Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

 

Vừa qua, trên trang “Baotiengdan”, Kim Văn Chính đăng bài viết: “Kiềng ba chân: Lý thuyết và thực tế ở Việt Nam”, cho rằng, mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với ba cơ quan: lập pháp, hành pháp, tư pháp, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang rối như canh hẹ, vừa chồng chéo chức năng, vừa làm sai quyền lực, dẫn đến rối loạn Nhà nước; kêu gọi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội; thực hiện mô hình Nhà nước tam quyền phân lập. Thực tế, Kim Văn Chính đang cố tình và ra sức xuyên tạc mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cổ suý cho mô hình Nhà nước tư sản.

Một là, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Hai là, Học thuyết “tam quyền phân lập” được áp dụng trong tổ chức bộ máy của nhà nước tư sản mặc dù có mang lại một số mặt tích cực, cần được nghiên cứu, tham khảo, nhưng, không nên vì thế mà cường điệu hóa, lý tưởng hóa và xem nó như là chìa khóa vạn năng của “dân chủ – pháp quyền”, của kiểm soát quyền lực nhà nước và ngăn ngừa tham nhũng với những lý do sau đây:

Thứ nhất, về phương diện lý luận, “tam quyền phân lập” là một học thuyết phức tạp, đa chiều, là sản phẩm của nền dân chủ phương Tây, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của kiểu tổ chức quyền lực nhà nước phong kiến, với quan niệm quyền lực nhà nước không được tập trung vào một người hay một cơ quan mà được cấu thành từ ba quyền cơ bản lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba quyền được giao cho các cơ quan khác nhau, có nhiệm vụ, quyền hạn độc lập tương đối với nhau. Giữa ba quyền này có sự kiểm soát, đối trọng lẫn nhau. Với quan niệm đó, học thuyết phân quyền là sự phủ định biện chứng đối với các nhà nước chuyên chế tập quyền.

Thứ hai, về phương diện thực tiễn, do những hạn chế của học thuyết “tam quyền phân lập” mà mức độ, tính chất và đặc điểm của sự thể hiện và áp dụng nó trong thực tế có sự khác nhau ở mỗi kiểu nhà nước, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như trình độ dân chủ, truyền thống dân tộc, cũng như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Sự áp dụng học thuyết này trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống khác với chính thể cộng hòa đại nghị hoặc chính thể cộng hòa hỗn hợp; trong hình thức cấu trúc nhà nước liên bang khác với hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất.

Thứ ba, về bản chất và nguồn gốc của quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước là thống nhất; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước là không thể phân chia; các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Như vậy, tư tưởng tam quyền phân lập đối lập với bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Vì thế, Việt Nam chỉ tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các mô hình Nhà nước tiến bộ trên thế giới và vận dụng phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, trong đó có mô hình Nhà nước tam quyền phân lập, chứ không sao chép nguyên bản bất cứ mô hình Nhà nước nào.

Như vậy, Kim Văn Chính kêu gọi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước; thực hiện mô hình Nhà nước tam quyền phân lập, là đi ngược lại chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta. Chúng ta, cần kiên quyết đấu tranh, vạch rõ bộ mặt xảo trá của chúng để nhân dân hiểu rõ và cảnh giác.

CHIÊU BÀI “TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ”

 

 Nhiều năm qua, giới “dân chủ” vẫn liên tục sử dụng vỏ bọc “tù nhân chính trị” để khoác lên mình những kẻ có hành vi chống phá đất nước. Bằng thủ đoạn này, các đối tượng xấu đã tô hồng, tẩy trắng cho các đối tượng vi phạm pháp luật, đồng thời tạo cớ để bôi lem, vấy bẩn đất nước.

Vừa qua, cái gọi là “Tiếng dân news” - một trang mạng được điều hành bởi các đối tượng “dân chủ” đã tung ra bài viết “Hãy trả tự do cho tù nhân chính trị ở Việt Nam”. Trong bài viết, hàng loạt cái tên từng nổi đình nổi đám trong giới “dân chủ”, hiện đã bị kết án và đang phải chấp hành hình phạt được liệt kê như: Trần Huỳnh Duy Thức, Trương Văn Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Bùi Tuấn Lâm, Huỳnh Trương Ca… Theo mô-típ quen thuộc, chúng rêu rao cho rằng: “các cơ quan tư pháp ở Việt Nam kết án với những “nhà hoạt động” là không công bằng”, “các “tù nhân chính trị” bị bắt giữ một cách tùy tiện chỉ vì đấu tranh cho dân chủ”, “các blogger và nhà hoạt động nhân quyền hằng ngày phải đối mặt với nạn sách nhiễu, đe dọa, theo dõi và thẩm vấn của công an”, “ở Việt Nam hiện có hơn 160 tù nhân chính trị bị giam giữ chỉ vì đã thực hiện các quyền cơ bản của mình”… Bằng những luận điệu sai trái này, các đối tượng xấu kêu gào “các nhà tài trợ và đối tác quốc tế cần gây sức ép với Việt Nam”. Vậy là đã rõ, đằng sau các luận điệu tưởng chừng như đầy nhân văn thực chất là mưu đồ “cõng rắn cắn gà nhà”, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài tìm cách gây sức ép, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Tù nhân chính trị là cụm từ không còn quá xa lạ với người dân Việt Nam. Là một quốc gia từng bị thực dân xâm lược, từng phải sống trong cảnh lầm than nô lệ, nhiều thế hệ người Việt đã vùng lên đấu tranh để giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Trong cuộc kháng chiến vệ quốc của nhân dân Việt Nam, không ít người đã trở thành tù nhân chính trị. Thậm chí, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Nữ anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu là một tấm gương như vậy. Ngoài ra, những câu chuyện về các tù nhân chính trị bị thực dân, đế quốc giam cầm tại các nhà tù Hỏa Lò, Côn Đảo, Phú Quốc… cho đến nay vẫn là nỗi ám ảnh với nhiều người.

Vậy tù nhân chính trị là ai? Một câu trả lời đơn giản, tù nhân chính trị là những người bị kết án, bị giam cầm nhưng không trải qua quá trình xét xử công bằng; mặc dù hành vi của họ là tốt đẹp, vì mục đích thúc đẩy sự phát triển của xã hội nhưng vẫn bị kết án chỉ vì đi ngược lại lợi ích của giai cấp thống trị; việc giam cầm các tù nhân chính trị được giới cầm quyền thực hiện vô cùng khốc liệt, bị đàn áp dã man và đối xử vô nhân đạo. Nói cách khác, tù nhân chính trị xuất hiện trong một xã hội có giới cầm quyền không bảo đảm tính chính danh, hợp pháp, quản lý xã hội không dựa trên pháp luật, không bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng mà chỉ phục vụ cho chính mình. Ngược lại, người bị kết án là những người ngay thẳng, dám đứng lên đấu tranh với các bất công trong xã hội để bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của bản thân nói riêng và của cộng đồng nói chung.

Không khó để nhận thấy, các đối tượng “dân chủ” đang cố tình lấp liếm, đánh tráo khái niệm, sử dụng cụm từ “tù nhân chính trị” để đánh lừa dư luận. Phải khẳng định rõ, ở Việt Nam hiện nay không có “tù nhân chính trị”. Tất cả những người bị kết án đều được thực hiện theo một quy trình tố tụng nghiêm ngặt. Việc một người nào đó bị kết án là hậu quả trực tiếp do hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Pháp luật nước ta vô cùng rõ ràng. Các quy định về tội phạm và hình phạt đều được cụ thể hóa trong Bộ luật Hình sự và công khai đến tất cả mọi người. Ngay trong khoản 1 Điều 2 Bộ luật Hình sự cũng khẳng định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Quay lại với những cái tên được giới “dân chủ” liệt kê vào nhóm “tù nhân chính trị”, như Trần Huỳnh Duy Thức, Trương Văn Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Bùi Tuấn Lâm…, chúng ta không khỏi cảm thấy nực cười. Trước hết, phải khẳng định rõ, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước hoàn toàn chính danh, hợp pháp. Sự ra đời của Nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ và cũng vô cùng đau thương của nhiều thế hệ người Việt. Từ khi khai sinh cho đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tin tưởng và ủng hộ của quần chúng nhân dân, Nhà nước ta đã đồng hành cùng dân tộc và đạt được nhiều kết quả toàn diện trên tất cả lĩnh vực. Ấy vậy, những kẻ tự phong cho mình cái mác “tù nhân chính trị” lại núp dưới bóng “dân chủ”, “nhân quyền” để tấn công chế độ, tấn công Nhà nước, xâm phạm lợi ích của quốc gia. Mục đích của những kẻ này không phải là để đất nước phát triển mà chỉ nhằm kích động mâu thuẫn, phá hoại nền hòa bình, ổn định của đất nước. Nói cách khác, chúng đang đi ngược lại lợi ích chung của toàn dân tộc.

Lịch sử Việt Nam cho thấy, tù nhân chính trị chân chính đều là những người giàu lòng yêu nước, được toàn dân tộc ủng hộ, ngợi ca. Ngược lại, những kẻ “tù nhân chính trị” tự phong chỉ là các con rối trên bàn cờ chính trị, được các thế lực xấu sử dụng nhằm gây nhiễu loạn đất nước. Nhân dân ta hết sức tinh tường, những kẻ giả danh “dân chủ”, núp bóng “nhân quyền” dù được khoác lên tấm áo “tù nhân chính trị” hay “tù nhân lương tâm” cũng không thể che đậy bản chất chống phá. Do vậy, chúng sẽ bị xã hội ghét bỏ, người dân quay lưng. Đó là điều chắc chắn.

QUY LUẬT ĐÀO THẢI VÀ PHÁT TRIỂN

 

 “Trời ơi sao chẳng ai chịu vào Đảng hết vậy” là tựa bài của blogger Nguyễn Nhơn - một cộng tác viên thường xuyên của trang truyền thông chống cộng RFA. Trong bài viết sặc luận điệu chống phá này, Nguyễn Nhơn rút tít phụ: “Vào đảng cho trong sạch quần chúng” và “Đi họp cho mất thời giờ”. Tít thì có vẻ gây chú ý, nhưng nội dung bài viết thì vô cùng nhạt nhẽo và không thể coi là một bài báo. Điều này thể hiện năng lực tư duy của tác giả cũng như năng lực thẩm định nội dung của người quản lý trang đều quá thấp. Không biết có phải trang RFA “đo gang trả nhuận bút” hay không mà tác giả bài viết liệt kê các thủ tục kết nạp Đảng với rất nhiều bước mà không biết rằng, việc làm ấy đang phản lại luận điệu chê bai, dè bỉu của mình. Bởi từ một quần chúng ưu tú, để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải trải qua các bước rất chặt chẽ và phải có đủ thời gian rèn luyện, vượt qua thử thách. Các đánh giá, nhận xét của tác giả cũng hoàn toàn vô căn cứ khi viết rằng: “Không có con số thống kê chung cho cả Đảng, nhưng đấy là tình hình chung từ độ chục năm nay. Có chi bộ cả năm không kết nạp được đảng viên nào, nhiều chi bộ chỉ kết nạp được tỷ lệ rất thấp so với chỉ tiêu”. Một lần nữa, chính tác giả Nguyễn Nhơn và trang RFA lại thể hiện sự mâu thuẫn trong lập luận của mình. Bởi ngay trên trang này, ngay với tác giả Nguyễn Nhơn trước đó có rất nhiều bài viết chê bai việc “phát triển đảng viên ào ào”, rằng “ai thích vào Đảng thì giơ tay”, “bị ép vào Đảng”… Nếu vào Đảng dễ đến thế thì làm sao có chuyện “Có chi bộ cả năm không kết nạp được đảng viên nào, nhiều chi bộ chỉ kết nạp được tỷ lệ rất thấp so với chỉ tiêu” như bài viết mô tả!? Vậy là với trang chống cộng RFA cùng những kẻ sống bằng nghề bồi bút cho phương Tây, chẳng có việc gì Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam đã, đang làm khiến chúng “vừa mắt” cả!

Ngay từ những ngày Đảng ta mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, rèn luyện Đảng ta đã khẳng định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” và “vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân”. Chính vì vậy, việc xác định động cơ vào Đảng ở mỗi quần chúng là rất quan trọng. Đây luôn là vấn đề được các cấp ủy đảng đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định để người xin vào Đảng được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam hay không. Tuyệt nhiên không có chuyện vào Đảng rồi là đã xong. Bởi Đảng Cộng sản Việt Nam có rất nhiều quy định, có cả một hệ thống tổ chức chặt chẽ để quản lý tổ chức đảng và đảng viên cũng như giám sát hoạt động thường xuyên của các tổ chức cơ sở đảng. Tổ chức đảng sẽ kịp thời phát hiện và đào thải những cá nhân trong quá trình công tác phạm vào các quy định của Đảng như tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Việc duy trì sinh hoạt Đảng hằng tháng là một trong những quy định bắt buộc để tổ chức đảng quản lý, giám sát đảng viên. Vậy mà một kẻ không hiểu gì về nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam như Nguyễn Nhơn lại la làng lên rằng “đảng viên đều phải đóng đảng phí”; “mỗi tháng phải tham gia họp chi bộ định kỳ, chưa kể các buổi họp bất thường…”.

Thực tế, chúng ta không phủ nhận hiện nay vẫn còn tình trạng một bộ phận đảng viên trẻ do hoàn cảnh khó khăn, làm ăn xa nên bỏ sinh hoạt Đảng; cũng không phủ nhận một bộ phận đảng viên từng giữ các chức vụ quan trọng, khi nghỉ hưu lại suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “đổi giọng”, “trở cờ” quay sang chỉ trích, chê bai, nói xấu Đảng, có người trở thành mồi ngon cho các trang truyền thông chống cộng khai thác để chống phá đất nước. Song đây cũng chỉ là hiện tượng đơn lẻ, không thể nhìn vào hiện tượng ấy rồi quy kết, xuyên tạc như tác giả Nguyễn Nhơn.

Chẳng riêng gì Đảng Cộng sản Việt Nam, bất cứ tổ chức nào, ở quốc gia nào cũng có vào, có ra, có lên, có xuống. Vào Đảng là tự nguyện và phải phấn đấu, rèn luyện mới được kết nạp. Khi trở thành đảng viên, nhưng do hoàn cảnh cá nhân, hoặc vì lý do khác, không thể tiếp tục sinh hoạt thì xin ra khỏi Đảng. Trường hợp vi phạm quy định sinh hoạt Đảng không có lý do thì tổ chức sẽ gạch tên. Đó là quy luật đào thải và phát triển.

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH

 

Sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã là một nhiệm vụ lớn đang được các địa phương thực hiện. Núp dưới danh nghĩa phản biện xã hội, không ít đối tượng xấu đã tung ra những thông tin sai lệch, phiến diện, xuyên tạc về việc sắp xếp đơn vị hành chính để kích động sự bất ổn xã hội.

Sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã đang là nội dung nhận được sự quan tâm lớn từ dư luận. Bên cạnh đại đa số ý kiến tán thành, còn một số ý kiến băn khoăn về vấn đề này. Lợi dụng điều này, các đối tượng xấu đã tung ra nhiều luận điệu độc hại, sai trái, xuyên tạc như: “Nhiều địa danh lịch sử trên cả nước sắp bị biến mất do các tỉnh nhập tách đơn vị hành chính. Nếu rảnh rỗi quá thì nên đọc lại sách tiểu học để cập nhật kiến thức và khỏi tốn thời gian làm chuyện ruồi bu”, “sắp xếp lại đơn vị hành chính là điều không cần thiết, gây phiền hà cho người dân, tốn kém ngân sách”, “xét về văn hóa, xóa bỏ tên làng, xã, huyện còn dã man hơn cả giặc phương Bắc ngày xưa đập bia, đốt sách nước Nam”, “việc sắp xếp đơn vị hành chính được thực hiện nóng vội, chủ quan, không phù hợp với thực tiễn”… Bằng những giọng điệu tiêu cực như nêu trên, các đối tượng xấu đang cố tình kích động sự hoang mang, bất đồng trong xã hội.

Xuất phát từ thực trạng nhiều đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã quy mô quá nhỏ, không gian phát triển bị chia cắt, gây nhiều khó khăn, cản trở trong việc phát triển kinh tế - xã hội, làm phân tán nguồn lực đầu tư, tạo ra tổ chức bộ máy cồng kềnh…, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24-12-2018 về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Mục tiêu của việc sắp xếp đơn vị hành chính là để tổ chức hợp lý đơn vị hành chính các cấp phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước; bảo đảm hoàn thiện thể chế về đơn vị hành chính, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, góp phần phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.Quá trình triển khai việc sắp xếp đơn vị hành chính được thực hiện thận trọng, theo từng lộ trình rõ ràng. Tổng kết việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019-2021 cho thấy, việc sắp xếp này đã góp phần tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, giảm chi ngân sách nhà nước, mở rộng không gian phát triển, phát huy tiềm năng, lợi thế của các địa phương. Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, ngày 30-1-2023, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 48-KL/TW về tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030. Đến ngày 12-7-2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030. Đây là những cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để triển khai việc sắp xếp đơn vị hành chính.

Việc sắp xếp đơn vị hành chính được thực hiện một cách dân chủ, đúng quy định pháp luật. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân được chú trọng, góp phần tạo sự đồng thuận, ủng hộ, thống nhất cao từ cộng đồng. Đồng thời, việc tổ chức lấy ý kiến cử tri trên địa bàn được triển khai bảo đảm công khai, minh bạch. Mặt khác, nghị quyết của Quốc hội cũng quy định rõ việc đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp phải bảo đảm đoàn kết dân tộc, phù hợp các yếu tố lịch sử, truyền thống, văn hóa của địa phương và tôn trọng ý kiến của đa số cử tri. Đây là những căn cứ quan trọng bác bỏ luận điệu xuyên tạc, chống phá đang được các đối tượng xấu rêu rao.

Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã là vấn đề khó, phần nào ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Tuy nhiên, đây là việc cần thiết phải tiến hành để các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã phù hợp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

NHIỆM VỤ THIÊNG LIÊNG CAO CẢ

 

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và gắn bó chặt chẽ với quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Điều 1, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 chỉ rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”.  Điều 11 Hiến pháp cũng khẳng định: “Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”. Để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác có hiệu quả với những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái, lợi dụng vấn đề lãnh thổ, chủ quyền, biên giới của các thế lực thù địch, chúng ta cần làm tốt một số giải pháp sau: 

 

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về tầm quan trọng của việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia hiện nay. Đây là giải pháp mang tính nền tảng và phải được đặt lên hàng đầu bởi sức mạnh của nhân dân luôn là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại. Do đó, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, hiểu rõ những quy định pháp lý về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của Việt Nam; về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ động, tích cực tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là quần chúng nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thế hệ trẻ nhận thức rõ, hiểu đúng, đủ mục đích, dã tâm, âm mưu, thủ đoạn, cũng như các quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng để chống phá, xuyên tạc vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của Đảng, Nhà nước ta hiện nay… Qua đó, tạo “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn đó cho nhân dân.

Hai là, đề cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong chủ động, tích cực đấu tranh làm thất bại các luận điệu xuyên tạc, phản động về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Cụ thể, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch. Kịp thời đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá, mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ, kích động di dân tự do; âm mưu chia rẽ giữa cấp ủy, chính quyền địa phương với nhân dân, chia rẽ đồng bào các dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân. Quan tâm, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm cuộc sống, lao động, sản xuất ổn định, được thụ hưởng các giá trị văn hóa tốt đẹp cho đồng bào các dân tộc trên khu vực biên giới. Nâng cao trình độ dân trí, cung cấp đầy đủ, khách quan, kịp thời những thông tin cần thiết để người dân ở khu vực biên giới thuận lợi trong việc tiếp nhận, nắm, biết rõ mọi vấn đề.

Ba là, đa dạng các hình thức tuyên truyền, vận động. Kiên quyết xử lý các đối tượng có hành vi sai trái, xuyên tạc về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia và quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Chủ động, tích cực đăng tải các bài viết trên những phương tiện thông tin, nhất là trên internet, mạng xã hội, thể hiện rõ lập trường, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đối với những vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.  Tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin, các giải pháp kỹ thuật để tìm kiếm, ngăn chặn, bóc gỡ những thông tin độc hại về tình hình chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Xử lý kiên quyết các đối tượng đăng tải, bình luận sai lệch, chia sẻ các bài viết, video, hình ảnh có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phản động chống phá quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

 

 Bốn là, bố trí, sắp xếp đưa dân ra khu vực biên giới, quy hoạch thành các cụm, điểm dân cư, từng bước phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới. Xây dựng, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất giữa cấp ủy, chính quyền địa phương với các đơn vị quân đội, công an trên địa bàn khu vực biên giới. Cấp ủy, chính quyền các địa phương trên khu vực biên giới cần tăng cường rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, đồng thời bố trí lại dân cư trên tuyến biên giới. Có chính sách đặc thù về dân số, phát triển dân số khu vực biên giới; ưu tiên việc phát triển dân cư tại chỗ kết hợp với đưa dân cư từ các địa bàn khác đến khu vực biên giới, hình thành các cụm dân cư, như: “Điểm dân cư liền kề chốt dân quân biên giới”, “điểm dân cư liền kề đồn, trạm và chốt biên phòng”, tiến tới hình thành thôn, bản, phum, sóc biên giới ổn định, bền vững. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành các trung tâm dân cư trên toàn tuyến biên giới để xây dựng lực lượng bảo vệ, chiến đấu tại chỗ, tạo thế vững chắc cho địa bàn biên giới phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh, tạo thế trận biên phòng toàn dân bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; là vấn đề cực kỳ thiêng liêng, nhưng cũng hết sức khó khăn, phức tạp và nhạy cảm. Các luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động về vấn đề này, bản chất là những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, mục đích nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, chúng ta phải luôn cảnh giác, đồng thời, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn thâm độc của chúng, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới