Thứ Ba, 25 tháng 6, 2024

GIỮ GÌN SỰ ĐOÀN KẾT, THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG THEO LỜI DẠY CỦA BÁC

Đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động làm nên nguồn sức mạnh vô địch của Đảng, là động lực sự phát triển của Đảng. Vì vậy, trong 9 thập niên xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng thực hiện, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình” để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

1. Đoàn kết là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng

Nhận thức được vị trí và vai trò của một Đảng tiền phong đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bằng hoạt động lý luận, thực tiễn của mình để chuẩn bị và thành lập một Đảng Mácxít - Lêninnít, mà còn cùng Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lùi lại lịch sử dân tộc đầu những năm 30 của thế kỷ XX, có thể thấy rằng, khi nguy cơ phân liệt về tư tưởng, tổ chức của những người cộng sản Việt Nam đang đe dọa sự phát triển của phong trào cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ nắm bắt đúng yêu cầu của lịch sử dân tộc, đó là “phải hành động, hành động mau lẹ và kiên quyết, không được phép chậm trễ hơn nữa, thiếu một Đảng cách mạng thống nhất lãnh đạo phong trào công nhân, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta sẽ như con tàu không có người cầm lái”, mà còn kịp thời và kiên quyết tổ chức Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở “bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”.

Nhất quán yêu cầu phải luôn đoàn kết thống nhất và giữ vững sự đoàn kết thống nhất, củng cố, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, vì đó là cội nguồn sức mạnh, là nhân tố bảo đảm thắng lợi sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ nhận thức sâu sắc chỉ dẫn của Ph.Ăngghen: “Ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động được”, mà còn luôn coi sự đoàn kết thống nhất là sinh mệnh của Đảng, là vấn đề sống còn của sự nghiệp cách mạng để cùng kiên định lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; cùng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; cùng chung mục đích phụng sự Tổ quốc và Nhân dân. Đồng thời, trên tinh thần tuyệt đối không thỏa hiệp với những xu hướng bè phái, cánh hẩu, địa phương chủ nghĩa, lợi ích nhóm trong Đảng; trên tinh thần coi sự chia rẽ, phân liệt là tội ác lớn nhất đối với Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu, là nguồn sức mạnh để những người cộng sản Việt Nam “khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”, mà còn chỉ rõ Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân, nên càng phải coi “sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo” để ngăn ngừa chủ nghĩa cá nhân, sự chủ quan, tự mãn, bệnh “kiêu ngạo cộng sản” và nhất là căn bệnh “bằng mặt mà không bằng lòng”, “trước mặt im lặng, sau lưng thì thầm” trong nội bộ…

Quán triệt những chỉ dẫn của Người, trong suốt tiến trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, dù phải trải qua nhiều cam go, thử thách, song Đảng Cộng sản Việt Nam không khi nào sao nhãng việc thực hiện nghiêm các nguyên tắc về xây dựng Đảng cách mạng kiểu mới và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ được thể hiện trong việc kiên định đường lối, quan điểm, Điều lệ và nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn trong công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trong bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bảo vệ đường lối đổi mới của Đảng… Đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ gắn liền với việc tuân thủ các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, gắn bó mật thiết với Nhân dân, chú trọng công tác kiểm tra và giám sát, mà còn là mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nâng cao bản lĩnh chính trị và trau dồi tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý… để từng tổ chức Đảng cũng như toàn Đảng là một khối vững chắc, trong sạch, phát triển và xứng đáng với vai trò tiền phong.

Thực tế là, nhờ nắm vững lý luận, phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nhờ nghiêm túc thực hiện đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong đó mỗi cấp uỷ luôn tiêu biểu cho ý chí thống nhất của Đảng; mỗi cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị đều tuân thủ nghiêm ngặt tổ chức, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, nên “Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước, mà còn giữ vững được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực và đập tan được mọi âm mưu của giai cấp tư sản hòng tranh quyền lãnh đạo cách mạng với Đảng ta” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Tiếp đó, trên hành trình vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, kiên định một Tổ quốc Việt Nam thống nhất, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho chúng ta” đã không chỉ được thấm nhuẩn, mà bài học về sự giữ gìn, củng cố khối đoàn kết thống nhất của Đảng thời kỳ đấu tranh giành chính quyền cũng được phát huy để nhân nguồn sức mạnh của Đảng, để Đảng ngày càng phát triển.

Có một sự thật không thể phủ nhận là, “đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi. Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước” đã được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát huy trong những năm lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975) để giành được thắng lợi cuối cùng; để hoàn thành trọng trách thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

2. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài

Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trung thành với lý luận Mác - Lênin về xây dựng một Đảng Mácxít - Lêninnít kiểu mới, mà còn kế thừa những giá trị truyền thống đoàn kết tốt đẹp của dân tộc vào tiến trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, vào công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Thực tế cho thấy là, đặc biệt coi trọng xây dựng, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, càng ở vào những thời khắc gay go nhất của lịch sử cũng như trong mỗi bước chuyển của sự nghiệp cách mạng cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng yêu cầu và chỉ rõ Đảng Cộng sản Việt Nam phải bản lĩnh, kiên định và đoàn kết thống nhất trong nhận thức, tư tưởng, hành động. Điều đó có nghĩa là, Đảng không chỉ phải độc lập, sáng tạo đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn phù hợp điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và quốc tế, phù hợp xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, mà còn phải tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng từ Trung ương xuống địa phương; phải tăng cường, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư) và trong toàn Đảng để làm hạt nhân vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm nhân nguồn sức mạnh nội lực, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lịch sử xây dựng và phát triển của Đảng cũng cho thấy, đoàn kết thống nhất không phải chỉ là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, không phải chỉ cần thực hiện trong Đảng để Đảng ngày càng phát triển, mà đó còn là đòi hỏi khách quan của toàn thể dân tộc trong hành trình đấu tranh giải phóng, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đến tươi đẹp, phồn vinh, hạnh phúc. Vì thế, để sự đoàn kết thống nhất làm nên sức mạnh của một Đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, “tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”, thì hơn bao giờ hết, mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên càng phải thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết; càng phải coi đoàn kết là vấn đề then chốt/đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết để củng cố, bồi tụ nguồn sức mạnh của Đảng; càng phải nhận thức sâu sắc rằng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa, chủ nghĩa cơ hội và mọi biểu hiện bè phái, lợi ích nhóm đều sẽ phá nát sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, thúc đẩy sự tan rã, tê liệt, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng…Vì thế, trước những khó khăn, thách thức khôn lường của thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng từ Trung ương xuống đến cơ sở phải thường xuyên thực hiện nghiêm các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chú trọng công tác kiểm tra và giám sát cũng như rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên về mọi mặt, mà còn đồng thời nhấn mạnh mỗi chi bộ phải thực sự đoàn kết thống nhất để xứng đáng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng; để đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng nhằm thực hiện tốt phương châm phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” như Nghị quyết Đại hội XIII đã chỉ ra.

Từ những bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong hơn 38 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, có thể thấy “đoàn kết làm ra sức mạnh”; “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”; “đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết là thắng lợi của chúng ta” và sự đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức luôn gắn liền với sự gương mẫu về đạo đức của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong bối cảnh có những thay đổi về mặt nhân sự ở cơ quan lãnh đạo cấp cao gần đây và việc kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, càng thấy thấm thía những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy về đoàn kết thống nhất trong Đảng; về việc toàn Đảng phải củng cố, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất để Đảng phát triển vững mạnh. Điều đó cũng có nghĩa là, càng nhiều khó khăn, thách thức thì từng cấp ủy, tổ chức Đảng; từng cán bộ, đảng viên càng phải chú trọng việc phòng và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quét sạch tư tưởng cá nhân chủ nghĩa gắn với đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong Đảng để làm trong sạch đội ngũ. Đặc biệt, việc đẩy mạnh phòng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, với việc đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác nhân sự của Đảng nói riêng những nhiệm kỳ gần đây, nhất là nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng càng cho thấy tầm quan trọng của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng! Càng cho thấy là, để hoàn thành trọng trách mà Tổ quốc và Nhân dân giao phó, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu càng phải nghiêm khắc với chính mình trong rèn luyện đạo đức cách mạng, trong sự nêu gương phòng và chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ sớm, từ xa để “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo.

Đồng thời, việc tăng cường công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ động, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và thực hiện dân chủ, kiểm tra và giám sát nghiêm ngặt trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, đường lối, quan điểm, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng sẽ vừa góp phần làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người về đoàn kết thống nhất, vừa sớm phát hiện và giải quyết dứt điểm mọi mầm mống mất đoàn kết trong nội bộ từ khi chớm xuất hiện, củng cố sự quyết tâm, tin tưởng vào Đảng, vào chế độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Cùng với đó, việc tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng làm trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị; với Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; với Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương; với Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm… cũng sẽ thiết thực tạo nên sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm, hành động của từng tổ chức cơ sở Đảng cũng như của từng cán bộ, đảng viên. Đó chính là góp phần để Đảng trong sạch, vững mạnh về phẩm chất đạo đức; vững vàng về trí tuệ và bản lĩnh chính trị; nghiêm ngặt về Điều lệ Đảng và kỷ luật Đảng; đoàn kết thống nhất trong cả tư tưởng và hành động. Đó cũng chính là thấm nhuần chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ta thành công chính vì ta đoàn kết, quyết tâm, tin tưởng” để vừa thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII, vừa chuẩn bị thật tốt các Văn kiện cũng như công tác cán bộ, công tác nhân sự trình Đại hội XIV của Đảng./. 


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG XÃ HỘI VIỆT NAM CÀNG TƯƠI ĐẸP, TIẾN BỘ, HẠNH PHÚC - NHỮNG CHỈ DẪN QUAN TRỌNG CHO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh tụ thiên tài của Đảng và cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ kiên cường, người bạn thân thiết của các dân tộc bị áp bức trên thế giới; Người cũng là vị “kiến trúc sư vĩ đại” của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc mà đất nước ta đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện. Những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người để lại trong công cuộc xây dựng xã hội mới vẫn vẹn nguyên giá trị, cần được vận dụng phù hợp, khoa học vào thực tiễn đất nước hôm nay và mai sau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng xã hội tốt đẹp, tiến bộ, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam

Thứ nhất, là Người đầu tiên tìm kiếm và lựa chọn đúng đắn mô hình xã hội phù hợp, tốt đẹp cho đất nước.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đất nước ta rơi vào khủng hoảng toàn diện, nhất là về lựa chọn mô hình xây dựng xã hội mới. Mô hình xã hội phong kiến (mà hiện thân là triều đình nhà Nguyễn) hay xã hội tư sản (mô hình xã hội do chính quyền thuộc địa thực dân Pháp tạo dựng) đều chứa đầy mâu thuẫn, hạn chế, bất công nên không phù hợp với thực tiễn lịch sử, không được nhân dân chấp nhận. Trong hoàn cảnh ấy, ở nước ta chưa có ai, tổ chức hay lực lượng nào đủ khả năng tìm kiếm, lựa chọn đường lối cứu nước đúng đắn và một mô hình xã hội tốt đẹp, phù hợp. 

Mặc dù các phong trào yêu nước lúc bấy giờ đều nhằm mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc, nhưng có sự khác biệt cơ bản về đường lối cách mạng, phương pháp tiến hành, lập trường giai cấp (đặc biệt là quan điểm về một mô hình xã hội mới sẽ được xây dựng ),... Trong đó, các sĩ phu yêu nước chủ trương phát động phong trào Cần Vương (giai đoạn 1885 - 1896), sau là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (giai đoạn 1884 - 1913) của vị anh hùng Hoàng Hoa Thám chống thực dân Pháp; tuy nhiên, tất cả bị đàn áp dã man và dẫn đến kết cục thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là bởi các vị tiền bối trên mang trong mình ý thức hệ của giai cấp phong kiến đã lạc hậu, lỗi thời, mong muốn khôi phục xã hội phong kiến (kiểu xã hội đã hết vai trò trong tiến trình lịch sử dân tộc) nên không được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân. Trong khi đó, nhiều phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư tưởng tư sản, như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân,... của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, như Phan Bội Châu (muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội mới theo mô hình xã hội nước Nhật lúc bấy giờ); Phan Châu Trinh (chủ trương dựa vào Pháp để nâng cao dân trí, dân quyền) phát triển rộng khắp, nhưng cuối cùng cũng lâm vào bế tắc và thất bại. Thực tế, tư tưởng xây dựng mô hình xã hội kiểu tư sản theo các phong trào trên còn thiếu thực tế và không đáp ứng được yêu cầu hiện thực xã hội thời bấy giờ.

Đứng trước tình hình đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại), một con người ưu tú với bản lĩnh quyết đoán và tầm nhìn vượt lên trên những hạn chế của điều kiện lịch sử; có trí tuệ siêu việt, sự nhạy cảm chính trị sâu sắc, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,... đã tìm ra con đường, hướng đi đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Kể từ thời điểm bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911) đến khi xác định được con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tiếp nhận thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực tìm kiếm và lựa chọn mô hình đúng đắn về một xã hội mới, tốt đẹp cho dân tộc; thực tiễn hoạt động cách mạng ở trong nước và quốc tế đã giúp Người hiểu rõ sự lỗi thời, lạc hậu của xã hội phong kiến và mặt xấu xa, tàn bạo, bất công của xã hội tư sản ở cả chính quốc lẫn thuộc địa.  Trên cơ sở phân tích, đối chiếu các kiểu xã hội trong dòng chảy liền mạch của tiến trình lịch sử nhân loại, Người cho rằng tính chất phiến diện, nửa vời, không triệt để của xã hội tư sản khiến ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa và sẽ làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai, rằng “chế độ tư bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết được”(1).

Khác hẳn với xã hội tư sản là xã hội Xô-viết, tuy lúc bấy giờ còn non trẻ, nhưng đã sớm bộc lộ sức sống và tính ưu việt, mục tiêu phục vụ đều hướng đến lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, khi mà “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ thành người tự do”(2). Như vậy, từ con đường cách mạng vô sản, hướng cách mạng giải phóng dân tộc theo những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời được tận mắt chứng kiến, nhìn nhận thực tiễn sinh động về mô hình xã hội Xô-viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình xã hội Xô-viết làm nền tảng để xây dựng đất nước ta. Người chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới”(3).

Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định về mục đích, nguyên tắc của mô hình xã hội mới, nhưng về hình thức, bước đi và cách làm cụ thể khi vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, Người lại có sự độc lập, sáng tạo và các bước phát triển mới, hoàn toàn không giáo điều, bảo thủ, rập khuôn, máy móc. Có thể nói, thực tiễn đã chứng minh, quyết định của Người về con đường cách mạng của dân tộc là sự lựa chọn sáng suốt, phù hợp với quy luật khách quan, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của thực tiễn đất nước cũng như nguyện vọng, lợi ích toàn thể dân tộc.

Thứ hai, khẳng định tính tất yếu đối với sứ mệnh xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam; đồng thời, chuẩn bị những tiền đề cốt yếu, nền tảng tư tưởng quan trọng để củng cố, hoàn thiện mô hình xã hội tốt đẹp.

Năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo - tác phẩm có tác động mạnh mẽ, khiến Người cảm động, sáng tỏ niềm tin về một con đường giải phóng dân tộc đầy hy vọng mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua, đồng thời định hình rõ mô hình về một xã hội tốt đẹp trong tương lai. Theo đó, Người khẳng định “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(4), bởi vì trong chế độ cộng sản “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”(5). Trên cơ sở lý luận được tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, một học thuyết khoa học, cách mạng nhất của thời đại và từ thực tiễn khảo nghiệm của bản thân, Người dồn tâm huyết để chuẩn bị toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh cho sự ra đời của một xã hội mới, đầy tươi đẹp.

Theo đó, đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sâu, phân tích và khẳng định tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - mô hình lý tưởng về một xã hội phù hợp với đất nước. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, ngay trong Chánh cương vắn tắt (năm 1930), Người xác định nhiệm vụ “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(6); sau khi nước nhà giành được độc lập, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”(7), rằng “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”(8).

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho đất nước phát triển phồn vinh, bền vững, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Người cho rằng, “tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(9). Bên cạnh việc khẳng định tính tất yếu trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, Người còn dày công phân tích, phác thảo đường hướng lớn về nội dung, động lực, con đường, bước đi, phương thức và biện pháp,... để xây dựng xã hội tốt đẹp ấy. Trong đó, nội dung xây dựng xã hội mới được Người khái quát hết sức giản dị, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, như chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; là tất cả mọi người, tất cả đồng bào các dân tộc ngày càng ấm no; con cháu “chúng ta” ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, phong tục, tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ,...

Thứ ba, xác định, vạch rõ chủ trương, nguyên tắc xuyên suốt, hướng đi lâu dài đối với nhiệm vụ xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Nội dung đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dù được diễn đạt với ngôn từ, nội hàm khái niệm khác nhau,... song về bản chất, chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn thống nhất với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học và phù hợp với điều kiện đất nước. Đó là một xã hội hiện thực do con người, vì con người, giá trị con người được giải phóng triệt để; đề cao giá trị tự do, ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể và lợi ích xã hội; giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ, một xã hội đạt đến trình độ đạo đức nhân văn cao cả nhất mà nhân loại nói chung, dân tộc và nhân dân Việt Nam nói riêng hằng mong ước. Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, là nơi sẽ “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”(10).

Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, không phải cứ “ngồi chờ” là sẽ có chủ nghĩa xã hội, trái lại, “cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(11). Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, theo Người, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải xác định đúng, trúng phương thức, bước đi cùng với quyết tâm cao và những biện pháp, cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và với đặc điểm, xu thế của thời đại. Người chỉ rõ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, nên động lực và phương cách cơ bản, lâu dài, quyết định nhất là huy động sức mạnh tổng hợp trong nhân dân, cụ thể:

Trên lĩnh vực kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề then chốt, đồng thời cần chú trọng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ phân phối và quản lý kinh tế phù hợp; nền kinh tế đất nước ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công, nông nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, bởi “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”(12). Song, Người nhấn mạnh, một xã hội tốt đẹp không thuần túy chạy theo lợi ích kinh tế, trái lại, phát triển kinh tế phải gắn liền với nâng cao đời sống nhân dân cũng như bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Đó chính là mục tiêu, đồng thời cũng là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa, giá trị đích thực của xã hội mới tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng, hoàn thiện, rằng “xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội”(13).

Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền - một Đảng “chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(14). Bên cạnh đó, phải xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ triệt để.

Trên lĩnh vực văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem yếu tố văn hóa là mục tiêu cơ bản và động lực của một xã hội tốt đẹp, có sự hiện diện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội. Cũng theo Người, mục tiêu cơ bản và trọng tâm của văn hóa phải là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trong đó bao gồm các phẩm chất “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài và nền tảng đạo đức luôn được coi là gốc rễ. Sức hấp dẫn của một xã hội tốt đẹp hay của chủ nghĩa xã hội không phải chỉ ở mức sống vật chất cao, mà cốt lõi là ở giá trị đạo đức của nó và ở phẩm chất đạo đức của những con người sinh sống trong xã hội ấy.

Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp không phải là ước vọng, giấc mơ, ý tưởng hay là lời hiệu triệu thuần túy. Xã hội đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện thực hóa không chỉ bằng cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, những luận chứng, luận cứ đầy đủ, rõ ràng, mà còn bằng sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu toàn thông qua việc xác định rõ những bước đi, lộ trình, cách thức, biện pháp hết sức cụ thể, khoa học, hiệu quả và phù hợp với đất nước. Có thể nói, Người chính là “vị kiến trúc sư vĩ đại” đã kiến tạo nền tảng cơ bản, điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của một xã hội tốt đẹp ở nước ta, đồng thời đặt nền móng cho việc củng cố, hoàn thiện xã hội ấy.

Những chỉ dẫn cho giai đoạn hiện nay

Kể từ khi ra đời đến quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ cũng như trong từng chặng đường xây dựng đất nước, đồng thời dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử(15). Thực tế, sau gần 40 năm đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(16), đây là bằng chứng sinh động và đầy sức thiết phục về nhận thức và sự vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng một xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Thực tiễn phát triển đất nước giai đoạn hiện nay đặt ra nhiều vấn đề, thách thức mới, vô cùng phong phú, đồng thời cũng hết sức phức tạp. Trong bối cảnh đó, quan điểm, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục là kim chỉ nam, ánh sáng soi đường; là cơ sở để tư duy, tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề nảy sinh từ thực tế,... trong công cuộc hoàn thiện xã hội tốt đẹp ở Việt Nam hiện nay. Thời gian tới, để tiếp tục vận dụng hiệu quả, phù hợp những giá trị mà Người để lại, cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, triển khai, thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta(17). Tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững, tạo lập nền tảng vật chất quan trọng để xây dựng xã hội tốt đẹp, vì lợi ích của nhân dân. Chú trọng đúng mức việc ứng dụng thành tựu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển đất nước; đồng thời, khơi dậy và phát huy tiềm năng, thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức và cá nhân.

Thứ hai, tập trung thực hiện hiệu quả, thiết thực các chính sách xã hội, hướng tới vì lợi ích của toàn thể dân tộc; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; xây dựng “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; đặc biệt, sự phát triển về kinh tế luôn đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”(18). Mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách lao động, việc làm, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo đảm quyền con người và “an ninh con người” gắn với xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt, hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(19).

 Thứ ba, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thắng lợi công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam. Bởi lẽ, thành công hay thất bại trong công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp “phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(20) . Theo đó, cần xây dựng và thực thi phong cách lãnh đạo, quản lý vừa khoa học, sâu sát, sáng tạo, vừa mang tính nhân văn cao cả. Mặt khác, thực hành triệt để tự phê bình và phê bình; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và tương lai về một xã hội tốt đẹp ở Việt Nam. Đặc biệt, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, bác bỏ quan điểm sai trái, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mở rộng các hoạt động đối ngoại. Chú trọng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có đầy đủ yếu tố dân tộc, khoa học và đại chúng; đồng thời, cần tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng và phát triển một cách phù hợp, sáng tạo với thực tiễn đất nước. Mặt khác, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhằm mở rộng hợp tác để phát triển; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế./.


“NHẬN DIỆN CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG THỜI KỲ MỚI”

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các thế lực thù địch đã có sự điều chỉnh về thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình” rất tinh vi, nham hiểm, thâm độc, là một trong bốn nguy cơ kìm hãm sự phát triển của cách mạng cũng như đất nước Việt Nam mà Đảng ta xác định ở các kì Đại hội cần được giải quyết. Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Phòng chống “diễn biến hòa bình” tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt. Trong tình hình hiện nay, đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" luôn là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” là nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. Để đạt được mục đích đó, các thế lực thù địch đặt ra những mục tiêu cụ thể như: (1) Xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản; (2) Âm mưu thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” trong các nước xã hội chủ nghĩa; (3) Gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ thì lôi kéo, tiến hành bạo loạn chính trị; (4) Làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế trong các nước xã hội chủ nghĩa; (5) Chuyển hoá văn hoá, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo “giá trị Mỹ”, phương Tây; (6) Thực hiện âm mưu “phi chính trị hoá” để “vô hiệu hoá” quân đội trong các nước xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch đặc biệt coi trọng việc phá hoại tư tưởng, coi đó là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các đặc trưng chủ yếu như: tuyên truyền xuyên tạc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đẩy mạnh hoạt động xuyên tạc lịch sử; thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an… Đáng chú ý, thời gian gần đây, các thế lực thù địch tích cực đẩy mạnh thực hiện một số thủ đoạn chống phá mới, đó là: Tìm cách đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến đảng viên và nhân dân. Khuyến khích những quan điểm lệch lạc và những khuynh hướng xã hội “dân chủ” kiểu Mỹ và phương Tây hòng làm cho người dân thấy hoài nghi về “xã hội Việt Nam” và mơ tưởng về một “xã hội khác” được cổ xúy là tốt đẹp hơn.

Những biểu hiện trên đây tuy không hoàn toàn là những thủ đoạn mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhưng về cơ bản đó là những dấu hiệu đặc trưng, nổi bật nhất, thể hiện tính chất tinh vi, xảo quyệt và sự nguy hiểm, thâm độc của nó đã và đang không ngừng tăng lên. Hiện nay, các thế lực thù địch thường xuyên thay đổi các chiến lược. Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này.

Cuộc đấu tranh này được Đảng và nhà nước ta xác định là vẫn còn tiếp tục. Vì thế, chúng ta cần đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác một cách mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ hình thức nào. Điều quan trọng là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là với thế hệ trẻ để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch. Do đó, phải tiến hành đồng bộ, với phương châm “nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng”, “dọc ngang thông suốt”, tránh “trên nóng, dưới lạnh”, “đầu voi, đuôi chuột”, “đánh trống bỏ dùi”… mỗi cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân phải hết sức cảnh giác, tỉnh táo nhận diện rõ ý đồ dã tâm của các thế lực thù địch, thường xuyên tu dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.


Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị trong tình hình mới

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một Quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”.

Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về mọi mặt, trong đó luôn chú trọng lãnh đạo xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị-nhân tố quyết định nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Để hoàn thành nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, cần thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, giải pháp, song yếu tố quan trọng hàng đầu là đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ.

Quân đội tinh nhuệ bao gồm tinh nhuệ về chính trị, nhất là sự “tinh binh, tinh cán” và tinh nhuệ về vũ khí, trang bị, trình độ tác chiến; trong đó, tinh nhuệ về chính trị-nội dung cốt lõi, quyết định sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị, thực chất là, xây dựng ý thức và hành vi chính trị của quân nhân và của Quân đội, thể hiện ở sự kiên định, vững vàng về chính trị của Quân đội theo đường lối chính trị của Đảng; sự sắc sảo, nhạy bén trong tham mưu, xử lý hiệu quả các tình huống chính trị, các quan hệ chính trị và đấu tranh chính trị trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, bảo đảm cho Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Trong gần 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta, công tác Đảng, công tác chính trị luôn được xác định là bộ phận rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Thực tiễn đã chứng minh, hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị được tiến hành thường xuyên, liên tục ở mọi lúc, mọi nơi với phương châm: Ở đâu có bộ đội, ở đó có hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm cho Quân đội giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị có đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành phù hợp, bảo đảm bám sát thực tiễn, yêu cầu, nhiệm vụ.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, với đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”, tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “bình dân học vụ”, “hũ gạo cứu đói”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”... bằng nhiều nội dung, hình thức, biện pháp phù hợp với điều kiện cụ thể, hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị đã được tiến hành ở từng trận đánh và cả chiến dịch. Nội dung hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị là giữ vững con đường chính trị của Đảng; rèn luyện cán bộ; giáo dục đội viên; nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự; củng cố đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân; chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần của bộ đội; tiến hành công tác dân vận, địch vận; kiểm tra và duy trì kỷ luật Quân đội...

Qua đó, góp phần làm cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao nhận thức, sự giác ngộ về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, niềm tin vào tính chất chính nghĩa thắng lợi của cuộc chiến tranh, ý chí kiên cường, bất khuất, sự chung sức, đồng lòng, đoàn kết chiến đấu, xả thân hy sinh vì mục tiêu cao đẹp; củng cố sự đoàn kết, gắn bó máu thịt giữa Quân đội với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng, làm tốt công tác tôn giáo, dân tộc, binh vận, địch vận, phân hóa kẻ thù. Hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị đã biến sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân ta thành sức mạnh vật chất to lớn làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, mở ra chặng đường phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước những khó khăn, gian khổ, sự khốc liệt trên cả chiến trường lớn miền Nam và hậu phương lớn miền Bắc, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “tìm Mỹ mà diệt, gặp Mỹ là đánh”, “nắm thắt lưng địch mà đánh”... hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị có sự phát triển cả về nội dung, hình thức, phương pháp và lực lượng tiến hành; đã bám sát từng lực lượng, đi sâu vào loại hình đơn vị: Bộ binh, binh chủng, quân chủng, kỹ thuật, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo đảm giao thông, bảo đảm hậu cần-kỹ thuật... tập trung vào thực hiện đường lối quần chúng, thấu suốt nguyên tắc dân chủ và tinh thần thuyết phục, đi sâu vào đời sống bộ đội, bám sát từng nhiệm vụ, chủ động giải quyết những mâu thuẫn giữa trình độ chính trị, tư tưởng với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng ngày càng phát triển; giữa trình độ tri thức chiến thuật, kỹ thuật với vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng cải tiến...

Những tấm gương tiêu biểu, mẫu mực của đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên; những bức thư, bức điện gửi vào chiến trường; những buổi kết nạp đảng viên mới ngay tại chiến hào... là nguồn cổ vũ mạnh mẽ, giúp cán bộ, chiến sĩ vững vàng ý chí, kiên định niềm tin vào đường lối, nhiệm vụ quân sự, đường lối và chiến lược, sách lược của Đảng, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi, phát huy cao độ sức mạnh chính trị-tinh thần của quân và dân cả hai miền Nam-Bắc, tạo ra động lực cách mạng phi thường để nhân sức mạnh vật chất, kỹ thuật của ta lên gấp bội để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị đã góp phần quan trọng vào chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân hai nước Lào, Campuchia xây dựng cuộc sống mới.

Bước vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong giai đoạn cách mạng mới, trước yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội có sự phát triển toàn diện cả về lý luận, thực tiễn và phương tiện bảo đảm. Kế tục và phát triển những vấn đề cơ bản của thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị tiếp tục giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang; giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cách mạng, bản chất, mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, truyền thống dân tộc và Quân đội, đạo đức cách mạng; âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch; ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... Nhờ đó, trận địa tư tưởng-văn hóa của Đảng trong Quân đội luôn được giữ vững; cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Tuy nhiên, trước tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, nhất là những vấn đề mới đặt ra với xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị thì chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị có nhiệm vụ, có thời điểm còn chưa cao; nội dung, hình thức hoạt động ở một số cơ quan, đơn vị chưa có nhiều đổi mới, sáng tạo. Năng lực tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị của một số cán bộ, nhất là cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở có mặt chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, cá biệt còn có cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị vi phạm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, làm ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống Quân đội và hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và trên Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn, xảy ra xung đột. Toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra thời cơ nhưng cũng đặt ra những khó khăn, thách thức đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong nước, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới đã tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Tuy nhiên, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đặt ra những yêu cầu mới cao hơn; bên cạnh đó, mặt trái của kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch; việc điều chỉnh tổ chức, lực lượng Quân đội tác động không nhỏ đến tư tưởng, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ, người lao động. Tình hình đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị, thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất; trong đó, tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, nhất là trong xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị

Một trong những vấn đề cơ bản của công tác Đảng, công tác chính trị là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc cho Quân đội, làm cho cán bộ, chiến sĩ tuyệt đối trung thành và kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tin tưởng và thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của Quân đội. Để làm được điều đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục giáo dục, quán triệt làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, trọng tâm là xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị luôn đúng định hướng chính trị, có tính thuyết phục cao. Nội dung giáo dục phải toàn diện nhưng tập trung vào giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị, quân sự của Đảng, phẩm chất đạo đức cách mạng, giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ, các nghị quyết, kết luận, quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương; về quy định những điều đảng viên không được làm; về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới; nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng tuyên truyền, giáo dục bản chất, truyền thống, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội; nhiệm vụ của đơn vị, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân... Qua đó, góp phần xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, niềm tin vững chắc của cán bộ, chiến sĩ vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của Quân đội trong tình hình mới.

Thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; chú trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của mỗi quân nhân, của từng tổ chức, cơ quan và đơn vị, bảo đảm trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội luôn là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chính trị các cấp vững mạnh, làm nòng cốt trong đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị

Quán triệt, thực hiện hiệu quả các nghị quyết của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, trọng tâm là: Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 20-7-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX), Nghị quyết số 513-NQ/ĐUQSTW ngày 17-11-2005 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Nghị quyết số 109-NQ/QUTW ngày 11-02-2019 của Quân ủy Trung ương về “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”, Quy chế số 2036-QC/QUTW ngày 16-6-2023 của Quân ủy Trung ương về “Lãnh đạo công tác cán bộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam”... Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên vững mạnh, có số lượng đủ, chất lượng cao, cơ cấu hợp lý làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; thường xuyên quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quán triệt, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị về công tác Đảng, công tác chính trị cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên, cán bộ chính trị các cấp. Nâng cao trình độ, năng lực chủ trì về công tác Đảng, công tác chính trị của đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội, bảo đảm đội ngũ cán bộ chính trị có kiến thức toàn diện, chuyên sâu, khả năng vận dụng tổng hợp các hình thức, phương pháp, phương tiện tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị theo cương vị, chức trách, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Các cấp ủy, tổ chức đảng quán triệt triển khai và thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, mọi vấn đề liên quan đến cán bộ phải được thực hiện đúng quy chế, quy định. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ, nhất là các khâu: Đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Tăng cường kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, kiên quyết xử lý những hiện tượng tiêu cực trong công tác cán bộ; đồng thời, quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết và kỹ năng vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc; các kiến thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học nghệ thuật quân sự, ngoại ngữ, tin học... vào hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị. Tăng cường đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của bộ đội.

Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, biện pháp hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị

Đây là yêu cầu khách quan, thường xuyên, giúp cho công tác Đảng, công tác chính trị luôn là “linh hồn, mạch sống” của Quân đội. Vì vậy, cấp ủy, chỉ huy các cấp, các cơ quan, đơn vị cần bám sát sự chỉ đạo, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị, cơ quan chức năng và đặc điểm, tình hình thực tiễn để đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị. Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu xây dựng Quân đội đến năm 2030 và những năm tiếp theo, việc đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị cần bảo đảm tính cơ bản, hệ thống, cập nhật những thông tin mới, kiến thức toàn diện. Trong đó, tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị ở đơn vị cơ sở bảo đảm phù hợp với đặc điểm huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong bối cảnh mới; thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 2423-CT/QUTW ngày 09-11-2023 của Quân ủy Trung ương về “Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị trong giai đoạn mới”, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về nhận thức chính trị của cán bộ, chiến sĩ, làm cơ sở xây dựng khối đoàn kết, thống nhất, thực hiện “toàn quân một ý chí”. Tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, bản chất cách mạng, truyền thống, nhiệm vụ của Quân đội và đơn vị. Tiếp tục đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ" thời kỳ mới và thực hiện Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới.

Đổi mới và phát huy vai trò hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ, trọng tâm là nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại; rèn luyện kỷ luật; các nhiệm vụ mới, khó khăn, phức tạp như: Phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường, cứu hộ, cứu nạn, tác chiến trên không gian mạng; tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đối ngoại quốc phòng; chú trọng nghiên cứu, nắm tình hình, nhất là các cuộc xung đột quân sự đang diễn ra trên thế giới để nghiên cứu, đề xuất giải pháp xây dựng và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần của bộ đội trong xây dựng Quân đội hiện nay. Mặt khác, kịp thời định hướng, cổ vũ và phát huy nhân tố tích cực, hạn chế tác động tiêu cực, ngăn chặn và loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng, ý chí quyết tâm của bộ đội và sức mạnh chiến đấu của Quân đội trên cơ sở kết hợp chặt chẽ hình thức, biện pháp giáo dục, thuyết phục với hình thức, biện pháp hành chính, kỷ luật. Kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, vận dụng, tiếp thu những bài học kinh nghiệm quý báu được rút ra trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội. Đồng thời, kịp thời cập nhật, tiếp thu có chọn lọc những trào lưu, xu thế mới của xã hội, những tiến bộ của khoa học-công nghệ hiện đại, tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn, mang lại hiệu quả thực chất của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, góp phần xây dựng phẩm chất, nhân cách người quân nhân cách mạng, “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng để đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị

Công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm nhiều mặt công tác, nhiều hoạt động, với nhiều tổ chức, lực lượng tham gia nhưng mỗi tổ chức, lực lượng đều có chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động khác nhau nên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành ở Trung ương; giữa lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp; cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể địa phương, tạo sức mạnh tổng hợp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Phát huy vai trò của đội ngũ chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy các cấp, cơ quan chính trị, tham mưu, hậu cần, kỹ thuật và các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân cùng tham gia tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị. Mặt khác, cần quan tâm bảo đảm vật tư, kỹ thuật, kinh phí; đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hóa ở cơ sở; bảo đảm tốt trang bị, phương tiện phục vụ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong từng nhiệm vụ, từng giai đoạn nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị trong tình hình mới.

Quân đội nhân dân Việt Nam-Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định vai trò to lớn của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị. Vì vậy, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 

 

LỜI DẶN DÒ TRONG DI CHÚC CỦA BÁC HỒ ĐỐI VỚI THANH NIÊN

Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc vô cùng quý báu. Trải qua 55 năm, bản Di chúc đã trở thành nguồn cổ vũ to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, thống nhất đất nước và đưa nước nhà vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trong bản Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn kĩ càng mọi việc đối với Đảng, với nhân dân trong đó Bác vẫn dành một phần nói về thanh niên và vai trò của thanh niên, điều này đã thể hiện tư tưởng, tình cảm, sự quan tâm đặc biệt của Bác Hồ đối với những chủ nhân tương lai của đất nước.

Những năm cuối cùng của cuộc đời, mặc dù bận rất nhiều công việc nhưng Bác vẫn chọn những khoảng thời gian thư thái nhất, đúng vào giờ đẹp nhất của một ngày, lúc 9 giờ sáng ngày 10/5/1965 Bác Hồ bắt đầu viết Di chúc. Bốn ngày tiếp sau đó, Người đã dành mỗi ngày một đến hai tiếng để viết. Sau này, vào mỗi dịp sinh nhật hàng năm, Bác lại đem bản Di chúc ra xem lại, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới của đất nước. Lần cuối cùng Bác viết và chỉnh sửa vào ngày 10/5/1969.

Hiếm có tác phẩm nào Bác dành nhiều thời gian, tâm trí suy ngẫm thận trọng đến từng câu chữ để viết như bản Di chúc này. Với những ngôn từ bình dị mà súc tích Bác viết, chúng ta đều cảm nhận được tình cảm gần gũi, yêu thương của Người và thấy mình phải có trách nhiệm cao hơn, quyết tâm hơn để thực hiện bản Di chúc thiêng liêng.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Bác đã chỉ rõ: Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần là do thanh niên, thanh niên là chủ tương lai của đất nước. Nhân dịp mừng Xuân độc lập đầu tiên, tháng 1-1946, Bác đã gửi thư cho nhi đồng toàn quốc, trong thư Bác đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”.

Tuổi trẻ của Bác đã chứng kiến các phong trào yêu nước những năm đầu thế kỷ XX phát triển mạnh mẽ như: Phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, phong trào chống thuế ở Trung kỳ… Qua những phong trào đó, Bác đã nhận thấy rõ sức mạnh to lớn về mọi mặt của thế hệ thanh niên trong quá trình đấu tranh giành độc lập. Đặc biệt, vào những năm 1920 trên diễn đàn Hội nghị Tua (Pháp), Bác đã lên tiếng phản đối chế độ thực dân gây ra những tội ác tày trời đối với nhân dân và thanh niên ta thông qua bức thư Gửi Thanh niên Việt Nam (1925), các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) hay Đường Kách mệnh (1927)… Bác căm phẫn lên án chế độ thực dân đầu độc, nô dịch, bóc lột dân bản xứ trong đó có thanh niên. Người khẳng định, muốn thức tỉnh dân tộc phải thức tỉnh thanh niên, vì thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc.

Nhận định thanh niên là một trong những lực lượng nòng cốt, nên ngay từ những năm đầu về nước hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bí mật thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng 6/1925), chuẩn bị những hạt giống đỏ, ươm mầm cho sự trưởng thành, lớn mạnh của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong 2 cuộc kháng chiến, Bác luôn luôn theo dõi chặt chẽ và chỉ dẫn thanh niên tham gia phong trào kháng chiến. Đặt niềm tin vào sức mạnh của thanh niên, Bác coi thanh niên là người thân trong gia đình mình, sự mất mát của thanh niên cho cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc là nỗi đau trong cơ thể Bác. Tháng 01 năm 1947, khi nhận được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng (Giám đốc y tế Bắc Bộ) đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu, Bác đã gửi thư chia buồn, trong thư Bác viết: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi mất một đoạn ruột… Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn sống với non sông Việt Nam”.

Coi sự lớn mạnh của tuổi trẻ là thành công của Đảng, là thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, là sự trường tồn phát triển của xã hội, Bác luôn dày công chăm lo giáo dục thanh niên trở thành những con người mới của xã hội, chuẩn bị những tiền đề vững vàng để thanh niên sẵn sàng đón nhận sứ mệnh làm chủ nước nhà. Ngày 13-9-1958, nói chuyện tại lớp chính trị do Bộ Giáo dục tổ chức, Người đã nhấn mạnh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Việc chăm sóc, giáo dục và rèn luyện thanh niên là công việc mà suốt cuộc đời mình Bác đã làm mà không biết mệt mỏi. Nhân dịp kỷ niệm 20 năm Cách mạng Tháng Tám, Bác đã gửi thư cho thanh niên. Trong thư Bác đã viết: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước”. Và trước khi ra đi về với thế giới người hiền, Bác đã căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”…”. Những nhìn nhận và đánh giá của Người như nhắn gửi ở lớp lớp thế hệ thanh niên về niềm tin, trí tuệ và sự sáng tạo cho một xã hội mới của dân tộc.

Với tinh thần đó, để Đoàn thanh niên hoàn thành sứ mệnh cách mạng cao cả, Bác đã đề cao trách nhiệm cụ thể của từng đoàn viên: “Đoàn viên phải gương mẫu trong công tác, trong sản xuất, trong học tập” và trách nhiệm chung “Các chi đoàn thanh niên phải xung phong làm đầu tàu trong cuộc thi đua”. Vì thi đua là điều kiện thuận lợi giúp cho Đoàn phát triển mạnh mẽ, vững chắc và thu hút sự quan tâm của thanh niên. Phải thực hiện khẩu hiệu: Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên. Thanh niên được xác định là cánh tay đắc lực, đội hậu bị của Đảng nên Bác nhấn mạnh: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Tư tưởng ấy chính là tinh thần xuyên suốt trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên của Đảng.

Thực hiện lời căn dặn của Người, 55 năm qua, các lớp thế hệ thanh niên luôn là lực lượng xung kích trên tất cả các mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá… cùng với các phong trào thanh niên như: Ba sẵn sàng; Ba đảm đang; Năm xung phong… trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì nay trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vai trò của thanh niên lại được thể hiện ở các hoạt động như: Phong trào thanh niên lập thân, lập nghiệp; phong trào tình nguyện; Hiến máu nhân đạo; Đền ơn, đáp nghĩa…

Ngày nay, Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Cùng với việc thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước đã xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thực sự là đội dự bị tin cậy của Đảng, hạt nhân chính trị của phong trào và các tổ chức thanh niên Việt Nam. Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hóa, ý thức công dân để hình thành thế hệ thanh niên có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo cơ hội cho mọi thanh niên được học tập, không ngừng nâng cao trình độ, có tri thức và kỹ năng, vươn lên ngang tầm với thanh niên các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

Bên cạnh đó không ngừng nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên đồng thời xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho thanh niên nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, phát triển toàn diện tích cực đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Khóa VII nêu rõ: Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên.

Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã khẳng định: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuổi trẻ hôm nay đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách để học tập, rèn luyện và trưởng thành, có đầy đủ bản lĩnh để bất cứ hoàn cảnh nào, được phân công đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì cũng sẵn lòng cống hiến một cách xứng đáng nhất. Năm tháng qua đi nhưng bản Di chúc của Người sẽ còn sống mãi, là kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước tiến lên. 55 năm qua, các thế hệ thanh niên Việt Nam đã sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương vĩ đại của Bác kính yêu. Ngay từ hôm nay, mỗi đoàn viên thanh niên hãy cố gắng thực hiện nguyện vọng của Bác: “Đoàn viên sẽ ra sức phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm và tiến bộ mãi để xứng đáng là cánh tay đắc lực của Đảng ta”.

Trước sự quan tâm, chăm lo và kỳ vọng lớn lao của Đảng và Nhà nước, hơn bao giờ hết, mỗi thanh niên cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm để không ngừng học tập và tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu để trở thành lực lượng xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là xu thế tất yếu. Xu thế này sẽ tạo ra thị trường lao động toàn cầu, công dân toàn cầu và thanh niên toàn cầu… Những năm trước năm 2010, thanh niên nước ta được đánh giá tụt hậu hơn về học vấn và tay nghề, ngoại ngữ và tin học, khả năng thích ứng, sức khỏe… nhưng đến giai đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo, thanh niên nước ta sẽ tiếp cận dần với trình độ, sức khỏe của thanh niên khu vực và thanh niên thế giới. Thanh niên Việt Nam sẽ có trình độ văn hóa, chuyên môn và tay nghề, ý chí và nghị lực không thua kém thanh niên các nước.

Tuy nhiên, thanh niên nước ta còn thua kém thanh niên các nước tiên tiến về kỷ luật lao động, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tham gia các hoạt động quốc tế. Để giúp thanh niên tự tin tham gia có hiệu quả vào hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, đòi hỏi Đoàn và Hội phải có các hoạt động hỗ trợ thanh niên có kỹ năng, kỷ luật, có tác phong lao động công nghiệp và nếp sống văn minh.

Thế hệ thanh niên ngày nay được sống, lao động, học tập trong môi trường hòa bình; được thừa hưởng những thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công cuộc đổi mới đất nước; được cống hiến và trưởng thành trong sự ổn định về chính trị, sự phát triển vững chắc của kinh tế - xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện; được gia đình và xã hội dành cho nhiều cơ hội học tập để có trình độ học vấn, chuyên môn cao hơn các lớp thanh niên đi trước. Những lợi thế đó là hành trang giúp thanh niên vững bước tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên đã và đang cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Kế tục truyền thống và sự nghiệp cha anh, thanh niên Việt Nam ngày nay mang trên vai trọng trách lịch sử phải trở thành lực lượng lao động có trí tuệ, có tay nghề cao, có đạo đức và lối sống trong sáng, có sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cường tráng để đưa Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của Bác Hồ lúc sinh thời: “Bác mong con cháu mau khôn lớn - Nối tiếp cha ông bước kịp mình” (thơ Tố Hữu)./;

 


Cảnh giác trò "núp bóng báo chí"

 

Sau cuộc họp chi bộ, thấy ông Hùng, ông Nam chưa về, Bí thư Chi bộ Việt liền hỏi.

- Hai đồng chí còn có việc gì phải không?

Ông Nam giọng trầm tư: Chẳng là, tôi có đứa cháu nội, sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành báo chí, hỏi về tổ chức “phóng viên không biên giới”. Chưa hiểu rõ tổ chức này như thế nào nên tôi nói với cháu để tìm hiểu rõ sẽ nói với cháu.

Nghe xong, ông Việt từ tốn:

- Tôi thấy việc trao đổi, chia sẻ thông tin rất tốt. Nếu chúng ta chưa hiểu, chưa rõ mà phát ngôn, tuyên truyền hay chia sẻ, bình luận trên mạng sẽ vô tình tiếp tay cho kẻ xấu đấy.

Nói xong ông Việt lấy điện thoại mở Báo Nhân Dân và Báo Quân đội nhân dân điện tử đưa ông Hùng, ông Nam đọc rồi nói: Đây là hai tờ báo chính thống, có những bài đấu tranh phản bác kịp thời cái gọi là “tổ chức phóng viên không biên giới” (RSF), cố tình xếp Việt Nam đứng thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí, cho Việt Nam thuộc “vùng trũng của tự do báo chí”. Đây không phải là lần đầu tiên tổ chức này đưa ra bảng xếp hạng và những nhận định phiến diện, thiếu khách quan, phản ánh không đúng về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Thực tiễn những năm qua cho thấy, việc bảo đảm tự do báo chí, tự do ngôn luận là mục tiêu nhất quán của Đảng, Nhà nước ta, được khẳng định và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và các quy định của pháp luật, phù hợp với các quy định của quốc tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

- Vậy thông tin tổ chức này lên tiếng bênh vực đối với những nhà báo bị bắt giam là sao vậy ông? Ông Hùng hỏi thêm.

- Không chỉ Việt Nam mà tất cả quốc gia trên thế giới đều khẳng định rõ: Tự do ngôn luận, tự do báo chí không thể nằm ngoài lợi ích của quốc gia, dân tộc; tự do phải trong khuôn khổ luật pháp quốc gia; không chỉ riêng báo chí mà bất kỳ lĩnh vực nào khác của đời sống xã hội cũng phải hoạt động theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Một thực tế không thể phủ nhận là ở Việt Nam, không người nào bị kết án vì thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Những trường hợp bị xử lý hình sự đều do thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân, gây bất bình trong dư luận. Tuy nhiên “tổ chức phóng viên không biên giới” và các thế lực thù địch đã lợi dụng những vụ việc này để rêu rao Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí đấy các ông ạ.

Nghe ông Việt phân tích, ông Nam, ông Hùng hiểu ra vấn đề. Ông Nam bắt tay ông Việt nói: Cảm ơn ông đã giúp chúng tôi hiểu rõ bản chất vấn đề. Tôi sẽ nói cho cháu tôi hiểu được cái “tổ chức phóng viên không biên giới” và mưu đồ nham hiểm của bọn phản động nhằm chống phá cách mạng Việt Nam!

CÁC CHÍNH ĐẢNG ẤN ĐỘ MUỐN TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Theo phóng viên TTXVN tại New Delhi, Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Nguyễn Thanh Hải ngày 17/6 đã có cuộc gặp với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI) D.Raja, Ban lãnh đạo đảng và Trưởng Ban Quốc tế Đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP) cầm quyền Vijay Chauthaiwale.

Trong cuộc gặp tại trụ sở Đảng Cộng sản Ấn Độ ở thủ đô New Delhi, Tổng Bí thư D.Raja đã ôn lại những kỷ niệm gắn bó của đảng này, cũng như cá nhân đồng chí, với Việt Nam, với Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây.

Tổng Bí thư D.Raja nhấn mạnh, đất nước Ấn Độ lưu giữ nhiều hình ảnh Việt Nam, trong đó có con đường mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, tượng Hồ Chí Minh ở thủ đô New Delhi và thành phố Kolkata.

Bên cạnh đó, Tổng Bí thư D.Raja cũng thông tin về tình hình của Đảng Cộng sản Ấn Độ và kế hoạch sắp tới nhằm củng cố các tổ chức cơ sở đảng và chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày thành lập đảng vào năm 2025.

Tổng Bí thư D.Raja bày tỏ vui mừng trước sự phát triển nhanh chóng và các thành quả kinh tế đối ngoại của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời đánh giá cao sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ.

Nhấn mạnh Đảng Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như Nhân dân hai nước, luôn là những người bạn thân thiết của nhau, Tổng Bí thư D.Raja khẳng định sẵn sàng làm tất cả những gì cần thiết để tiếp tục đưa quan hệ hai Đảng, hai nước không ngừng phát triển, trong đó có các hoạt động trao đổi đoàn.

Về phần mình, Đại sứ Nguyễn Thanh Hải đã cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của Tổng Bí thư D.Raja và chuyển lời thăm hỏi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Tổng Bí thư D.Raja. Đại sứ cũng chuyển thư chúc mừng của đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương tới lãnh đạo Đảng Cộng sản Ấn Độ về kết quả bầu cử Hạ viện Ấn Độ vừa qua.

Đại sứ bày tỏ vui mừng trước sự phát triển bền chặt của mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Ấn Độ, đồng thời nhấn mạnh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trân trọng mối quan hệ truyền thống, gắn bó sâu sắc giữa hai đảng. Đại sứ khẳng định sẽ tiếp tục phối hợp với Đảng Cộng sản Ấn Độ thúc đẩy quan hệ giữa hai đảng, hai nước phát triển vững mạnh, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ xã hội ở khu vực và trên thế giới.

Cùng ngày, trong cuộc gặp Trưởng Ban Quốc tế BJP, Tiến sĩ Vijay Chauthaiwale, tại trụ sở đảng ở thủ đô New Delhi, Đại sứ Nguyễn Thanh Hải chúc mừng kết quả mà BJP và Liên minh Dân chủ quốc gia (NDA) đã đạt được tại cuộc bầu cử Hạ viện Ấn Độ vừa qua, qua đó đã giúp liên minh cầm quyền NDA giành được nhiệm kỳ thứ ba liên tiếp.

 Đại sứ khẳng định, Việt Nam mong muốn tăng cường quan hệ hợp tác trên kênh đảng với BJP, coi quan hệ đảng là nền tảng chính trị quan trọng để phát triển hơn nữa quan hệ hai nước. Đại sứ đề nghị, trên nền tảng hợp tác giữa hai đảng thời gian qua, hai bên cần tăng cường các hoạt động trao đổi đoàn ở cấp cao và các cấp, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm cầm quyền.

Đại sứ cũng chia sẻ những phát triển mới trong quan hệ hai nước thời gian qua, nhất là việc kết nối hàng không trực tiếp giữa hai nước đã lên mức 65 chuyến/tuần, du lịch giữa hai nước tăng trưởng nhanh, đạt 392.000 lượt trong năm 2023, hoạt động đầu tư có những đột phá mới, ngày càng nhiều doanh nghiệp hai nước thăm lẫn nhau để triển khai các hoạt động hợp tác, kinh doanh.

Trưởng Ban Quốc tế BJP Ấn Độ, ông Vijay Chauthaiwale, đã bày tỏ vui mừng về sự phát triển tích cực của quan hệ hai nước, hai đảng; trao đổi về tình hình của Đảng Nhân dân Ấn Độ thời gian qua, nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm của đảng là gắn kết với cử tri, với nhân dân Ấn Độ, lắng nghe nguyện vọng, mong muốn của người dân để đáp ứng được yêu cầu của nhân dân trong quá trình phát triển đất nước.

Ông Chauthaiwale cũng bày tỏ mong muốn trao đổi kế hoạch nhằm tăng cường quan hệ giữa Đảng Nhân dân Ấn Độ và Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian tới./.