ở khả năng vật chất
và tinh thần có thể huy động để tạo thành sức mạnh phục vụ cho nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng, đáp ứng yêu cầu các loại hình chiến tranh thông thưởng và hiện
đại. Trong đó, tiềm lực kinh quân sự là một bộ phận đặc biệt của tiềm lực kinh
tế đất nước, trực tiếp cục cấp trang bị, phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất
cho tiềm lực quân sự để tạo nên sức mạnh quân sự của Nhà nước vô sản. Đồng
thời, sức mạnh của quân đội phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế của Nhà nước sinh ra nó. Vì vậy, “Không có gì lại phụ
thuộc vào những điều kiện kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm đội. Vũ
trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược phụ thuộc trước hết vào trình
độ sản xuất đạt được trong một thời điểm nhất định và cá phương tiện giao thông
nữa" [2].
Thực tiễn xung
đột quân sự đang diễn ra giữa Nga – Ucraina đang minh chứng cho học thuyết quân
sự của Ph.ăngghen…Chúng ta cần tiếp tục xem xét và đi sâu phân tích luận giải
nó…
Cái trống trường em
Cái trống trường em
Mùa hè cũng nghỉ.
Suốt ba tháng liền
Trống nằm ngẫm nghĩ.
Buồn không hả trống?
Trong những ngày hè
Bọn mình đi vắng
Chỉ còn tiếng ve.
Cái trống lặng yên
Nghiêng đầu trên giá,
Chắc thấy chúng em,
Nó mừng vui quá!
Kìa trống đang gọi:
Tùng! Tùng! Tùng! Tùng...
Vào năm học mới
Rộn vang tưng bừng.








