Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam; là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhận thấy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; các thế lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, tiến hành tác động, phá hoại nội bộ Đảng, làm giảm uy tín, đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, dù có sử dụng "trăm phương nghìn kế", các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của toàn dân tộc đồng lòng đi theo Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.
Trong thời gian qua, các thế lực thù địch,
phản động đẩy mạnh chống phá cách mạng Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng, bằng cách công kích, xuyên tạc trên nhiều phương tiện truyền
thông, nhất là trên Internet, các mạng xã hội. Chúng tiếp tục rêu rao, lặp lại
luận điệu cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ
khả năng để lãnh đạo đất nước trong bối cảnh thế giới có nhiều bất ổn, xu hướng
bùng nổ thông tin và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, kết cấu
xã hội Việt Nam đã có sự chuyển biến theo hướng đa dạng, nhiều tầng nấc, xu
hướng dân chủ hóa ngày càng được coi trọng... Thực chất, đây cũng chỉ là chiêu
trò cũ hòng phủ nhận thành tựu cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, gây sự phân tâm trong xã hội, làm
suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng
thời từng bước tạo dựng cơ sở tư tưởng và xã hội nhằm xác lập chế độ chính trị
đa nguyên, đa đảng theo con đường tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, hòng lái Việt
Nam phát triển đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Để lập luận, minh chứng cho luận điệu này, chúng đưa ra
nhiều lý lẽ khác nhau để tấn công, chống phá như:
Chúng xuyên tạc, phủ nhận lịch sử và thành quả đấu tranh
cách mạng vẻ vang của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chúng quy chụp Đảng có nhiều sai lầm trong quá khứ và dù quá khứ có làm được
một số việc thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử,
không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước. Chúng viện dẫn phiến diện và xuyên
tạc thực tiễn lịch sử để cố chứng minh chế độ một đảng lãnh đạo là “sai lầm”,
rằng nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam trên chính trường thì dân tộc ta không
phải tiến hành mấy cuộc chiến tranh lâu dài và đau thương như thế và rằng, nếu
Đảng Cộng sản Việt Nam không “tiếm quyền” thì Việt Nam đã đứng trong hàng ngũ
các nước phát triển từ lâu.
Chúng đưa ra những luận điệu vu khống cực kỳ phản
động: “Cộng sản khinh dân, Đảng Cộng sản đã mạo nhận là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động. Trong lịch sử, không có khi nào Đảng Cộng sản phục vụ lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động mà cộng sản chỉ lợi dụng công nhân và nhân
dân lao động để phục vụ quyền lợi của Đảng Cộng sản”. Từ việc đưa ra những luận
điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế
lực thù địch còn lên tiếng đòi xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền lãnh đạo của Đảng.
Chúng cho rằng tình hình, điều kiện, bối cảnh mới ngày
nay đã khác và có nhiều thay đổi về bản chất với vai trò của khoa học công
nghệ, đội ngũ trí thức ngày càng tăng, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là phát
triển kinh tế thì giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng lãnh đạo đất nước trong
thời gian tới. Từ đó, chúng đòi Đảng tự nguyện rời bỏ vai trò lãnh đạo, vì theo
chúng: “Đảng chỉ giỏi lãnh đạo trong chiến tranh, còn trong xây dựng kinh tế thì
nên trao quyền cho lực lượng chính trị khác”.
Bên cạnh đó, chúng còn triệt để lợi dụng những khó khăn,
tồn tại của đất nước trong công cuộc đổi mới để tuyên truyền, xuyên tạc, phủ
nhận đường lối lãnh đạo, thành tựu phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, kích
động tâm lý hoài nghi trong xã hội; cổ súy, tung hô việc phát triển nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, làm mất phương hướng, niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc trắng trợn tình
hình tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam; lợi dụng những
vụ án tham nhũng liên quan đến cán bộ, đảng viên đã xảy ra hoặc những sự việc
tiêu cực trong xã hội để suy diễn, quy kết “do tham nhũng” và thổi phồng cho đó
là tình trạng “phổ biến”, “bản chất” của chế độ xã hội chủ nghĩa, một “căn
bệnh” do cơ chế độc đảng lãnh đạo, do “năng lực quản lý yếu kém” của Nhà nước…
Trong bối cảnh
mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất hội tụ đầy đủ các
phẩm chất, năng lực, tiêu chí để lãnh đạo đất nước, dân tộc Việt Nam phát triển
Thắng lợi oanh liệt mùa xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ
vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống
trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta;
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước; mở ra thời kỳ mới-
thời kỳ độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
cách mạng Việt Nam có những thuận lợi, song cũng không ít khó khăn, mà khó khăn
lớn nhất là nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất lao động
thấp, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề. Chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động
luôn tìm mọi cách phá hoại. Chủ nghĩa xã hội thế giới gặp phải những khó khăn,
thử thách lớn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào, đặc biệt từ khi chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Quá trình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn
đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975- 1985),
cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn trở ngại, thu được những thành
tựu quan trọng.... Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế- xã hội còn thấp so
với yêu cầu kế hoạch và công sức bỏ ra, nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm
trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội ngày càng
gay gắt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã nghiêm khắc
kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ
những sai lầm, khuyết điểm, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hiện nay trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực
diễn biến nhanh chóng, phức tạp, hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa
học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp tục là
trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến lược
ngày càng quan trọng... Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực cũng nảy sinh
những vấn đề phức tạp: cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn; chủ nghĩa dân
tộc cực đoan, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy; biến động chính trị và xung đột ở
nhiều nơi; diễn biến căng thẳng ở Biển Đông đe dọa hòa bình, ổn định và tác
động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, đại dịch
Covid-19 (bắt đầu bùng phát ở Vũ Hán, Trung Quốc, tháng 12/2019) chưa từng có
trong lịch sử xảy ra trên toàn cầu ảnh hưởng rất nghiêm trọng, kinh tế thế giới
rơi vào tình trạng suy thoái, hậu quả dự kiến kéo dài nhiều năm. Đảng Cộng sản
Việt Nam với những truyền thống quý báu như: Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định mục tiêu lý tưởng cách mạng; tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo; kiên
định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn
bó mật thiết với nhân dân; kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của Đảng; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế... Sau 35 năm
thực hiện công cuộc đổi mới, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng
bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và
tinh thần được cải thiện rõ rệt. Những thành tựu rất quan trọng
của đất nước trong thời gian qua là cơ sở
khách quan để khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu đó cũng ngày càng khẳng định vai
trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc
đúng như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã khẳng định trong Diễn văn Kỷ
niệm 90 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/2020): Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác,
ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng
lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của
dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. “Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay”:
(1) Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, trong
suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Sau
35 năm đổi mới quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước ngày càng lớn mạnh, từ
chỗ chỉ đạt 6,3 tỉ USD vào năm 1989 đã không ngừng tăng lên, đạt 342,7 tỉ USD
vào năm 2020; tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt gần 7%, trong đó có 20
năm liên tiếp (từ 1991-2010) GDP tăng bình quân 7,34%. Đặc biệt năm 2020 dù
trong muôn vàn khó khăn bởi dịch Covid-19, lũ lụt ở miền Trung và sự suy thoái
nghiêm trọng của kinh tế thế giới kể từ đại suy thoái 1929-1932, nhưng chúng ta
đã thực hiện có hiệu quả “mục tiêu kép”, vừa phòng, chống dịch vừa phát triển
kinh tế - xã hội, Việt Nam vững vàng vượt qua “phép thử”, kinh tế nước ta vẫn
kiên cường duy trì tăng trưởng dương 2,91% trong khi kinh tế thế giới suy
thoái, tăng trưởng âm gần 4%; năm 2021 GDP tăng
2,58%, thu ngân sách nhà nước vẫn tăng 16,4%, cao hơn mức tăng 11,3% của năm
2020. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt mức kỷ lục 668,5 tỷ
USD, tăng 22,6% so với năm 2020 (đưa Việt Nam trở thành 1 trong 20 nước có nền
kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại); cán cân thương mại duy trì xuất siêu
năm thứ 6 liên tiếp, đạt khoảng 4 tỷ USD. Theo tính toán của Quỹ Tiền tệ
Quốc tế quy mô nền kinh tế nước ta đạt 340 tỷ USD - đứng trong tốp 40 nền kinh
tế lớn nhất thế giới, tương đương và vượt qua một số nền kinh tế lớn trong khu
vực, kể cả một số “con hổ” của Châu Á. Tạp chí Nhà Kinh tế của Anh xếp Việt Nam
trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Kinh tế vĩ mô ổn
định, lạm phát được kiểm soát. Về triển vọng lâu dài, Tập đoàn Pricewaterhouse
Coopers dự báo đến năm 2050, Việt Nam sẽ lọt vào Top 20 nền kinh tế lớn nhất
thế giới. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay, Việt Nam đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), có
quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất
khẩu của ta, có quan hệ hợp tác với 500 tổ chức quốc tế; có 71 quốc gia công
nhận nền kinh tế thị trường Việt Nam. Trở thành thành viên của hơn 70 tổ
chức khu vực và quốc tế, các tổ chức tài chính toàn cầu như Ngân hàng Thế giới,
Quỹ tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới, các tổ chức hợp tác kinh tế -
xã hội trong khuôn khổ LHQ và nhiều tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực như
ASEAN, APEC, Tiểu vùng Mê-công mở rộng. Dư
luận đánh giá tích cực về vai trò, vị thế của Việt Nam ở trong khu vực và trên
thế giới, trong đó nhấn mạnh, Việt Nam hiện trở thành địa chỉ tin cậy đối với
giới đầu tư nước ngoài. Báo chí nước ngoài, các tổ chức quốc tế, chuyên gia
kinh tế, tài chính quốc tế đánh giá Việt Nam là “Con rồng của châu Á”, “Ngôi sao sáng trong bầu trời COVID-19 tối tăm”,
“Triển vọng sáng nhất châu Á” và Tờ Khaleej Times (UAE) gọi
tên “Việt Nam - Phép màu kinh tế kỳ diệu của Á Châu”. Ngay cả nguyên Tổng thống Mỹ Donald Trump
cũng nhận định: “Việt Nam là một trong những nền kinh tế có
tốc độ phát triển nhanh nhất, thể hiện rõ nhất với việc hợp tác thương mại hai
nước tăng gấp 100 lần trong 20 năm qua”. Đặc biệt, báo chí của Ấn Độ
nhận định “Giờ đây Ấn Độ đang thua xa Việt Nam về mọi mặt FDI lẫn xuất nhập khẩu”... Có một cuốn sách có tên là CƯỜNG QUỐC TRONG
TƯƠNG LAI do chính khách người Nhật Hamada Kazuyuji viết rằng: Trong bản đồ cường quốc thế giới năm 2030,
dưới con mắt của người Nhật Bản, trong các “cường quốc tương lai” ấy có Việt
Nam.
(2) Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển
văn hóa - xã hội. Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng
kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người,
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh
tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao,
chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về
giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực. Năng lực của
hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển… Việt Nam là một trong số ít
quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm
chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim,
gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19;
chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin
phòng Covid-19...Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và
Nhà nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội
ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Việt Nam đã
hoàn thành được Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và
thiếu đói. Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều của Việt Nam giảm từ 9,9% (năm 2015)
xuống còn khoảng dưới 3% (năm 2020), được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong
các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong thực hiện Mục tiêu Thiên
niên kỷ và Tổ chức Lương thực quốc tế (FAO) vinh danh Việt Nam là 1
trong 38 quốc gia có thành tích nổi bật về xóa đói giảm nghèo. Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo và
dạy nghề được nâng lên, thể hiện qua một số chỉ số thăng hạng như xếp hạng đại
học tăng 12 bậc từ hạng 80 lên 68; tuổi thọ trung bình tăng từ 72,9 tuổi (năm
2010) lên 73,7 tuổi (năm 2020). Chỉ số phát triển con người (HDI) xếp thứ
116/189, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế
giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% (năm 2010) lên khoảng 65% (năm
2020). Tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia được tăng cường; chỉ số đổi mới
sáng tạo toàn cầu của Việt Nam (chỉ số GII) từ vị trí thứ 59 (năm 2016) lên thứ
42 (năm 2020) trên 131 quốc gia và nền kinh tế, tiếp tục dẫn đầu trong nhóm
quốc gia có cùng mức thu nhập trung bình thấp.
(3) Quốc phòng, an ninh, sức mạnh quân sự được củng cố. Tiềm lực quốc
phòng, an ninh được củng cố và tăng cường; trong 35 năm thực hiện công cuộc đổi
mới toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, môi trường
hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước. Chuyên gia quốc tế đánh giá quân
đội Việt Nam là một trong những lực lượng quân sự giàu kinh nghiệm nhất thế
giới. Theo bảng xếp hạng
quân sự thế giới của trang Global Fire power năm 2020, Việt Nam đứng 22/138
quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng, riêng ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam
đứng thứ hai, sau Indonesia. Dư luận thế
giới ủng hộ, đánh giá cao các biện pháp kiên quyết, kiên trì của Việt Nam trong
việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển
Đông. Trước vụ việc nhóm tàu Hải Dương 8 vi phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa của Việt Nam, báo chí phương Tây cho rằng, vụ việc là “một thách thức
trực tiếp đối với quyền lực chính trị Việt Nam”; tuy vậy, Việt Nam đã đưa ra
những “chỉ trích sắc bén”, phát biểu “mạnh mẽ, xuyên suốt” và nhận được sự ủng
hộ mạnh mẽ của dư luận quốc tế. Trong những năm gần đây, dư luận phương Tây
nhận định, Việt Nam là nước có phản ứng “dũng cảm”, “cứng rắn”, “kiên quyết”
nhất đối với Trung Quốc ở Biển Đông, với một chiến lược “vừa hợp tác, vừa đấu
tranh”; dư luận nước ngoài cũng đánh giá cao sự “khéo léo” của Việt Nam trong
việc đưa các nội dung về Biển Đông tại các hội nghị lớn của khu vực và quốc tế.
Việc hợp tác quốc phòng cũng là nội dung được dư luận báo chí nước ngoài quan
tâm như việc đón tàu sân bay USS Carl Vinson của Mỹ năm 2018, năm 2020 và hải
quân các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Ấn Độ, Nga...Dư luận cho rằng đây là
chính sách “ngoại giao pháo hạm” mới của Việt Nam khi tận dụng sức mạnh hải
quân các cường quốc thế giới để tạo tính biểu tượng, đối phó Trung Quốc. Tháng
6/2014, Việt Nam chính thức cử lực lượng tham gia hoạt động giữ gìn hòa bình
của Liên hợp quốc. Tính
đến 8/2020, Việt Nam đã cử 246 lượt cán bộ tham gia công tác tại trụ sở liên
hợp quốc và các phái bộ giữ gìn hòa bình Liên hợp quốc tại Cộng hòa Trung Phi
và Nam Sudan; trong đó có 189 cán bộ nhân viên trong đội hình dã cheiesn cấp 2;
có 4 sĩ quan làm việc tại Cục Hoạt động hòa
bình, trụ sở LHQ ở New York (Hoa Kỳ) và Sở chỉ huy Phái bộ Cộng hòa Trung Phi.
(4)
Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày
càng được nâng cao. Hoạt động đối ngoại
và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu: Từ
một nước chưa có tên trên bản đồ thế giới (trước 02/9/1945), bị chia cắt (1954
- 1975), bị bao vây, cấm vận (thập niên 80 của thế kỷ XX), với đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc
gia thành viên Liên Hợp quốc. Việt Nam đã hình thành và phát triển mạng lưới
quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước; trong đó có 17 Đối
tác chiến lược (Trung Quốc, Nga, Ấn Độ là Đối tác chiến lược toàn diện), 13 Đối
tác toàn diện. Như vậy, Việt Nam đã thiết lập khuôn khổ Đối tác chiến lược, Đối
tác toàn diện với toàn bộ 5 nước thành viên Thường trực HĐBA LHQ; toàn bộ G7;
17/20 nước và tổ chức trong G20 và tất cả các nước trong ASEAN. Đồng thời, là
thành viên tích cực, tham gia có hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp
quốc. Hiện nay, nhiều nước cũng muốn nâng
cấp quan hệ với Việt Nam lên Đối tác chiến lược, như Mông Cổ, Bun-ga-ri,
Ba-lan, Pa-kit-tan... Trong các diễn đàn đa phương, nhất là khi được Mỹ và
Triều Tiên lựa chọn Hà Nội là địa điểm tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều
vào tháng 02/2019 thì Việt Nam ngày càng tạo dựng vị thế và nhận được sự tin
tưởng của cộng đồng quốc tế. Đáng tự hào hơn, khi Việt Nam được bầu vào Ủy viên
không thường trực HĐBA LHQ với số phiếu cao kỷ lục 192/193 - đây là điều chưa
từng có trong 74 năm lịch sử từ khi thành lập của Liên Hợp quốc và chúng ta được
bầu làm Chủ tịch HĐBA LHQ hai lần trong một nhiệm kỳ (tháng 01/2020 và tháng
4/2021) - là vinh dự không phải quốc gia nào cũng có được; những thành tựu trong đối ngoại và hội nhập quốc
tế đã góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam đang dần trở
thành “một ngôi sao sáng” trên truyền thông quốc tế, nhất là vào các thời điểm
Việt Nam tổ chức thành công các hội nghị quan trọng như: Năm APEC Việt Nam, Hội
nghị Thượng đỉnh Diễn đàn Kinh tế thế
giới -ASEAN năm 2018, Hội nghị Thượng
đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên năm 2019 và đặc biệt trong bối cảnh đại dịch
Covid-19, Việt Nam vẫn hoàn thành tốt với vai trò là Chủ tịch ASEAN năm 2020, tổ chức thành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần
thứ 31; chúng ta đã thành công trong việc chuyển đổi hình ảnh từ “một cuộc
chiến tranh” sang hình ảnh của “một đất nước”. Thế giới ngày càng biết đến Việt
Nam như một quốc gia yên bình, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, người dân Việt Nam thân thiện,
hiếu khách, cần cù, sáng tạo.
Nhìn chung, dư luận
quốc tế đánh giá sức mạnh tổng hợp của Việt Nam đã được nâng cao đáng kể, bày
tỏ ngưỡng mộ những thành tựu và coi Việt Nam là một trong những “hình mẫu” tiêu
biểu về thực hiện hiệu quả công cuộc giảm nghèo, phát triển đất nước, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định. Báo chí nước ngoài đánh giá, sau 35 năm đổi mới, Việt
Nam đã sẵn sàng để thể hiện vai trò quốc tế, thế giới đang chứng kiến một Việt
Nam tự tin trên vũ đài thế giới, có những đóng góp quan trọng cho khu vực. Việt
Nam chính là tấm gương phản chiếu những lý tưởng và giá trị mà ASEAN có thể
mang lại cho nhân dân các nước trong khu vực.
Với những thành tựu
to lớn, toàn diện đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực đã chứng minh lời phát
biểu: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng “càng ngày càng thấy đúng” chứ không phải là sự chủ quan, kiêu ngạo.
Những thành quả trên không có sẵn, nó được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi,
nước mắt của dân tộc ta.
Nhà lãnh đạo cách
mạng tư sản Anh Oliver Cromwell (1599 - 1658) đã nói: “Người ta không thể đi xa khi không biết mình đi đâu”. Dưới ánh
sáng Đại hội XIII của Đảng với những đường lối, chiến lược, quyết sách đổi mới,
sáng tạo, phát triển; với khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường. Tin
tưởng rằng, với bộ máy lãnh đạo mới có tâm, có tầm; với niềm tin, sự đồng thuận
của nhân dân; sự ổn định về chính trị, kinh tế-xã hội; sự ủng hộ, kính nể của
bạn bè quốc tế và đặc biệt với cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, chúng ta sẽ đạt
được các mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác
định: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại,
vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập
Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới
đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân
dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của
thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Những quan điểm sai lầm, suy diễn về vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử,
không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước là quan điểm phản động, sai trái,
không có cơ sở thực tiễn, quan điểm này đã dựa trên những phân tích, nhận xét
không khoa học, không hệ thống và không toàn diện, quan điểm này hết sức phiến
diện, quy chụp, phi thực tế khi không thấy rõ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt
Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thừa
nhận những thành quả trong phát triển đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian qua. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và
những thành quả mà Nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 92 năm
qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch đó và chứng minh Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét