Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Không thể mượn danh nhân quyền để dung túng, cổ vũ đối tượng vi phạm pháp luật.

  Lâu nay, dân chủ, nhân quyền là vấn đề mà các thế lực thiếu thiện chí thường lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Việc trao cái gọi là Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals cho một đối tượng vi phạm pháp luật là hành động mới nhất.

Mượn cớ bảo vệ nhân quyền

Mới đây, tại Geneva, Thụy Sĩ, Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals đã được trao cho Phạm Đoan Trang, người mà Ban tổ chức giải thưởng tung hô là “nhà báo, nhà hoạt động nhân quyền”. Phạm Đoan Trang là ai và có phải là người “bảo vệ quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin của người dân” như mô tả của những người tổ chức giải thưởng nhân quyền Martin Ennals hay không?

Với nhiều người, Phạm Đoan Trang không còn là cái tên xa lạ. Đây là người có hành vi chống đối Nhà nước quyết liệt. Ngày 14-12, Tòa án nhân dân TP Hà Nội tuyên phạt bị cáo Phạm Đoan Trang (43 tuổi, trú quận Đống Đa, Hà Nội, được biết đến là blogger, từng làm việc cho một số trang báo) 9 năm tù về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, quy định tại điều 88 Bộ luật Hình sự 1999.

Phạm Đoan Trang là tác giả của nhiều tài liệu có nội dung hướng dẫn, kích động các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực”… Theo hồ sơ vụ án, năm 2013, do xuất cảnh đi nước ngoài không xin phép nên Trang đã bị cơ quan chủ quản kỷ luật buộc thôi việc. Trong chuyến xuất cảnh trái phép này, Trang đã bị một số đối tượng chống đối chính quyền dẫn dắt, móc nối, lôi kéo.

Trở về nước, Trang trực tiếp thành lập và tham gia điều hành nhiều hội, nhóm bất hợp pháp, đồng thời tụ tập, khuếch trương lực lượng chống đối trong nước, tập hợp lực lượng chống đối trong giới văn nghệ sĩ, trí thức trẻ. Đoan Trang đã viết, phát tán nhiều bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động lật đổ chế độ.

Tòa án nhận định hành vi xuyên tạc đường lối chính sách, phỉ báng chính quyền của bị cáo Phạm Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với mục đích cố ý xâm phạm chế độ XHCN và Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, xã hội, đối ngoại, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân.

Sự thật rõ ràng như vậy, ấy thế nhưng dưới cái cớ bảo vệ nhân quyền, tự do ngôn luận, một số tổ chức nước ngoài, đại diện trong cơ quan ngoại giao của một số nước lại sẵn sàng dùng nhiều mỹ từ ca ngợi, bênh vực Phạm Đoan Trang. Họ sẵn sàng đăng đàn, công bố những cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền”, “Tự do truyền thông quốc tế”, “Phụ nữ can đảm quốc tế”, “danh sách nạn nhân cần bảo vệ”… dành cho Phạm Đoan Trang. Tất nhiên, đi kèm với những việc làm này là “thông điệp” gây sức ép, phản đối và những cáo buộc vô căn cứ, phi lý với Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam.

Lộ liễu chiêu trò, dung túng, cổ vũ cho đối tượng vi phạm pháp luật

Không chỉ Phạm Đoan Trang, thời gian qua, cơ quan bảo vệ pháp luật đã xử lý một số đối tượng khác dựa trên những căn cứ cụ thể của từng bộ luật, trong đó có Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình bắt giữ, xử lý các đối tượng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân đều căn cứ vào những quy định của pháp luật để xử lý đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan sai. Vì vậy, có thể nói, bản án dành cho Phạm Đoan Trang cũng như các đối tượng chống đối khác trong thời gian qua là hoàn toàn đúng quy định, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Những luận điệu bóp méo, xuyên tạc rằng Việt Nam xử lý các đối tượng trên bằng “bản án mơ hồ” “theo ý chí chủ quan”, “áp đặt”, “đàn áp những người bất đồng chính kiến” là hoàn toàn vô căn cứ. Điều này cho thấy một số tổ chức, cá nhân nước ngoài tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền để gây sức ép đối với Việt Nam. Với cái nhìn tiêu cực, thiếu thiện chí với Việt Nam, các cá nhân, tổ chức này lợi dụng triệt để việc Việt Nam xử lý số đối tượng vi phạm pháp luật thuộc nhóm chống đối trong thời gian qua, trong đó có Phạm Đoan Trang để xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, tạo cớ cho một số tổ chức, cá nhân tiếp tục có hoạt động chống phá Việt Nam.

Đây có thể coi là hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Những tổ chức và cá nhân này luôn “ngộ nhận” về những giá trị “tốt đẹp” và “cao quý” của nền dân chủ tư sản phương Tây. Vì muốn áp đặt các giá trị này mà họ sẵn sàng can thiệp vào chính sách nhân quyền của quốc gia khác, kể cả những quốc gia có không ít nỗ lực và thành tựu về dân chủ, nhân quyền được cộng đồng quốc tế thừa nhận như Việt Nam. Với học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, họ sẵn sàng ca ngợi, “bao bọc”, trợ giúp những đối tượng có tư tưởng bất mãn, chống đối chính quyền như Phạm Đoan Trang, kể cả khi các đối tượng này đã bị kết án bởi những phiên tòa công khai, khách quan, dân chủ từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Việt Nam.

Mỗi đất nước có quyền lựa chọn con đường riêng của mình. Sự khác biệt về thể chế chính trị và những đặc thù riêng về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa Việt Nam và các nước phương Tây đương nhiên sẽ tạo nên những hệ giá trị khác nhau, ngay cả với những vấn đề liên quan đến dân tộc, nhân quyền. Nhưng không vì thế mà các giá trị của phương Tây nghiễm nhiên trở nên ưu việt hơn, nổi trội hơn.

Thực tế thời gian qua cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên trì, nhất quán chính sách đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách phát triển. Những thành tựu về nhân quyền của Việt Nam trong thời gian qua là không thể phủ nhận. Điều này đã được nhân dân ủng hộ và các tổ chức uy tín hàng đầu quốc tế công nhận.

Vì vậy, việc các tổ chức, cá nhân xuyên tạc, vu cáo vấn đề dân chủ, nhân quyền của quốc gia khác là xâm phạm vào công việc nội bộ của quốc gia đó. Điều này không thể chấp nhận được đối với một quốc gia có chủ quyền như Việt Nam. Việc ủng hộ, dung túng, cổ vũ cho những đối tượng vi phạm pháp luật, bị đưa ra xét xử, có hành vi chống đối một quốc gia có độc lập, có chủ quyền là điều cần phải lên án.

Đảng và Nhà nước ta luôn hoan nghênh những ý kiến đóng góp xây dựng, phát triển đất nước, đồng thời nỗ lực bảo đảm quyền tự do, dân chủ, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tuy nhiên, mỗi công dân khi thực thi quyền này phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Bất kỳ hành vi nào lợi dụng quyền tự do của bản thân mình để xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đều chịu xử lý của pháp luật và trật tự, kỷ cương chỉ có thể được giữ vững khi pháp luật được thượng tôn. Đó là cơ sở cho sự phát triển ổn định của đất nước, là tiền đề quan trọng để thúc đẩy, bảo đảm và phát huy các giá trị về quyền con người không chỉ ở Việt Nam mà còn ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Hơn 200 tài liệu, hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm “Những ký ức không quên”.

 Triển lãm “Những ký ức không quên” nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Giải phóng Belarus trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã trưng bày hơn 200 tài liệu, hình ảnh với 3 nội dung: Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại; Belarus hồi sinh; Việt Nam - Belarus hợp tác cùng phát triển.

Chiều 2/7, tại Hà Nội, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán Cộng hòa Belarus tại Việt Nam tổ chức trưng bày triển lãm “Những ký ức không quên” nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Giải phóng Belarus trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (03/7/1944 - 03/7/2024).

Tham dự Triển lãm có Trung tướng Nguyễn Văn Đức, Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam; Ngài Uladzimir Baravikou, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Belarus tại Việt Nam cùng đại diện các Bộ, ban, ngành…

Cac đại biểu thực hiện nghi thức cắt băng khai mạc Triển lãm “Những ký ức không quên”

Triển lãm nhằm ôn lại những ký ức không thể nào quên về cuộc chiến đấu anh dũng, kiên cường của Hồng quân Liên Xô và nhân dân Belarus trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước Belarus; những thành tựu trong hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam và Belarus trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thượng tá Lê Vũ Huy, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam cho biết, Triển lãm trưng bày hơn 200 tài liệu, hình ảnh với 3 nội dung: Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại; Belarus hồi sinh; Việt Nam - Belarus hợp tác cùng phát triển.

Cụ thể, phần mở đầu: Giới thiệu những hình ảnh tiêu biểu về địa danh, công trình của đất nước Belarus được tái thiết sau chiến tranh vệ quốc trở thành di sản văn hóa - những ký ức không thể lãng quên của nhân dân Belarus và nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới; những hình ảnh tiêu biểu phản ánh mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Nhà nước, Chính phủ, nhân dân và Quân đội Việt Nam - Belarus trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai đất nước.

Phần 1 với chủ đề “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”, giới thiệu những hình ảnh, tài liệu phản ánh tội ác của phát xít Đức đối với nhân dân Belarus trong chiến tranh xâm lược Belarus (1941-1944); cuộc chiến đấu anh dũng, ngoan cường của quân và dân Belarus trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại giải phóng đất nước.

 Các đại biểu tham quan Triển lãm “Những ký ức không quên”.

Phần 2 với chủ đề “Belarus hồi sinh”, trưng bày về những hình ảnh, các công trình văn hóa, di tích, các địa danh lịch sử của đất nước Belarus được tái thiết, khôi phục lại sau chiến tranh, những di sản văn hóa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp của đất nước Belarus.

Phần 3 với chủ đề “Việt Nam - Belarus hợp tác cùng phát triển”, trưng bày giới thiệu những hình ảnh, tài liệu, hiện vật tiêu biểu phản ánh về mối quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ giữa 2 quốc gia Việt Nam - Liên bang Xô Viết trước đây, Việt Nam và Belarus ngày nay trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước; góp phần duy trì môi trường hòa bình và ổn định, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế ở mỗi nước; thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống hai nước Việt Nam - Belarus lên tầm cao mới.

Triển lãm mở cửa đón khách tham quan từ ngày 02/7/2024 và kéo dài đến hết tháng 7/2024 tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, số 28A Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội./.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với tín dụng chính sách trong bối cảnh mới.

  Hội thảo tập trung trao đổi, thảo luận về thực trạng hoạt động của tín dụng chính sách xã hội sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW; phân tích các kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện.

Các đồng chí chủ trì Hội thảo.

Ngày 02/7/2024 Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Ngân hàng Chính sách xã hội tổ chức Hội thảo khoa học “Định hướng, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội trong bối cảnh mới mới” tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hà Nội.

Hội thảo có sự chủ trì của các đồng chí: Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Đào Minh Tú, Ủy viên HĐQT Ngân hàng Chính sách xã hội, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Dương Quyết Thắng, Ủy viên HĐQT Ngân hàng Chính sách xã hội, Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội. Tham dự hội thảo có hơn 200 đại biểu gồm đại diện một số ban, bộ, ngành; đại diện lãnh đạo các địa phương; các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý; các trường đại học và doanh nghiệp.

 
Đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu khai mạc Hội thảo.

Phát biểu khai mạc hội thảo, đồng chí Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn khẳng định mục tiêu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng. Tín dụng chính sách xã hội là một giải pháp sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc và phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu trên. Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội ra đời đã đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, góp phần đạt mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững, tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực, thu hẹp khoảng cách phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng cho rằng, bối cảnh, tình hình quốc tế tiếp tục diễn biến nhanh, mạnh, phức tạp và khó lường. Nhiều xu hướng mới xuất hiện như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; Cách mạng công nghiệp 4.0; những vấn đề an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… đang diễn biến ngày càng sâu sắc với những tác động nhiều chiều đến nền kinh tế nước ta. Tất cả những điều đó đang đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động của tín dụng chính sách xã hội và đặt ra những yêu cầu cần phải có những quan điểm mới, giải pháp mới đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội, nhất là nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của tín dụng chính sách xã hội.

Qua 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng hoạt động tín dụng chính sách xã hội vẫn còn có nhiều hạn chế, khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục. Với chức năng là cơ quan tham mưu, giúp việc Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Kinh tế Trung ương được Ban Bí thư giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW.

Tại Hội thảo, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và các đại biểu đã tập trung thảo luận, làm rõ hơn về ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của tín dụng chính sách xã hội đối với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó chỉ ra tính sáng tạo, tính nhân văn sâu sắc, tính XHCN của tín dụng chính sách xã hội.

Các đại biểu thảo luận tại Hội thảo. 

Các đại biểu cũng phân tích vai trò của tín dụng chính sách xã hội trong thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội; thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện…; phân tích, thảo luận, làm rõ thêm về các kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW như khó khăn về nguồn vốn, về cơ chế, chính sách đối với đối tượng cho vay, mức cho vay, lĩnh vực cho vay hay là sự phối hợp giữa các bên liên quan…

Các đại biểu cũng đã phân tích, thảo luận, làm rõ thêm bối cảnh mới trong nước và quốc tế, nhất là bối cảnh trong nước và những vấn đề đặt ra đối với tín dụng chính sách xã hội nhằm góp phần đạt được các mục tiêu đã đặt ra về giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội… Đồng thời đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, tính hiệu quả, bền vững của tín dụng sách xã hội, nhất là các quan điểm và cơ chế, chính sách mới nhằm tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội trong bối cảnh mới; thực hiện hiệu quả các giải pháp đã được đưa ra trong Chỉ thị 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW.

Hội thảo quy tụ các chuyên gia, nhà quản lý cùng thảo luận xung quanh các vấn đề về: huy động, phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn vốn; đối tượng thụ hưởng tín dụng chính sách xã hội; vai trò, hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội; bối cảnh tác động và những vấn đề đặt ra đối với tín dụng chính sách xã hội; định hướng và giải pháp tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

Phát biểu kết luật Hội thảo, PGS.TS Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định: Các ý kiến đều thống nhất khẳng định tín dụng chính sách xã hội là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước; là công cụ, giải pháp quan trọng để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách xã hội, bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng nấc thang phát triển; góp phần quan trọng đối với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tín dụng chính sách xã hội ngày càng và phát huy hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế; giảm nghèo nhanh, bền vững; xây dựng nông thôn mới; đảm bảo an sinh xã hội; ổn định chính trị, an ninh - quốc phòng; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền trên cả nước; góp phần thực hiện thành công chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.

Hình ảnh tại Hội thảo. 

PGS.TS Lê Văn Lợi cho rằng: Cần tiếp tục phổ biến, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt Chị thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06- KL/TW; tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với tín dụng chính sách xã hội; hoàn thiện cơ chế, chính sách về huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính, về đối tượng, địa bàn, mức cho vay, lãi suất vay… Cân đối, ưu tiên nguồn ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, đồng thời thu hút các nguồn vốn hợp pháp khác cho tín dụng chính sách xã hội. Tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành trong thực hiện tín dụng chính sách xã hội...Cần nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện tín dụng chính sách xã hội; chú trọng công tác sơ, tổng kết, nhân rộng các mô hình tốt, điển hình tiên tiến trong sử dụng hiệu quả vốn tín dụng chính sách xã hội./

 

Đối ngoại quốc phòng và đôi điều đúc rút trên chặng đường xây dựng, phát triển

Nhìn lại chặng đường 60 năm qua kể từ khi Cục Liên lạc Đối ngoại (tiền thân của Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng) được thành lập (ngày 28-5-1964), công tác đối ngoại quốc phòng (ĐNQP) đã đi từ không đến có, từ thắng lợi nhỏ đến thắng lợi lớn, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đến nay, Việt Nam đã mở rộng quan hệ ĐNQP với các quốc gia trên khắp năm châu, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn. Hoạt động hợp tác quốc phòng trên nhiều lĩnh vực như khoa học, công nghiệp quốc phòng, tổ chức tuần tra, giao lưu với lực lượng biên phòng và hải quân các nước, tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, khắc phục hậu quả bom, mìn và chất độc hóa học sau chiến tranh... được triển khai tích cực và mang lại hiệu quả thiết thực. Việt Nam cũng đã cùng các nước ký kết nhiều bản ghi nhớ hợp tác quốc phòng song phương đạt hiệu quả cao; tham gia các diễn đàn đa phương có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và cứu hộ, cứu nạn quốc tế. Những kết quả ấy đã góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của Quân đội ta trong mắt bạn bè quốc tế và đóng góp quan trọng vào việc bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Đối ngoại quốc phòng và đôi điều đúc rút trên chặng đường xây dựng, phát triển
Đoàn Tùy viên quân sự các nước tại Việt Nam dự Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh: HIẾU MINH 

Thành công nói trên là nhờ đội ngũ làm công tác ĐNQP đã quán triệt sâu sắc các đường lối, quan điểm đối ngoại của Đảng qua các kỳ đại hội Đảng toàn quốc và nghị quyết của Đại hội Đảng bộ toàn quân qua các thời kỳ, đồng thời nỗ lực hết sức mình trong nghiên cứu, tham mưu, đề xuất các nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu liên quan tới đối ngoại.

Tuy vậy, nếu đánh giá một cách thẳng thắn, 60 năm qua còn có những thời điểm chúng ta làm được chưa nhiều, chưa tốt. Điển hình như sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, có lúc, có lần ĐNQP tham mưu để tổ chức cho đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng đi thăm, đi công tác đạt hiệu quả chưa cao. Bên cạnh đó, đôi khi còn thiên về lễ tân mà quên đi nội dung hết sức quan trọng là cần tham mưu về đối sách như thế nào với “đối tác", "đối tượng”.

Việc hướng dẫn cho toàn quân trong triển khai công tác ĐNQP cũng có khi còn biểu hiện sơ sài, đơn giản, làm cho các cơ quan đối ngoại cấp cơ sở lúng túng trong quá trình xử lý những vấn đề cụ thể. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân trực tiếp và quan trọng hơn cả là có lúc chúng ta quán triệt chưa thật sâu sắc quan điểm của Đảng, từ đó biến thành nhận thức để nâng tầm nghiên cứu, tư duy chiến lược. Theo kinh nghiệm của thế hệ những người từng nhiều năm gắn bó với công tác ĐNQP như chúng tôi, sau khi quán triệt rồi thì phải đào sâu suy nghĩ, đọc rất nhiều về quan điểm, chính sách của “đối tác", "đối tượng” thì mới tham mưu, đề xuất đúng và trúng. Ngược lại, nếu không đọc, không suy nghĩ thì sẽ dẫn tới lối mòn, sáo rỗng, hoặc phân công, phân nhiệm không cụ thể dẫn tới thiên việc này, bỏ việc khác...

Cũng cần nhấn mạnh lại rằng, việc hướng dẫn phải tận tình, chu đáo hơn để các cơ quan ĐNQP cấp cơ sở không rơi vào trạng thái lúng túng khi triển khai nhiệm vụ. Nhớ lại một lần tàu bạn vào thăm cảng Tiên Sa của Đà Nẵng, hôm ấy bất ngờ thủy triều xuống thấp nên bạn không thể cho tàu lớn vào cảng. Rất may có sĩ quan của Cục Đối ngoại tham gia đón đoàn và kịp thời báo cáo. Sau đó, tôi chấp nhận chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và cho phép Cục Đối ngoại thuê tàu du lịch để chở bạn vào thăm đúng kế hoạch. Nêu ví dụ đó để thấy, trong một số tình huống “ngoài kịch bản” rất cần sự hướng dẫn cụ thể, xử trí linh hoạt để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ đối ngoại được giao.

Về lễ tân cũng cần có bước chuyển mới sao cho phù hợp. Tôi nhớ lần tháp tùng Đại tướng Phạm Văn Trà, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thăm Mỹ, Brazil và Bỉ, nghi thức của từng nước khác nhau. Chúng tôi bay từ Brazil về Paris (Pháp), rồi lại đi tàu hỏa sang Brussels (Bỉ). Bộ trưởng bạn cùng các sĩ quan tùy tùng với cờ hoa đón đoàn ta tại ga xe lửa rất chân tình. Nhưng bữa sáng hôm sau, bạn chỉ bố trí một lát bánh mì và một lát thịt lạnh để Bộ trưởng ta ăn sáng. Do đã nghiên cứu kỹ tập quán và lễ tân của phía bạn, anh em Cục Đối ngoại mang theo đồ ăn tối thiểu để có thể nấu nóng cho Bộ trưởng dùng. Nhưng Đại tướng Phạm Văn Trà nhắc tôi: “Chúng ta xác định đi công tác thì phải cố gắng để phù hợp với bạn. Tôi còn khỏe, các chú đừng quá lo!”. Lời dặn đó của Đại tướng Phạm Văn Trà tôi cứ nhớ mãi và nay nhắc lại cho thế hệ sau làm kinh nghiệm.

Trong điều kiện tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, mau lẹ, khó lường như hiện nay, những người trực tiếp làm công tác ĐNQP càng cần phải quán triệt thật sâu sắc quan điểm Đại hội lần thứ XIII của Đảng và học tập bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng (tháng 12-2021) để từ đó nâng tầm tư duy và chủ động tham mưu đúng, trúng. Chẳng hạn, cùng một khuôn khổ quan hệ nhưng với đối tác này và đối tác khác thì hàm lượng có thể khác nhau. Nếu không có tư duy tốt sẽ dẫn tới lúng túng trong tham mưu, đề xuất các nội dung và hoạt động hợp tác liên quan tới ĐNQP.

Chặng đường 60 năm xây dựng và phát triển tuy chưa dài nhưng cũng không hề ngắn đối với một đơn vị như Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng. Mỗi cán bộ, sĩ quan, nhân viên làm công tác ĐNQP cần tiếp tục nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tự đào tạo và hoàn thiện bản thân, tự nâng tầm tư duy để tham mưu kịp thời, chính xác và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ ĐNQP ngày càng tốt hơn, xứng đáng với truyền thống của đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Trung tướng PHẠM THANH LÂN

Nguyên Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng

 

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới! (tiếp theo và hết)

Đối ngoại Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới của truyền thống ngoại giao dân tộc. Trong thời đại mới, đối ngoại Đảng cần tiếp tục thể hiện rõ vai trò tiên phong, dẫn dắt nền ngoại giao nước nhà. Thông qua kết quả đối ngoại Đảng và uy tín, vị thế của Đảng để vừa tập hợp lực lượng trong và ngoài nước, huy động mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước; vừa đề cao trách nhiệm, góp phần xây dựng hòa bình thế giới và sự tiến bộ nhân loại.

1. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung, nhưng thế giới đã, đang và sẽ trải qua nhiều biến động lớn, phức tạp hơn so với dự báo. Toàn thế giới đã đoàn kết cùng nhau bước qua đại dịch Covid-19, nhưng chuỗi sản xuất, trao đổi dịch vụ thế giới sẽ có những thích ứng mới trước tình trạng đứt gãy các chuỗi cung ứng và sự bất ổn trong quan hệ giữa các nền kinh tế lớn; liên kết kinh tế gia tăng trong khu vực, giữa một số nước. Cạnh tranh giữa các nước lớn, vấn đề xung đột Nga-Ukraine; giữa Nga và Liên minh châu Âu, giữa Iran và Israel diễn ra rất gay gắt, tác động sâu sắc đến cục diện an ninh chính trị thế giới.

Các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống đặt ra nhiều thách thức chưa từng có cho phát triển kinh tế-xã hội của nhiều nước. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục là động lực chính trong quá trình phục hồi kinh tế thế giới, song cũng là một trong những trọng tâm của cạnh tranh nước lớn. Khu vực Đông Nam Á đang được các nước trong và ngoài khu vực ngày càng coi trọng, tích cực can thiệp, tạo ảnh hưởng; trong khi nội bộ khu vực vẫn còn những vấn đề chưa thống nhất.

Trước tình hình đó, tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đối ngoại Việt Nam nói chung, đối ngoại Đảng nói riêng cần tiếp tục phát huy mạnh mẽ trường phái ngoại giao “cây tre”, gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển; thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược.

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới! (tiếp theo và hết)

Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì lễ đón trọng thể Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, ngày 20-6-2024. Ảnh: TRỌNG HẢI

Là một trụ cột quan trọng trong mặt trận đối ngoại của đất nước, đối ngoại Đảng tập trung sức lãnh đạo nhằm đẩy mạnh, nâng tầm nhiều mặt. Trước hết, vị trí, vai trò đối ngoại Đảng phải được coi trọng, đánh giá đúng tầm mức; nhất là trong việc góp phần củng cố nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước; duy trì và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển của đất nước; đóng góp vào thành công chung của công tác đối ngoại; nâng cao vị thế, uy tín của Đảng và đất nước trên chính trường quốc tế. 

Thực hiện nhất quán chủ trương Đại hội XIII của Đảng: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Theo đó, mỗi trụ cột đối ngoại đều có vai trò, sứ mệnh riêng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước. 

Trong đó, đối ngoại Đảng có 3 nhiệm vụ đặc biệt quan trọng cần quan tâm lãnh đạo, thực hiện thắng lợi: 1. Tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, các quyết sách về những vấn đề đối ngoại quan trọng; 2. Triển khai các hoạt động đối ngoại nhằm phát triển quan hệ với các chính đảng góp phần củng cố nền tảng chính trị cho quan hệ của Việt Nam với các nước; xây dựng khuôn khổ, định hướng quan hệ, xử lý nhiều vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác quan trọng; 3. Quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại của toàn bộ hệ thống chính trị, chỉ đạo công tác đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân từ Trung ương đến cơ sở. Theo đó, trong điều kiện mới, đối ngoại Đảng tiếp tục phát huy vai trò và thế mạnh; triển khai một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm, với nhiều nội dung mang tính đột phá cả trước mắt, lẫn lâu dài.

2. Để làm được điều đó, cần phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tham gia tiến hành công tác đối ngoại Đảng. Mỗi tổ chức Đảng, mỗi đảng viên phải đề cao vai trò, trọng trách của mình như một “sứ giả của tình hữu nghị”; góp phần làm đẹp thêm hình ảnh người đảng viên Đảng Cộng sản, đồng thời nâng cao uy danh, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong các hoạt động đối ngoại Đảng, cùng với sự tham gia của lãnh đạo cao nhất của Đảng là đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, cần sớm nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, tạo điều kiện cho các hoạt động đối ngoại Đảng của các ban Đảng và các tỉnh ủy, thành ủy cho đến tổ chức Đảng nhỏ nhất và từng đảng viên.

Tăng cường hơn nữa các chuyến thăm hữu nghị cấp cao, gặp gỡ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các chính đảng, các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, Đảng quan tâm hơn nữa đến việc cử đại diện tham gia sự kiện quốc tế, khu vực và nhất là với các nước láng giềng; tăng cường các hình thức điện đàm, hội đàm, gặp gỡ, hội nghị đa phương trực tiếp hoặc trực tuyến ở các cấp.

Đối với các ban Đảng, các cấp, các ngành, cần chú trọng hơn đến việc gặp gỡ, đối thoại, trao đổi trên kênh song phương và đa phương; đào tạo cán bộ, ký kết các thỏa thuận hợp tác, kết nghĩa giữa các địa phương của Việt Nam và các nước trên thế giới... Coi trọng triển khai, thực hiện hiệu quả các thỏa thuận, chương trình hợp tác đã ký kết giữa các Đảng bộ trực thuộc Trung ương với các đảng đối tác để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại Đảng.

Đóng góp chung vào những thành công của đối ngoại Đảng, có vai trò quan trọng của hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam, cán bộ, đảng viên làm công tác đối ngoại ở nước ngoài mà phần đông là các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Thật đáng ghi nhận vì đến nay, Việt Nam đã có gần 100 cơ quan đại diện ở nước ngoài, trải khắp các châu lục và ở mỗi cơ quan này đều đã thành lập tổ chức Đảng lãnh đạo một cách trực tiếp, toàn diện.

Đây là lực lượng tuyến đầu thực hiện công tác thông tin đối ngoại tại địa bàn ngoài nước; do vậy, các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên thực hiện nhiệm vụ ở nước ngoài cần đề cao vai trò, trách nhiệm, tích cực quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, về vai trò, sứ mệnh, bản chất tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam đến với bạn bè quốc tế; đồng thời thu thập những thông tin có chọn lọc về tình hình, sự phát triển của thế giới, khu vực, về các vấn đề được dư luận và nhân dân trong nước quan tâm; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; tạo sự đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước; kêu gọi, thu hút sự hợp tác, hỗ trợ của thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

3. Trong một thế giới đa cực, diễn biến phức tạp, mau lẹ, các cấp cần tiếp tục đổi mới hơn nữa nội dung, phương thức hoạt động, không ngừng nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại Đảng, với phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", "chủ động linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, bảo đảm phối hợp tổng thể, chặt chẽ, đồng bộ giữa các trụ cột đối ngoại. Phát huy vai trò của đối ngoại Đảng trong thúc đẩy bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược đáp ứng đúng và trúng yêu cầu của tình hình mới.

Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, nhất là các vấn đề tác động trực tiếp, lâu dài đến an ninh và phát triển đất nước. Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc và dự báo đúng tình hình để kịp thời có đối sách và giải pháp phù hợp. Tích cực triển khai, hiện thực hóa các đề án, chiến lược lớn trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng, trong đó có Nghị quyết về những định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược Đối ngoại Việt Nam đến năm 2030. Đồng thời, không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại phù hợp với tình hình mới; tăng cường tính chủ động, tính chiến lược và tính đồng bộ, toàn diện trong tất cả các khâu, từ nghiên cứu dự báo đến tham mưu, xử lý các vấn đề đối ngoại và tổ chức, triển khai các hoạt động đối ngoại Đảng.

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới! (tiếp theo và hết)

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiếp Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Masatsugu Asakawa, chiều 13-3-2024. Ảnh: TRỌNG HẢI

Phát huy mạnh mẽ vai trò đầu mối trong quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại của toàn bộ hệ thống chính trị, nâng cao tính thiết thực, hiệu quả của các hoạt động đối ngoại Đảng. Tập trung mở rộng và phát triển về chiều sâu các mối quan hệ đối ngoại của Đảng, tăng cường sự tin cậy, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương. 

Tiếp tục tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện và tin cậy với các đảng cầm quyền ở các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ vào chiều sâu, củng cố sự tin cậy chính trị, tạo nền tảng chính trị vững chắc, giữ vai trò định hướng chiến lược cho quan hệ song phương; đồng thời, phát huy mạnh mẽ lợi thế đặc thù của kênh đối ngoại Đảng để góp phần giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong quan hệ song phương với các nước này. 

Cùng với đó, cần tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính, đảng có vị trí và vai trò quan trọng trong việc hình thành và triển khai chính sách của các nước đối với Việt Nam; tăng cường thực chất quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân có vị trí, vai trò trên chính trường các nước, có nhiều ảnh hưởng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và ở từng khu vực để tạo lực lượng hậu thuẫn chính trị.

Tiếp tục phát huy vai trò của đối ngoại Đảng để đóng góp thiết thực cho công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là việc tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Đảng, kinh nghiệm lãnh đạo, điều hành đất nước. Đồng thời, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, tranh thủ sự đoàn kết và ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao uy tín quốc tế, vị thế của Đảng và đất nước, tạo thuận lợi cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.

Để đáp ứng yêu cầu của công tác đối ngoại Đảng trong thời kỳ mới, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, bản lĩnh và trí tuệ, hiện đại, chuyên nghiệp về phong cách, phương pháp làm việc, có tinh thần đổi mới, sáng tạo; quyết liệt phòng, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xuống cấp về đạo đức, lối sống trong đội ngũ làm công tác ngoại giao.

Tiếp tục coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác cán bộ, trong đó có đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ ngoại giao, nhất là với cán bộ cấp chiến lược, lãnh đạo, quản lý; từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia có trình độ đạt tầm khu vực và quốc tế. Kiện toàn tổ chức, bộ máy ngành ngoại giao Đảng tinh gọn, khoa học, hợp lý và hiệu quả. Đẩy mạnh hiện đại hóa, chuyển đổi số ngành ngoại giao Đảng.

Nhóm Phóng viên Báo QĐND