Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Tỉnh táo cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc

 Tỉnh táo cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc

Có thể nhận thấy, mục đích đê hèn của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lợi dụng dân chủ, nhân quyền là “chiêu bài” cuối cùng để chống phá Đảng, chống phá Nhà nước để đi tới âm mưu lật đổ chính quyền. Như đã chỉ ra ở trên, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những vấn đề có tính nhạy cảm như vấn đề xã hội, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền… để chống Việt Nam. Các hành vi này có tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt và nguy hiểm.

Đơn cử, như mới đây nhất, ông Thích Minh Tuệ từ hình ảnh một khất sĩ đầu trần chân đất, mặc tấm y chắp vá từ nhiều mảnh vải, đi khất thực dọc theo các tuyến đường từ Nam ra Bắc đã được các youtuber, tiktoker, facebooker… thổi lên thành “hiện tượng mạng”. Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, việc nhiều người đi theo ông Thích Minh Tuệ đã gây ảnh hưởng đến giao thông, trật tự, trong đó một số người gặp vấn đề về sức khỏe, có người bị sốc nhiệt, đuối sức, nằm gục trên mặt đường, có người bị tử vong. Trước những sự việc nêu trên, các cơ quan chức năng đã gặp gỡ, trao đổi với ông Thích Minh Tuệ về việc Nhà nước nhất quán chủ trương tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; chính quyền các địa phương đã luôn quan tâm, tạo điều kiện để ông Thích Minh Tuệ được đi bộ và hành trình theo ý nguyện, song cần phải bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho bản thân ông và người dân, cũng như sự ổn định xã hội. Ông Thích Minh Tuệ đã nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của công dân, tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực. Thế nhưng, khi ông Thích Minh Tuệ tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực, các tổ chức như Việt Tân, Đài Á Châu Tự do, Chân trời mới media, Thời báo.de… liên tiếp xuyên tạc việc ông Thích Minh Tuệ dừng khất thực do bị “trấn áp”, xuyên tạc chính quyền đang “vùi dập một người chân tu chân chính”, “áp đặt người dân không được sống đúng với tín ngưỡng, tự do tôn giáo”. Từ đó, các tổ chức này xuyên tạc về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam, cố tình thổi phồng, và đưa thông tin không đúng sự thật, qua đó gieo rắc hoài nghi, phân biệt giữa người tu trong các tổ chức tôn giáo, kêu gọi người dân lên tiếng phản đối chính quyền, cổ súy người dân tiếp tục xuống đường…

Do vậy, để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, thì mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần hết sức tỉnh táo, đề cao cảnh giác tin tưởng, kiên định, giữ vững con đường cách mạng và thành tựu đổi mới, hội nhập, phát triển của đất nước ta. Trong đó, cần thiết phải nhận diện thấy rõ những âm mưu lợi dụng “dân chủ, nhân quyền” thông qua việc tìm hiểu những đặc điểm, ngôn từ, cách diễn đạt, nguồn địa chỉ thông tin, video, so sánh kiểm chứng đúng – sai, thật – giả trên các trang mạng khác nhau, xác định đường liên kết tên miền của Việt Nam hay nước ngoài của những tổ chức trong nước hay là các tổ chức phản động, lưu vong dựng chuyện. Từ đó, có những nhìn nhận chính xác được vấn đề, nhất là mạng xã hội mà các thế lực thù địch dùng làm phương tiện triển khai “chiêu bài nhân quyền”. Đồng thời, theo điều kiện và khả năng thực tế cần tích cực tham gia đóng góp công sức vào quá trình phát triển của đất nước; chủ động đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Bảo vệ quyền con người trên không gian mạng

 Bảo vệ quyền con người trên không gian mạng

Thực tế, hiện nay các quốc gia trên thế giới đều đã quan tâm đến những diễn biến, phát ngôn, hoạt động trên không gian mạng, theo số liệu thống kê của Liên Hợp Quốc, 138 quốc gia (trong đó 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật An ninh mạng, với nhiều cái tên khác nhau nhưng nội dung chính là nhằm cải thiện tình hình an ninh thông tin của các doanh nghiệp, cơ quan công quyền cũng như bảo vệ quyền của người dân trên môi trường không gian mạng. Cần phải khẳng định rõ rằng, Việt Nam cũng như các quốc gia khác ban hành Luật An ninh mạng không phải cấm đoán công dân tham gia hoạt động trên không gian mạng hoặc đăng tải, sử dụng thông tin trên không gian mạng… Luật An ninh mạng của Việt Nam tạo cơ sở để giúp các cơ quan chức năng thực hiện các hoạt động phòng, ngừa và xử lý hành vi sử dụng không gian mạng xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; trong đó Luật cũng liệt kê rõ ràng, cụ thể các hành vi nghiêm cấm về an ninh mạng, trong đó có những hành vi xâm phạm đến quyền con người. 

Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024

Cuộc “gặp gỡ lịch sử” giữa Nguyễn Ái Quốc với Lenin

Những ngày cuối năm 1923, đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã lên đường đến đất nước Liên Xô - đất nước của Lenin vĩ đại. Đến Liên Xô, Người đã không gặp được Lenin vì Lenin đã từ trần. Báo Sự Thật ngày 27/01/1924 đăng bài viết của Nguyễn Ái Quốc với tiêu đề “Lenin và các dân tộc thuộc địa”, trong bài viết này, Nguyễn Ái Quốc đã dành những tình cảm vô cùng kính trọng đối với Lenin: “Khi còn sống, Người là cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”

Cuộc “gặp” đầu tiên

Thực ra, Nguyễn Ái Quốc đã “gặp” Lenin từ năm 1920 sau khi Người đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin. Theo sách “Hồ Chí Minh - những sự kiện” thì sau ngày 17/7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc tác phẩm này đăng trên báo L’Humanité (tức báo Nhân Đạo) ra ngày 16 và 17/7 /1920. Sau này, có lần Người đã kể lại sự kiện trọng đại này: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên, như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.

Tác phẩm này của Lenin đã đề cập đến những vấn đề mà Người đang khao khát tìm hiểu và giúp Người nhìn rõ hướng đi của nhân dân các nước thuộc địa. Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lenin” (năm 1960), Người viết: “Điều mà tôi muốn biết hơn cả - và cũng chính là điều mà người ta không thảo luận trong cuộc họp là: Vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa?...Có mấy đồng chí đã trả lời: Đó là quốc tế thứ ba, chứ không phải Quốc tế thứ hai. Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lenin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân đạo”. Kể từ khi đọc được tác phẩm này của Lenin, trong các cuộc họp, Người đã đáp trả mạnh mẽ những lời lẽ chống lại Lenin với lập luận và lý lẽ duy nhất là: “Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng chí không bênh vực cho các dân tộc thuộc địa thì đồng chí làm cái cách mạng gì?”

Theo con đường của Lenin

Tháng 12/1920, Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tours, 370 đại biểu và khách mời tới dự, trong đó có 285 đại biểu đại diện cho 89 đảng bộ của toàn nước Pháp và các nước thuộc địa của Pháp. Nguyễn Ái Quốc là người bản xứ duy nhất trúng cử đại biểu của đại hội.

Tại đại hội này, Nguyễn Ái Quốc chính thức ngồi vào hàng ghế của phe “tả”, một bên Người là Paul Vaillant-Couturier (người sau đó không lâu đã cùng Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí đứng ra thành lập Đảng Cộng sản Pháp), một bên là đồng chí Marcel Cachin, nhà hoạt động chính trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp và là Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Pháp sau này. Marcel Cachin chính là người đã giới thiệu Nguyễn Ái Quốc vào Đảng Xã hội Pháp. Khi Marcel Cachin làm Giám đốc tờ báo Nhân Đạo, ông đã khuyến khích và ủng hộ Nguyễn Ái Quốc viết các bài đăng trên tờ báo này. Báo Nhân Đạo cũng chính là một tờ báo mà Lenin vẫn đọc một cách thích thú.

Tại đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba của Lenin. Sau cuộc bỏ phiếu, nữ đồng chí Rose, người ghi biên bản tốc ký của đại hội đã hỏi Nguyễn Ái Quốc: “Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế thứ ba?”. Nguyễn Ái Quốc đã trả lời: “Tôi hiểu rõ một điều, Quốc tế thứ ba rất chú ý đến giải quyết vấn đề giải phóng thuộc địa…Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, là tất cả những điều tôi hiểu”.

Ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc cùng những người chủ trương gia nhập Quốc tế thứ ba tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản. Kể từ lúc này, Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản và là người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Chính nhờ học thuyết của Lenin mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc Việt Nam, một công việc mà các bậc tiền bối dù vô cùng yêu nước, vô cùng dũng cảm song đã chưa hoàn thành.

Sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” cho biết khi Người đến Leningrad năm ấy, sau một thời gian chính 2 người bạn là Paul Vaillant-Couturier và Marcel Cachin đã tới “nhận mặt” Nguyễn Ái Quốc và đưa Người về Moscova. Nhà sử học người Pháp Charles Fourniau thì nhận xét: “Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng vào việc hình thành truyền thống chống chủ nghĩa thực dân, một truyền thống làm vẻ vang cho Đảng Cộng sản Pháp...Vậy thì hẳn rằng, người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam sau đó phải được coi là một trong những người thầy của Đảng Cộng sản Pháp về những vấn đề thuộc địa”.

Nhớ ơn Lenin

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi các phong trào yêu nước nổ ra và thất bại, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Nhớ lại sự kiện này, sau này Người đã viết: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”.

Kể từ năm 1920, khi bắt gặp chủ nghĩa Lenin thì câu hỏi Việt Nam nên đi theo con đường cứu nước nào đã được giải đáp, đó là con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, con đường cách mạng của Lenin.

Tiếp thu chủ nghĩa Marx - Lenin, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến việc thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân, chuẩn bị những tiền đề về lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” viết năm 1927 dùng để đào tạo những người cách mạng lớp đầu tiên tại Quảng Châu, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ, rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng, muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa…Lenin”.

Là một dân tộc với truyền thống và đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, 31 năm sau khi Lenin qua đời, Bảo tàng Phòng làm việc và nơi ở của Lenin chính thức mở cửa và người nước ngoài đầu tiên đến thăm Bảo tàng là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Hồ Chí Minh. Trên trang đầu của cuốn Sổ ghi cảm tưởng của Bảo tàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Lenin, người thày vĩ đại của cách mạng mạng vô sản. Cũng là một vị đạo đức rất cao, dạy chúng ta phải thực hiện cần kiệm, liêm, chính. Tinh thần Lenin muôn đời bất diệt”. 13/6/1955, Hồ Chí Minh”.



- Ảnh 2: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản t


- Ảnh 3: Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam viếng lãnh tụ Lenin trong dịp Đoàn sang dự lễ kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, năm 1957

  Tăng cường quán triệt, thống nhất nhận thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí, đội ngũ cán bộ, đảng viên đang công tác trong các cơ quan báo chí về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí

          Đại hội XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

          Đối với cấp ủy, đội ngũ cán bộ, đảng viên các cơ quan báo chí vừa là chủ thể thực hiện, vừa là cơ quan truyền tải các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Do đó, việc đầu tiên là cần tổ chức học tập, quán triệt thường xuyên, nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước làm cho cấp ủy các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu sâu, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng. Trước hết, tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII, nhất là về công tác xây dựng Đảng và xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí./.

Khuyến khích cán bộ trẻ học tiếng Anh để hội nhập

 

Tiếng Anh từ lâu không chỉ là ngoại ngữ mà còn là công cụ giao tiếp mở rộng ra thế giới. Với cán bộ trẻ, tiếng Anh ngày càng không thể thiếu.

Nơi những con tàu vươn mình ra biển lớn

 

Là nhà máy chịu trách nhiệm chính về việc bảo đảm trang bị kỹ thuật, đóng mới tàu thuyền, phương tiện nổi cho các đơn vị trong Quân chủng Hải quân và các lực lượng khác, những năm qua, phát huy truyền thống, Nhà máy X46, Cục Kỹ thuật Hải quân đã chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất.

Lính thợ tận tâm, lặng thầm cống hiến

 

Đến Xưởng X265 (Cục Quân khí, Tổng cục Kỹ thuật) những ngày cuối tháng 6, trong bầu không khí oi nóng, ngột ngạt của xứ Nghệ, hàng trăm nhân viên sửa chữa đạn, thợ cơ khí, thợ mộc vẫn hăng say với nhiệm vụ chuyên môn. Chạy đua với thời gian để bảo đảm các phần việc được hoàn thành theo đúng kế hoạch dường như đã trở thành thói quen của những người “lính thợ” nơi đây.

Xích lô thơ mộng Hà Nội

 

Khác biệt với tour xe buýt 2 tầng, tour xe điện, xe máy, xe đạp ... thì tour xích lô đã trở nên quen thuộc với nhiều du khách Hà Nội. Trên chiếc xe 3 bánh thô sơ, một Hà Nội thơ mộng, yên bình được thu nhỏ theo lăng kính cùng từng vòng bánh xe bon bon trên phố.

Nồng nàn mùa lúa chín

 

Buổi chiều, khi cái nắng nóng hầm hập như rang của tháng 6 dần dịu bớt, tôi rủ cậu con trai năm nay lên lớp 8 đạp xe về phía cánh đồng làng. Rời quê đã gần 40 năm, vẫn tranh thủ những lúc rảnh rỗi trở lại thăm quê, song cũng ngần ấy năm tôi chưa đặt chân trở lại con đường lưu giữ biết bao ký ức của tuổi thơ.

PHÁT HUY TÍNH TIÊN PHONG, GƯƠNG MẪU CỦA ĐẢNG VIÊN

     Là người sáng lập và lãnh đạo Ðảng Cộng sản Việt Nam, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và đề cao vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên, bởi đảng viên có tiên phong, đi đầu thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước thì mới nêu gương được cho nhân dân học tập và noi theo, có như thế mới làm nên thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Ðảng ta đặc biệt đề cao vai trò tiên phong, gương mẫu của người đảng viên và coi đây là một trong những nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội giàu mạnh, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong bối cảnh mới với những yêu cầu mới đặt ra.

    Nhằm cụ thể hóa các quan điểm của Ðảng trong các văn kiện về tăng cường tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trên mọi phương diện, ngày 7/6/2012, Ban Bí thư Trung ương Ðảng đã ban hành Quy định số 101-QÐ/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, trong đó chỉ rõ: cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong thực hiện, tuyên truyền và bảo vệ chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Ðảng, Nhà nước và của nhân dân.

    Ðến ngày 25/10/2018, Ban Bí thư Trung ương Ðảng tiếp tục ban hành Quy định số 08-QÐi/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, trong đó có một số điểm bổ sung, cụ thể hóa hơn Quy định số 101-QÐ/TW nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện tính tiên phong, gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên với yêu cầu cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu nêu gương.

    Mới đây, ngày 9/5/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 144-QÐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, quy định thể hiện quyết tâm của Ðảng ta trong quá trình xây dựng và chỉnh đốn Ðảng để Ðảng ta thật sự vững mạnh, vai trò nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên ngày càng được đề cao.

    Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn của Ðảng, ý thức về việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của đội ngũ đảng viên ngày càng được nâng cao. Ða số cán bộ, đảng viên vẫn luôn giữ vững được tư cách của người đảng viên cộng sản trong bối cảnh mới, luôn tiên phong, gương mẫu đi đầu trong công tác cũng như trong đời sống, thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những quy định của tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương.

    Xuất phát từ vị trí công tác gắn với những yêu cầu và những nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh,… đã có nhiều đảng viên trở thành tấm gương sáng, những điển hình tiên tiến trên mọi lĩnh vực, có sức lan tỏa lớn trong nhân dân. Tiêu biểu như trong phát triển kinh tế, đã xuất hiện nhiều tấm gương đảng viên tiên phong, đi đầu áp dụng các mô hình phát triển kinh tế mới, vận động người dân làm theo từ đó thúc đẩy kinh tế địa phương, giúp nhân dân thoát nghèo bền vững.

    Như tại Thanh Hóa, đảng viên Lê Văn Dũng (thị trấn Vân Du, huyện Thạch Thành) đã tiên phong trong thực hiện mô hình trang trại tổng hợp trồng cây ăn quả kết hợp với chăn nuôi và đào ao thả cá phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của vùng trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật hiện đại, đem lại hiệu quả kinh tế cao, từ đó trở thành mô hình kinh tế của đảng viên có hiệu quả và tạo được sức lan tỏa lớn trong nhân dân.

    Còn tại xã Ia Piar, một trong những xã đặc biệt khó khăn tại huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai với gần 2.000 hộ dân hầu hết đều là người đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ sản xuất thấp, cuộc sống vô cùng khó khăn. Nhận thức được tình hình thực tiễn của địa phương cũng như vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong phát triển kinh tế, giúp đỡ nhân dân, từ cuối năm 2016, Ðảng ủy xã Ia Piar đã triển khai phong trào “Một đảng viên giúp đỡ một hộ nghèo”.

    Hoặc trên lĩnh vực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc; bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng của cán bộ, đảng viên luôn chủ động phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu với tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.

    Nhiều đảng viên đã tích cực sử dụng các trang mạng xã hội vừa để nắm bắt thông tin dư luận xã hội, diễn biến tư tưởng của cộng đồng dân cư vừa để kịp thời tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước cũng như góp phần định hướng cho người dân sử dụng mạng xã hội trong việc tiếp cận, nhận diện, xử lý và đấu tranh chống các thông tin xấu độc, sai trái, thù địch. Những cá nhân này đã trở thành tấm gương sáng về việc sử dụng mạng xã hội một cách linh hoạt, sáng tạo trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, bảo vệ Ðảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

    Có thể khẳng định, những thành tựu to lớn chúng ta đạt được sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng mà Văn kiện Ðại hội XIII đã chỉ rõ: “Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ đảng viên luôn phát huy tính tiên phong, gương mẫu đi đầu của mình trên mọi phương diện, mọi lĩnh vực, trong công tác cũng như trong cuộc sống, hết lòng, hết sức phấn đấu, rèn luyện để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, được nhân dân tin yêu và noi theo. Ðiều đó đã góp phần nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến trong xã hội và đời sống hằng ngày.

    Thực tế sinh động này là minh chứng rõ ràng bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động cho rằng việc nêu gương, tiên phong, gương mẫu đi đầu của đảng viên chỉ là chiêu bài để Ðảng đánh bóng tên tuổi của mình, lòe bịp quần chúng chứ về thực chất thì Ðảng là tổ chức “làm quan phát tài”, là nơi chứa chấp các phần tử chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ mà xâm hại đến lợi ích của nhân dân. Hoặc lợi dụng hiện tượng một số đảng viên có những biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham ô, tham nhũng, không thực hiện trách nhiệm nêu gương của những người cộng sản chân chính, các đối tượng chống phá cố tình phủ nhận tất cả những thành quả mà cách mạng Việt Nam đạt được. Những luận điệu này nhằm bác bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng, phủ nhận sự đóng góp của cán bộ, đảng viên trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, cố tình làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

    Tuy nhiên, cần nhận thức rõ: Ðây chỉ là những trường hợp cá biệt, là những “con sâu làm rầu nồi canh” do không nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình với Ðảng, với nhân dân, hoặc do thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng mà trượt dài sang chủ nghĩa cá nhân, cơ hội và xếp mình vào hàng ngũ của những kẻ phản bội lại lý tưởng chân chính của Ðảng, của người cán bộ, đảng viên.

    Ðể khắc phục tình trạng trên, đồng thời phát huy tốt hơn nữa tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, nêu gương sáng cho quần chúng nhân dân, trong thời gian tới đòi hỏi cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: Trước hết phải đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho mỗi đảng viên về thực hiện trách nhiệm nêu gương. Khi đã có nhận thức đúng và đủ, mỗi đảng viên sẽ chủ động tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ, phẩm chất về mọi mặt, tích cực tiên phong, gương mẫu đi đầu trong phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những cách làm hay, sáng tạo, phù hợp với điều kiện mới, từ đó trở thành những tấm gương tiêu biểu để nhân dân noi theo.

    Cùng với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Ðảng về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đặc biệt là tăng cường thực hiện thực chất, hiệu quả Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về tinh thần nêu gương; cách thức thực hiện và phong cách nêu gương với quan điểm nhất quán: Cán bộ, đảng viên phải làm gương mẫu cho nhân dân, cán bộ cấp trên phải làm gương mẫu cho cán bộ cấp dưới.

    Ðồng thời, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm những đảng viên mắc sai phạm, khuyết điểm trong thực hiện trách nhiệm nêu gương; có cơ chế khen thưởng xứng đáng với những đảng viên phát huy tính tiên phong, gương mẫu đi đầu, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của nhân dân, của đất nước, trở thành những điển hình tiên tiến, tạo sức lan tỏa lớn trong quần chúng nhân dân./.

KHÔNG DAO ĐỘNG, HOÀI NGHI TRƯỚC NHỮNG THÔNG TIN MẠNG XÃ HỘI

 Vừa qua, trên các trang mạng xã hội facebook, như: Việt Tân, Chân Trời Mới Media, Tiếng Dân New,... đã đăng tải, chia sẻ nhiều thông tin, bài viết liên quan đến công tác nhân sự cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội. Trong đó, họ đưa ra những dự đoán, bình luận, suy diễn, xuyên tạc,... về công tác này, nhằm kích động, chia rẽ nội bộ, gây hoang mang, tạo sự hoài nghi, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Trước hết, chúng ta cần thống nhất nhận thức rằng: việc thời gian qua, một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quốc hội đã có đơn xin thôi giữ các chức vụ được phân công, nghỉ công tác là do bản thân những cán bộ đó đã vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chịu trách nhiệm người đứng đầu theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước và đã được các cơ quan cao nhất của Đảng, Nhà nước là Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội đồng thuận, nhất trí cho nghỉ công tác. Điều này, thể hiện những cán bộ có vi phạm đã nhận thức rõ trách nhiệm của bản thân đối với Đảng, Nhà nước, Nhân dân. Đồng thời, khẳng định công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta đang được triển khai quyết liệt, hiệu quả ở tất cả các cấp, từ Trung ương đến địa phương, không có ngoại lệ, không có vùng cấm, nói đi đôi với làm,... để thực sự làm trong sạch bộ máy, nâng cao sức mạnh, khả năng lãnh đạo, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những nguy cơ tha hóa, vi phạm của cán bộ, đảng viên khi Đảng cầm quyền nên Người đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để chỉ ra và phê phán những sai lầm, khuyết điểm dẫn đến có hại cho sự nghiệp cách mạng, nhất là tinh thần tự phê bình và phê bình trong Đảng. Người chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Đến nay, những lời chỉ dạy của Người vẫn còn vẹn nguyên giá trị và được Đảng ta quán triệt, vận dụng vào công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là hoàn toàn đúng đắn, cần tiếp tục làm tốt hơn nữa, để không ngừng củng cố vị thế, uy tín của Đảng.

Thứ ba, thực chất những thông tin các trang mạng xã hội đưa ra về công tác nhân sự đều là do họ tự suy đoán, phán đoán nên đúng thì ít mà sai thì nhiều song đã gây nhiễu loạn trong xã hội. Nguy hiểm hơn, họ còn bình luận, suy diễn, xuyên tạc cho rằng đây là hậu quả của sự đấu đá nội bộ, tranh giành quyền lực giữa các phe phái, kích động chia rẽ nội bộ, tạo sự hoài nghi, gây hoang mang dư luận xã hội và nhân dân. Vậy nên chúng ta cần luôn tỉnh táo, là những người thông thái để nhận diện, không bị mắc mưu của chúng. Chỉ tiếp nhận thông tin từ những nguồn chính thống, tuy có chậm hơn so với mạng xã hội nhưng đây là những thông tin chính thức đã được kiểm chứng, tin cậy. Đồng thời, tin tưởng vào kết quả, thành tựu của công cuộc phòng, chống tham những, tiêu cực, vào sự lãnh đạo của Đảng, không dao động, hoài nghi trước những thông tin trái chiều từ mạng xã hội./.

 

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: NGƯỜI PHỤ NỮ MÁU LẠNH LUÔN MONG THẾ GIỚI CÓ CHIẾN TRANH ĐỂ LÀM GIÀU CHO NƯỚC MỸ!

     Người phụ nữ máu lạnh này là Mary Kissel, cựu cố vấn cấp cao của ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo... tác giả của lọ bột màu trắng tí xíu gây nên sự đổ nát tang thương của đất nước Irac một trong những ân nhân của dân tộc Việt Nam!
Hiện bà ta đang là pct kiêm cố vấn chính sách cấp cao tại tổ chức nghiên cứu Stephens Inc một tập đoàn phân tích chính trị tại Mỹ.
 Người phụ nữ này đang gây sự chú ý trên các trang mạng XH trong đó có cả các trang mạng XH Việt Nam với phát biểu liên quan đến Việt Nam trong một cuộc họp gần đây của quốc hội Mỹ bàn về việc TÌM KIẾM NHỮNG QUỐC GIA CÓ THỂ TRỞ THÀNH THẾ LỰC ỦY NHIỆM CHỐNG TRUNG QUỐC .

Theo đó bà ta bàn bạc công khai trước quốc hội Mỹ đại ý là : Việt Nam có thể được sử dụng cho mục đích đó ( trở thành thế lực ủy nhiệm) bởi vì họ không phải là một quốc gia dân chủ ...
Rõ ràng bà ta đã biết khai thác triệt để mối dạn nứt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá khứ để chọn Việt Nam làm thế lực ủy nhiệm chống TQ , cũng giống như người Mỹ đã chọn Ukraina để chống Nga .
Vậy là người Mỹ đã công khai bàn bạc dùng Việt Nam chống Trung Quốc , một đối tác chiến lược toàn diện nhưng trong mắt người Mỹ cũng chỉ được họ coi như quân cờ trong bàn cờ chiến lược của mình mà thôi .
Thực tế họ đã từng dùng chiến tranh ủy nhiệm với công thức : CV Mỹ , Vũ khí Mỹ , quân đội ngụy SG " trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam giai đoạn 1961 - 1965 nhưng bất thành nên buộc người Mỹ phải đưa quân cùng chư hầu tham chiến và đã bại trận thảm hại.
Đến giờ họ lại muốn chơi lại trò cũ nhưng với qui mô lớn hơn tàn khốc hơn cho Việt Nam, còn họ thì càng giàu có hơn.

Ở Mỹ chính khách nào dù là đàn ông hay đàn bà cũng đều quân phiệt và máu lạnh như nhau...Mỗi lời nói, hơi thở của họ đều tanh mùi máu của nhân loại và trong đó có không ít máu của người Việt Nam, ấy vậy nhưng ở ta không ít kẻ mũi đeo khuyên lại mơ mộng giấc mơ Mỹ, muốn ta làm chư hầu của Mỹ như Nhật như Hàn.
Không biết họ vui không nếu như đất nước trở thành Ukraina thứ 2 theo ý người Mỹ?



Yêu nước ST.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài:“Vệ sinh yêu nước” (Phong trào diệt ruồi, muỗi), đăng trên Báo Nhân dân, số 1572, ngày 02 tháng 7 năm 1958. Đây là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Theo Hồ Chí Minh, yêu nước không thể tách rời thương yêu nhân dân, yêu nước không phải là cái gì chung chung, trừu tượng, mà nó được bắt đầu từ những việc nhỏ nhất và thể hiện ở việc làm cụ thể của mỗi người trong đời sống hằng ngày. Người có tinh thần yêu nước sẽ luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân và dù khó khăn, gian khổ thế nào cũng ra sức làm cho kỳ được, còn việc gì có hại cho nhân dân phải ra sức trừ cho kỳ hết. Người cho rằng, ruồi muỗi là bạn đồng minh của giai cấp bóc lột. Nó gây ra nhiều tật bệnh, làm cho nhân dân ta ốm đau. Người ốm đau thì sức lao động bị giảm sút, công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải ra sức tiêu diệt những kẻ địch độc ác bảo vệ sức khỏe, tính mạng và tài sản của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực của một người chiến sĩ cách mạng đã hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang và cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Quán triệt và thực hiện lời dạy trên của Người, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, chấp hành nghiêm 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, được nhân dân tin yêu, ghi nhận và trao tặng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Tích cực làm công tác dân vận, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng – an ninh, phát triển kinh tế – xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,…. Các binh đoàn, đoàn kinh tế – quốc phòng đã gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng – an ninh, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, bao tiêu sản phẩm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới, làm thay đổi bộ mặt nông thôn trên địa bàn đóng quân. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; củng cố, phát huy tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em, xây dựng quê hương giàu mạnh, văn minh.

  

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG TRÀO THI ĐUA

 Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước là hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, được hình thành trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng và truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc, đường lối và thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ nội dung của “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” thể hiện nổi bật tư tưởng của Người về thi đua ái quốc như sau:

Một là, quan điểm thi đua, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Theo Người, thi đua là một trong những biện pháp của quá trình vận động cách mạng, có ý nghĩa sâu sắc, rộng lớn, thi đua không chỉ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, mà quan trọng hơn là cải tạo bản thân con người, nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế, làm cho già, trẻ, gái, trai và tất cả các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội đều hướng tới mục đích chung.

Hai là, mục đích thi đua yêu nước nhằm khơi dậy, phát huy được tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân, làm cho mọi người đều hăng hái, tích cực, sáng tạo, ngày càng làm được nhiều điều tốt hơn trong xã hội… Như vậy, đời sống của nhân dân sẽ ngày càng đầy đủ, no ấm, đất nước sẽ ngày càng giàu lên, quân đội sẽ ngày càng vững mạnh và sẽ hoàn thành được mục tiêu của cách mạng đề ra.

Ba là, nội dung thi đua yêu nước phải toàn diện, phải xuất phát và phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng, phải thiết thực, ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước, gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng ngành, từng cấp, hướng vào cải tạo và xây dựng con người mới, hướng vào giải quyết những vấn đề cơ bản, thiết thực của nhân dân; thi đua phải gắn với công việc hằng ngày của mỗi người.

Bốn là, cách tổ chức phong trào thi đua yêu nước: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”; các phong trào thi đua yêu nước cần phải đa dạng, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự giác, sáng tạo và sức lực của các tầng lớp nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng. Trong quá trình thi đua, Người thường lưu ý, phải coi trọng sáng kiến, tổng kết kinh nghiệm. Từ những sáng kiến và kinh nghiệm trong từng ngành, lĩnh vực, ở một địa phương, cơ quan, đơn vị… sẽ được phổ biến, lan rộng ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều cơ quan, cho đến cả nước; phải coi những sáng kiến, kinh nghiệm là tài sản vô giá, cần được phát huy và phổ biến.

Năm là, phương châm thi đua yêu nước, Người chỉ rõ “thi đua chứ không phải ganh đua” nên cần phải đoàn kết, thân ái giúp đỡ lẫn nhau để đạt thành tích cao; “giúp đỡ những người và những nhóm còn kém theo kịp mức cao hiện nay”; thi đua phải gắn liền với công tác khen thưởng; khen thưởng là kết quả của phong trào thi đua; khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ động viên, giáo dục và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục. Như vậy, thi đua để tăng cường đoàn kết, mà đoàn kết lại đẩy mạnh thi đua.

Sáu là, lực lượng thi đua, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng của phong trào thi đua yêu nước là toàn thể nhân dân: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”. Từ đó, Người nhận định: “Với lòng nồng nàn yêu nước và lực lượng vô cùng tận của nhân dân ta, cuộc Thi đua ái quốc nhất định sẽ thành công to”.

Ngày nay, cách mạng nước ta đang bước vào thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào thi đua yêu nước vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Để vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về ý nghĩa và tác dụng của phong trào thi đua yêu nước; tăng cường giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự lực, tự cường, tự hào dân tộc và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo nên sự đồng thuận thực hiện phong trào thi đua ngày càng phát triển. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thi đua khen thưởng.

“Sáng kiến và kinh nghiệm cũng như những con suối nhỏ chảy vào sông to, những con sông to chảy vào bể cả. Không biết quý trọng sáng kiến và phổ biến kinh nghiệm tức là lãng phí của dân tộc” - Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

 

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG BIỆN PHÁP HÒA BÌNH - CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG ĐÚNG ĐẮN CỦA VIỆT NAM

 Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết

Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.

Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới.

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay./.

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta

 

Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không chỉ mở lối, chỉ đường giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn là cơ sở, nền tảng để dân tộc ta, đất nước ta phát triển, trường tồn. Vì vậy, vận dụng tư tưởng của Người vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là vấn đề quan trọng, cấp thiết trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Thấu hiểu cảnh nước mất, nhà tan, cả dân tộc bị dìm trong lầm than, nô lệ, ngày 05/ 6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thay vì ngồi chờ ngoại viện như các vị tiền bối. Và đích đến đầu tiên của Người là mẫu quốc để “... xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về để giúp đồng bào chúng ta”

Với hành trình đó, đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, lấy tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi “Bản yêu sách 8 điểm” tới Hội nghị Versailles, đòi những quyền dân tộc tự quyết, nhưng không được chấp nhận. Người hiểu rằng: “... muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đi đến nhiều nơi, nghiên cứu, tìm hiểu nhiều trào lưu, nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, như: cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789),... và Người phát hiện đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi”, chỉ phục vụ lợi ích cho thiểu số người giàu, còn giai cấp công nhân và các giai tầng khác vẫn sống trong cảnh nghèo khổ.

Sau gần 10 năm tìm kiếm, khảo nghiệm, tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin và nhận thấy: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Điều này làm chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đây lý luận cách mạng, khoa học - con đường cứu nước đúng đắn, gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách triệt để nhất.

Với trải nghiệm thực tế và tư duy độc lập, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc luôn nuôi dưỡng ý chí đấu tranh và phát triển đất nước theo con đường mới - con đường xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1921 - 1930 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, bắt đầu một thời kỳ hoạt động cách mạng sôi nổi, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Xô-viết - quê hương của V.I.Lênin vĩ đại. Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô tiếp tục sự nghiệp đấu tranh cách mạng theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên - tổ chức cách mạng có khuynh hướng cộng sản; ra báo Thanh Niên để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, đồng thời mở các lớp huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài viết của Người được tập hợp, xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh có giá trị lý luận sâu sắc, đem đến cho dân tộc ta con đường cách mạng đúng đắn, đấu tranh giải phóng khỏi ách nô lệ, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi chuẩn bị cẩn trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thắng lợi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta.

Sau 30 năm bôn ba trở về nước, tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng), quyết định “thay đổi chiến lược” cách mạng giải phóng dân tộc: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ chức vận động, tập hợp lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng; chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hưởng ứng Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với quyết tâm: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, tháng Tám năm 1945 nhân dân ta đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi vĩ đại đó là thắng lợi của hành trình khát vọng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

Kế thừa, vận dụng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Đảng ta luôn quan tâm nghiên cứu, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn; đồng thời, vận dụng sáng tạo trong suốt tiến trình cách mạng nước ta cũng như trong từng giai đoạn lịch sử, được thể hiện trên một số vấn đề cốt lõi.

Thứ nhất, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ khi Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh đạo cách mạng qua nhiều giai đoạn khác nhau. Khi Đảng ra đời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định rõ mục tiêu: “Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập” để đi tới xã hội cộng sản. Với tư tưởng xuyên suốt là độc lập dân tộc, trong giai đoạn 1939 - 1945, các hội nghị Trung ương Đảng chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và độc lập trên hết, Tổ quốc trên hết. Từ đó đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cách mạng Tháng Tám bằng tinh thần, ý chí “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định bảo vệ vững chắc nền độc lập mới giành được, tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, thử thách, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, được thể hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu trực tiếp, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là nhiệm vụ tối cao, huy động mọi giai cấp, tầng lớp để thực hiện với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,... bảo đảm chi viện cho chiến trường miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Đất nước hoàn toàn được độc lập, thống nhất. Từ năm 1975 đến nay, nhiệm vụ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong việc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986, Đảng ta đổi mới tư duy, từng bước xác định đúng mô hình đặc trưng của chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6/1991) và 8 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển (2011). Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục xác định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;...”. Như vậy, sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện ngay trong đường lối lãnh đạo của Đảng và những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực sau gần 40 năm đổi mới đất nước. Điều đó khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thấm nhuần sâu sắc giá trị của lý luận cách mạng, khoa học, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, đẩy mạnh, xây dựng chỉnh đốn Đảng, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức nhiều hội nghị, ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã có sự bổ sung, đổi mới rất căn bản về phạm vi và nội dung, bao gồm toàn bộ các vấn đề “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tại các nhiệm kỳ đại hội của Đảng, nhất là Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “...phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Đồng thời, ban hành đồng bộ hệ thống văn bản nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện. Những quy định của Đảng được thực hiện quyết liệt từ Trung ương đến các địa phương với quan điểm kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng được thực hiện kịp thời, nghiêm minh, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng ở các cấp. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng. Có thể khẳng định rằng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ ba, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường trong công tác quốc phòng, an ninh. Quán triệt sâu sắc tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, làm cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện bằng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; luôn kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, thực hiện “bốn không”, được cụ thể hóa thông qua hệ thống các văn bản, như: Luật Quốc phòng, Sách Trắng quốc phòng Việt Nam 2019, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, v.v. Hoạt động đối ngoại quốc phòng được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tăng cường mở rộng hợp tác quốc phòng với tất cả các nước. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 quốc gia, bao gồm 5 nước là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cường quốc trên thế giới, khẳng định vị thế, uy tín của đất nước, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

 

.